LUẬN BINH PHÁP TÔN TỬ TRONG NAM TIẾN
và
PHÁT SÚNG NGUYỄN VĂN
THIỆU..pằng.. ..!
NGUYỄNDUYTHÀNH
Lịch sử viết về cố Tổng Thống
Việt Nam Cộng Hòa: Nguyễn Văn Thiệu thật nhiều,
nếu đem xếp lại thì cao to như Dinh Độc Lập. Nhưng khó
tìm ra tấm ảnh nào thấy tay ông đang cầm khẩu
súng, mặc dù vị lãnh đạo này cũng từng xuất
thân từ giới chiến
binh!
Vậy,
nay quốc gia mà ông từng có công xây dựng đang bị Hán
hóa thì ông đã về thiên quốc. Nhưng tại sao phải
cần tiếng súng Nguyễn Văn Thiệu trong tình hình chính
trị Việt Nam
hiện nay?
Những dòng chính luận quốc sự
dưới đây bắt nguồn
từ trình tự quan sát mối quan hệ Việt-Trung trong
vòng 2 năm trở lại trên các mặt chính yếu, thì có
nhiều điểm khả hữu được đưa
ra để nhận định rằng: Nếu giới đương
quyền Việt Nam cứng rắn với Trung Cộng, và kịp
thời Đổi Ngược
chiến lược trong 2 mặt ngoại giao và quân sự,
thì cục diện quốc gia sẽ tạm thời khả
quan hơn, trước khi đi tìm một giải pháp chính
trị lâu dài và chắc chắn. Nếu không, Việt Nam sẽ rất
sớm mất chủ quyền!
Để thấy rõ điểm quan
trọng nói trên, xin luận để tường:
ĐẠI CƯƠNG TÓM
LƯỢC
BẮC KINH VÀ TÔN TỬ KẾ
TRONG CHIẾN LƯỢC HÁN HÓA VIỆT NAM
Ngày nay, nhân loại cùng nhau đưa
cao khẩu hiệu: Thế giới là một mái nhà, nhờ
vậy, một số quốc gia yếu nhỏ chuyên lệ
thuộc đã nhận được sự tôn trọng và
hòa ái bằng những hiệp ước bất tương
xâm ra đời.
Nhưng sự may mắn này đã
ngoại lệ với Việt Nam. Bởi Trung Hoa không từ
bỏ tham vọng mở rộng không gian địa lý về
hướng Nam,
do đó, sự âu lo hiểm họa ngoại xâm đối với
dân Việt được ghi nhớ bằng hai chữ: Muôn
Đời.
Tuy nhiên,
mục đích xâm chiếm nước Việt thời xưa
và nay đều giống nhau, nhưng hình thức thì khác xa.
Thay vì năm xưa, Bắc triều phải hao tổn cho đội
quân binh hùng tướng mạnh, còn ngày nay con cháu người
Trung Hoa thông minh và mưu lược hơn, biết vận
dụng tiền tài thặng dư
để thực hiện những cơ kế mờ
ám nhằm đạt được những mục tiêu bí
mật, mà chính lãnh đạo của các quốc gia bị xâm
chiếm không lường ra được
hậu quả nên đã tiếp tay với kẻ thù, và tự
mình phải công khai văn bản chiến thắng của đối
thủ. Với chiến thuật xâm lăng bằng trí óc này
sẽ tạo nên một sức công phá lâu dài và ghê gớm, có
thể hủy diệt một dân tộc!
Hiện trạng Trung Cộng đang
ngấm ngầm xâm chiếm Việt Nam cũng là như vậy!
Nhưng để đạt được
mức độ xét đoán cao về các chiến thuật
và chiến lược của Trung Cộng , thì việc khái
luận mọi vấn đề xin dựa vào Binh Pháp Tôn Tử,
một binh học truyền thống của tổ tiên người
Trung Hoa từng tự hào, và ngày nay con cháu họ vẫn sử
dụng để hoạch định quốc sách, và sở
dĩ, phải dựa theo tập toàn thư binh pháp này, nghĩa
là nói đến căn cơ mưu lược chính trị
được đặt lên hàng đầu nhằm hỗ
trợ cho động lực quân sự , để xét đoán
cùng chứng mình rằng. Giới
đương quyền Việt Nam không có khả năng lãnh
đạo, không biết nhận định chiến lược
của đối phương nên đã “ mắc mưu ”rồi
sợ hải, trong khi, có chỉ số rất cao để
khả tin là vũ lực sẽ không thể xảy ra trong đại
cuộc Hán hóa Việt Nam của họ.
Mà tất
cả, kế hoạch Nam tiến
của Trung Cộng đều bắt đầu từ Kế thứ 15 là: Aùm Độ Trần Sương, tức tạm
hiểu là ( đi con đường không ai để ý), hiểu
giản dị là xâm lăng không bằng súng đạn, vì sách
lược này vô cùng phù hợp với xu thế hòa bình - toàn
cầu hóa hiện nay, thứ là, ít bị phát hiện và kháng
cự từ một dân tộc có truyền thống chống
ngoại xâm quật cường như Việt Nam
Cũng
từ việc lấy Kế
thứ 15 làm chủ đạo, phía Trung Cộng đã triển
khai bước xâm lăng đầu tiên bằng Kế thứ
8, là: Vô Trung Sinh Hữu, tức
( không có mà làm thành có), nghĩa là Kế này họ chiếm được
Hoàng Sa. Từ việc Hà Nội
im lặng chịu thua đã nói
lên Trung Cộng thắng một
mưu mẹo nhỏ là “ ném đá dò lòng cuội”, nhưng
“ cuội ” đã cúi đầu, thì họ tiến tiếp vào
vụ Bauxite Tây Nguyên.
Nay, thêm vụ cho thuê rừng trong 10 tỉnh
xen kẽ theo chiều dài địa lý Việt Nam, về sự kiện này, tuy có nhiều phân tích
và bình luận gia đề cập, nhưng đã không đào
sâu vào quyền của các quốc gia được thuê và ý
đồ chiến lượcï. Trên bề mặt của vấn
đề thì cho rằng, có 3 quốc gia là Trung Cộng - Đài
Loan và Hồng Kông, nhưng thực ra chỉ là độc
chiêu của Trung Cộng.
Tại Sao???
Vì rằng,
hợp đồng cho thuê là 50 năm. Nhưng riêng Hồng
Kông đối với Trung Cộng chỉ xếp loại đơn
vị gọi là: Đặc Khu, sau khi Anh Quốc trả lại
độc lập vào ngày cuối cùng của tháng 12 năm
1997, nhưng được hưởng theo quy chế tự
do trong vòng 50 năm, tính từ đó đến nay đã được
13 năm, sau đó phải hồi quy cố quốc, như
thế, chiếu theo thời hạn
50 năm cho đến lúc hết hạn hợp đồng,
quyền hạn thuê rừng sẽ thuộc về ai???
Riêng Đài
Loan, ai xác định sau 50 năm không ngã về quốc mẫu
Trung Hoa??? Hoặc, ai khẳng định Trung Cộng không núp
dưới tên của các công ty Đài Loan???
Không cần
phân tích thêm thì cũng ước tính ra được trong
vòng 5-10 năm sau. Việt Nam sẽ biến thành vùng
“ xôi Việt, đậu Tàu”. Vì tính theo chiến thuật,
thì 10 tỉnh cho thuê rừng không theo lối co cụm, mà rải
rác phân bố 1 kềm 5 tỉnh lỵ của Việt Nam
thì mọi biến động về quân sự và chính trị, đặc biệt
là kinh tế đều có thể nằm trong sự khống
chế của đối phương.
Như vậy, về lâu dài, Trung Cộng
sẽ thắng thêm Kế thứ 16, Kế này cũng là mục đích
trọng yếu của chiến lược bắt buộc
họ phải thành công cho bằng được! Nhưng
nếu Trung Cộng đạt được Kế này thì
một tai họa khủng khiếp sẽ đến với
Việt Nam,
và rất có thể nó sẽ xảy ra! Kế đó là : Phản Khách Vi Chủ, tức
( biến chủ nhà thành khách), khi người Tàu từ từ
di dân qua đất Việt rồi
sinh nở và phát triển, chui sâu leo cao vào cơ cấu lãnh đạo
từ hạ tầng lên thượng tầng cơ sở,
khi đó quốc hiệu Việt Nam chỉ là cái vỏ.
Tuy nhiên,
các điểm vừa nêu chỉ mới trình bày được
dã tâm cùng thế lợi đã đạt được của
phía Trung Cộng trong lộ trình Nam Tiến ïhiện nay, nhưng
tại sao Bắc Kinh đã không gặp một trở ngại
nào?
Loại
trừ đi, yếu tố tiêu cực là lãnh đạo Việt
Nam
bị Trung Cộng “ sập bẫy” bằng Mỹ Nhân Kế, hay tham nhũng
mua chuộc ( vì ngoài sự quan sát của Tác giả)! Mà chỉ
xét đến hướng tích cực (nếu có), thì bảng
so sánh cụ thể khách quan dưới
đây, diễn tả rất đầy đủ các phương
diện trọng yếu của cả 2 quốc gia đang đồng
thực hiện trong chiến thuật và chiến lược
của mình:
SO SÁNH
– PHÂN TÍCH CHUNG CHIẾN THUẬT VIỆT - TRUNG
Truyền
Thông:
Khi đã thắng được một
số Kế trong các chiến thuật căn bản, để
làm chủ vài nơi trọng yếu như biển-đảo, bauxite Tây Nguyên,
thuê đất..vv..vv..Thì lãnh vực truyền thông đang được
Bắc Kinh đặt lên hàng đầu. Nhưng Hà Nội đã
không quan tâm.
Đó là, kể cả các trang Mạng
internet (bán và không chính thức) đều được Trung
Cộng sử dụng, trong khi đó, ai cũng biết quốc
gia này quản lý gắt gao về kiểm duyệt. Một
số bài viết mang tính hiếu chiến của các Bloger,
cũng như nội dung của nhiều bài Báo được
viết bởi một số cấp Tá và Tướng về
hưu muốn kiến nghị, tham mưu, đòi hỏi mở
cuộc chiến tranh để chiếm Biển Đông và
thanh toán Việt Nam trước khi âm mưu với Đông
Nam Á.
Nếu bảo là hữu nghị thì tại
sao nhà nước Trung Cộng vẫn cố tình cho phép lưu
hành lâu dài các nội dung nói trên..?
Nhưng điểm cần chú ý là
các vụ “ tàu lạ” đâm thuyền ngư dân Việt được
sắp xếp không theo trình tự liên tục, mà rải rác
tháng nào cũng có một hay hai vụ, và thường xảy
ra vào ban đêm. Xét theo quan niệm hải hành, dù là một
thương thuyền to lớn đến đâu; có khi ngay
cả, trong binh chủng Hải quân thì quan niệm về sức
mạnh của thần linh thần biển bao giờ cũng
tạo cho người ta ý niệm cầu may trên hải
trình, huống hồ gì, ý niệm thiêng liêng này sao lại không
có trong bản thể vốn nặng tính truyền thống
của người dân chài lưới Trung Hoa, để mà
có ác tâm gây sự hải hùng với đồng ngư nước Việt!
Nhưng sở dĩ, Trung Cộng
phải dàn dựng ra cái kế: Sát
Kê Hách Hầu, tức ( giết gà cho khỉ sợ), bởi
nhiều mục đích. Nhưng cao chiêu nhất của họ
là muốn hướng dư luận, nhất là sự chú ý
của giới lãnh đạo và thành phần trí thức Việt
Nam phải tập trung vào phía Biển Đảo, nhằm làm
giãn mỏng sự quan tâm-phản
kháng tại Đất liền- nơi chủ yếu là chiến
lược lâu dài mà họ cần đến! Vì thực tế,
phần Biển Đảo thì Trung Cộng cậy sức mạnh
đã cưỡng đoạt rồi!
Trong khi đó, về phía cầm quyền
Việt Nam thì bị “ mắc bẫy” vì Dương Đông Kích Tây, và cúi đầu thua vì kế:
Hư Trương Thanh Thế
của Bắc Kinh. Nói khác đi,
các nhà lãnh đạo đương thời Việt Nam đã
sợ “ võ miệng” của Trung
Cộng.
Quân Sự:
Trung Cộng
hiểu rõ yếu tố tâm lý lo sợ chiến tranh của
lãnh đạo Việt Nam , nên cố tình khoe khoang đặc
tính hùng mạnh về quốc phòng qua nhiều lễ hội,
hay tập trận trên biển,
nhằm hù dọa và khơi gợi sự chạy đua
vũ trang, và kết quả đã có, lãnh đạo Hà Nội cấp tốc ký đơn
đặt hàng vũ khí từ Nga, Aán độ và Pháp. Nhưng
Trung Cộng Minh Tri Cố Muội
( giả vờ không biết). Vì nắm rõ CSVN không đủ
ngân sách quốc gia cho cuộc chạy đua bất cân xứng
này, dù 5 hay 10 năm sau, mức độ hiện đại
hóa quân đội Việt Nam vẫn ở chỉ số bách
phân so với đại cường số của Trung Cộng.
Đây
là môn võ cũ của Mỹ nhưng chiêu mới của Tàu, được
rút ra từ bài học “ chiến tranh các vì sao” ( Star War) và “
Chiến lược phòng thủ lá chắn” ( Strategic Defense
Innitiative), mà Hoa Kỳ làm ngã quỵ Liên Xô trên võ đài chính
trị. Nay Trung Cộng “ học lóm ” để nhốt kỹ
đồng chí đàn em trong cái bẫy sập của mình, và
thế cờ đã gài đặt như vậy, thì không cho
phép các nhà lãnh đạo Việt Nam dừng cuộc chơi
tại đây, mà phải tiếp tục ..trong tiếng vổ
tay “ trúng kế ” của bộ chính trị Bắc Kinh.
Kinh Tế:
Vì càng
chạy đua vũ trang với Trung Cộng bằng các mặt
hàng nặng vốn như Máy
bay, Xe tăng, Tàu ngầm, Hỏa lực, thì Việt Nam càng
mau kiệt quệ, trong khi tiền thặng dư cũng như
ngân sách quốc gia quá ít ỏi. Vậy, khi Việt Nam bị
kinh tế suy thoái, lạm phát mậu dịch, và khủng hoảng
tài chánh hay chi phí quốc gia bị khiếm khuyết, thì chổ
dựa dễ vay mượn nhất chính là Trung Cộng, vì
muốn mượn bao nhiêu cũng được! Nhưng
Việt Nam lấy cái gì để thế chấp??? Có phải
là tài nguyên, đất đai, lãnh hải và khu du lịch..? Sự vay mượn này cũng là điều
kiện tốt nhất để Trung Cộng tuồn đổ
toàn bộ hàng hóa giả-độc, biến Việt Nam thành
cái hố rác khổng lồ, làm lụn bại tê liệt ngành
tiểu thủ công nghệ vốn là kế sinh nhai cho 50% dân
số của quốc gia.
Điểm chết để sinh biến
ra mọi vấn đề là ở đây.. ..Nhưng các nhà
lãnh đạo Việt Nam
và ban tham mưu đã cạn trí..không nhìn thấy!
Ngoại Giao:
Trung Cộng
rất uyên thâm để xác định rằng, chỉ có
mối quan hệ Việt-Mỹ mới làm họ lo ngại!
Sự kiện ngày 30-3-2010, Đại sứ Hoa Kỳ ông
Micheal Michalak đã cùng ký kết biên bản Hợp Tác Năng
Lượng Hạt Nhân với Việt Nam. Tuy biên bản chỉ
mang tính Ghi Nhớ, nhưng điểm đáng chú ý là việc
ký kết này được thu nhỏ tại Hà Nội, và
chỉ 12 ngày trước khi Nguyễn Tấn Dũng đến
Mỹ để tham dự vấn đề hạt nhân,
nghĩa là cả 2 quốc gia không muốn làm “ rùm beng”; đó
là dấu hiệu khá khôn khéo và quan trọng trong bước
tiến quan hệ Việt-Mỹ, nếu xét theo chiến lược
cho các bước kế tiếp lâu dài!
Nhưng dường như, các nhà hoạch
định chính sách của Trung Cộng cũng đã “đánh
hơi” được bài toán
“ nước đôi” của lãnh đạo Việt Nam, nên
Trung Cộng nắm chặt con bài vũ khí hạt nhân Bắc
Hàn, dù rằng, họ có một phần đồng tình cô lập
Iran để lấy lòng Hoa Kỳ và thế giới, qua việc
Hồ Cẩm Đào phút cuối quyết định tham dự vào ngày 12-13 tháng 4 năm 2010. Vì chế
độ Bắc Hàn tồn tại hay không thì đang còn phụ
thuộc quá lớn vào sự viện
trợ của Trung Cộng. Cho nên hơn ai hết, nếu
người Việt Nam
am hiểu về lịch sử cận đại thì có thể
suy luận hay hình dung rằng. Nếu lãnh đạo Trung Cộng
“ nói nhỏ một câu” với Hoa Kỳ là:
-“ Vấn đề Biển Đông, chúng
ta cùng bắt tay để kiếm ăn, còn vấn đề
Bắc Hàn thì hãy để chúng tôi lo liệu. Nhưng Hoa Kỳ
đừng đi sâu vào chuyện “ làm ăn” của chúng tôi
tại Việt Nam”!
Vậy,
vì vấn đề an ninh nước Mỹ và an ninh
Việt Nam, thì Quốc Hội và Tổng Thống Hoa Kỳ
chọn gì???
Sự trả lời cho câu hỏi trên
đã làm mất đi tác dụng của kế: Tá Thi Hoàn Hồn ( mượn
xác để hoàn hồn), mà các nhà lãnh đạo Việt
Nam đang mượn sức Hoa Kỳ để cân bằng
với Trung Cộng, sẽ không như ý hay hy vọng nhiều
và sớm như mong đợi! Mà trái lại, nếu không cẩn
thận với kế mượn xác này, thì coi chừng “ bộ
đội cụ Hồ” phải đi lượm xác “ đồng
chí”, vì Trung Cộng dạy cho bài học thứ 2.
Hay hiểu khác rằng, tăng cường
quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ là đúng! Nhưng
ngay vào lúc này, nếu lãnh đạo Việt Nam đặt hết
hy vọng vào họ, thì khác nào chú Bờm nằm mơ chiếc
kẹo trong bàn tay của Phú ông đầy tính toán!
Còn lại,
những nỗ lực ngoại giao ở khối Asia sẽ hoài công vô ích! Vì điểm quan trọng mà bộ chính trị Hà Nội
không nghĩ đến, là chính họ đã tạo ra sự
mâu thuẫn trầm trọng, khiến các nhà hoạch định
chính sách của các quốc gia trong khu vực theo dõi và nhận ra. Mâu thuẫn đó là,
giới cầm quyền Việt Nam ngấm ngầm tạo
liên minh chống đở Trung Cộng, kêu gọi quốc
tế hóa Biển Đông. Nhưng
đồng thời, cũng là chính họ thỏa thuận
ký kết những hiệp ước-hợp đồng, để
cho Trung Cộng trá hình bành trướng trên Đất Liền qua các vụ Bauxite Tây Nguyên, hay
cho thuê rừng đầu nguồn..vv..vv
TỔNG KẾT NHẬN ĐỊNH
Căn
cứ vào thực tế mà phân
tích tỷ mỷ như đã nêu, thì tạm thời kết
luận là. Kế hoạch lấn chiếm Việt Nam được
Trung Cộng tiến hành theo mô
thuật “ mưu ma quỷ kế ” , và trình tự từng
giai đoạn của các chiến thuật này như một Liên
Hoàn Kế được ghép lại rồi cấu trúc
thành: Chiến lược lâu dài.
Hay có thể hiểu rằng, dùng mưu
kế để chiếm đoạt thì dễ dàng hơn,
ít binh phí hơn, nhưng sở hữu lâu dài và chắc chắn
hơn! Bằng chứng, dù chế độ cộng sản
Việt Nam sụp đổ, thay thế bởi thể chế
dân chủ thì các văn kiện khế ước hợp đồng
vẫn còn hữu lực, và chiến lược vẫn còn
thực hiện. Nhưng nếu, chiếm đoạt Việt
Nam
bằng chiến tranh thì không hữu lý, nếu có, chỉ thỏa
đạt trong giai đoạn nhất thời.
Cao
thâm của viễn mưu chính là chổ này!
Trong khi đó, ngay từ ban đầu,
giới đương quyền Việt Nam đã không xác định
được chiến lược mang tính mưu lược
của đối phương, nên không tìm ra phương hướng,
khi bị dư luận lên án thì cuống cuồng phản ứng
mang tính khôn nhà dại chợ, và càng hấp tấp thì càng vướng
vào “ lưới bẫy” của Trung Cộng.
Hay luận cách khác để thấy rõ
hơn, là bộ máy cầm quyền
của CSVN không có triết phu nào
tiên kiến được viễn mưu của Trung Cộng,
nên dẫn đến phạm phải sai lầm trầm trọng
trong nguyên tắc chính trị và quân sự, bởi: Khi chiến
thuật sai cùng chiến lược sai thì bao giờ cũng
tạo cho đối phương mau thắng lợi, và đưa
quốc gia vào vòng đại họa trường tồn dưới
đây:
ẢNH HƯỞNG VÀ HẬU
QUẢ
Cũng
từ sai lầm trên, cho thấy tình hình Việt Nam hiện
nay đã rất khác so với 1-2 năm trước, là chỉ
có vấn đề Biển Đông. Nhưng nay, các nhà lãnh đạo
Việt Nam
tự đặt chính mình cùng tổ quốc và dân tộc trước
2 mặt trận, nếu cùng xét theo hai phương diện
quân sự và chính trị, tức là: 1) Mặt trận Biển-Đảo.
2) Mặt trận Đất Liền.
Vậy, trong 2 mặt trận vừa
nêu, thì đã hình dung ra mặt trận nào nên quan tâm và củng
cố hơn, trước, ưu tiên?
Nói về
sự kiện Biển Đảo, thì việc thiết lập
và đệ trình hồ sơ lãnh hải lên Liên Hiệp Quốc
là đúng, nên làm, và đã làm rồi! Nhưng nếu xét, mặt
nào là có tầm mức quan trọng và khẩn thiết cần
bảo vệ nhất hiện nay, thì sự vụ Biển Đảo
không nên đặt nặng quá vấn đề, vì nó thuộc
về quốc tế !
Hoặc thậm chí là, giới lãnh
đạo Hà Nội nên thông minh hiểu rằng. Cái Lưỡi
Bò mà Trung Cộng tự ý vẻ ra chỉ là tham vọng, chứ bất thể thành hiện thực
như cái ao nhà của họ, kể cả trên chiến lược
hay pháp lý!
Vì
sao?
Bởi rằng, đây là hải lộ
“ huyết mạch” của quốc tế, nhất là Hoa Kỳ
và các nước đồng minh của siêu cường này,
cũng như thế giới, Và ngay cả, xét theo vị
trí địa lý bị bịt kín của Trung công, thì 75% lượng
dầu thô khí đốt hết sức cần thiết, cùng
70% hàng xuất- nhập cảng của họ đều nhất
lộ phải di chuyển qua hải tuyến này. Cho nên, hôm
nay hay dài lâu, thì Trung Cộng cũng không muốn sự tranh
chấp bằng hải chiến tại vùng “ nhạy cảm”
đó.
Dẫu bằng, họ muốn độc
quyền thì Hoa Kỳ và quốc tế chịu sao???
Hoặc,
nếu Việt Nam
thắng kiện thì liệu Trung Cộng có làm lễ bàn giao
Hoàng Sa-Trường Sa không???
Nói như
thế, nhằm nhấn mạnh bằng một lý luận
giản dị rằng, Đất Liền – mặt trận
thứ 2, tức là căn nhà Việt Nam hình chữ S cũng đang bị người
Tàu đe dọa từng ngày. Nhưng các nhà lãnh đạo
Việt Nam
vẫn tiếp tục tham nhũng qua việc thuê-bán nội
địa, và không ưu tiên tìm biện pháp bảo vệ mà
lại đi lo cái hồ nước sau hè nhà..!
Vậy, vài năm sau, khi dân Tàu tràn ngập
xuống chiếm căn nhà quý báu kia, thì 90 Triệu người
có thể làm “ thuyền nhân” bơi ra tỵ nạn ở 2
cái cồn nước sau hè nhà.. được sao???
Hiện thực đen tối của
quốc gia Việt Nam
là như thế đó, ắt rằng, sẽ có nhiều người
đặt ra câu hỏi là:
Nếu
giả định, ngay bây giờ các nhà lãnh đạo Việt
Nam có hướng tích cựu nhằm ngăn chặn sự
bành trướng của Trung Cộng, thì liệu có biện
pháp tạm thời nào để chống đở, ít ra, là
để bảo vệ cho ngư dân được an toàn
tính mạng trên lãnh hải Việt Nam???
Câu hỏi này khó như lên Trời mà
ngay cả sư phụ của Tôn Tử thần tiên sống lại, cũng
không tìm được trong 36 Kế do đệ tử viết
ra thì có kế nào hay mà vận dụng!
Nhưng có lẽ, đây cũng chính là
dấu hỏi mà các nhà lãnh đạo Việt Nam đang
loay hoay không tìm ra câu trả trả lời! Vì hơn ai hết,
họ sẽ tự nhận ra tham vọng cá nhân đã biến
chính mình thành những “con chốt
thí ” trên bàn cờ chiến lược, mà ngõ sinh lộ để
ra hay cửa tử đi vào đều do Trung Cộng nắm
chìa khóa!
Cho nên, nhằm giải quyết
toàn bộ mọi vấn đề để quốc gia tránh
được thảm nạn Hán hóa của Trung Cộng. Thì
liệu rằng, các nhà lãnh đạo CSVN có đủ bản
lỉnh chính trị như cố Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu, để “ chế
tạo” ra cái Kế thứ 37, mà tạm gọi là kế: Tự Biên Tự Diễn..???
Hay nói thẳng ra là: Nổ súng trước,
như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từng hạ
lệnh cho Hải quân VNCH trong trận hải chiến Hoàng
Sa 1974.
Nhưng!
Nổ súng trong hoàn cảnh nào? Nổ súng trên đất
liền hay biển đảo thì có lợi? Và, nếu Việt
Nam vì TIÊN PHÁT CHẾ NHÂN mà khai hỏa, thì cuộc chiến
Việt-Trung có bùng nổ không?
Đặt
một loại câu hỏi như
vẽ cảnh màn trời chiếu
đất sắp hiện ra đối với ai lo sợ chiến
tranh, nhất là mấy “ngài” trong bộ chính trị CSVN nghe
qua cũng phải toát mồ hôi hột..!
Nhưng không! Rất nhẹ nhàng và êm ái
mà có thể bảo quốc an
dân! Chính những tiếng súng
này sẽ làm thay đổi cho cục diện chính trị Việt Nam.
Vì sao
giả định trên như một khẳng định???
NHẬN XÉT THẾ LỢI VIỆT NAM
Có rất nhiều lý do để xác
quyết cho khẳng định
trên, nhưng chỉ xin đưa ra các điểm căn bản
để xét đoán rằng: Dùng vũ lực với Việt
Nam
là không có trong kế hoạch dù ngắn hay dài của Trung Cộng,
vì là:
1) Kinh tế
tại quốc nội Trung Cộng đang trong chiều hướng
phát triển quá cao, đang thu hút nhiều đại công ty
nước ngoài có ký kết hợp đồng tại đây,
nhất là Hoa Kỳ và đồng minh của siêu cường
này. Trong khi đó, các đại công ty của Trung Cộng cũng
đang phát triển lan rộng khắp thế giới. Do đó,
Trung Cộng không dại gì lâm chiến để tự mình
làm sụp đổ hệ thống chứng khoán đang
thu hút nhiều khách hàng trên toàn cầu, cũng như lòng tin
của các đối tác thương mại đang và sẽ
đầu tư vào quốc gia có sức mãi lực này. Đây
chính là thế “ triệt buộc” mà điểm đầu
tiên bắt Trung Cộng phải nghĩ tới khi đặt
vấn đề chiến tranh với quốc gia láng giềng!
2) Tương
đương về quyền lợi kinh tế nói trên, nếu
Trung Cộng giao chiến với Việt Nam, dù là một phát
súng bắn trả lại thì xem như mối ngoại giao bị
gảy đổ, kéo theo các hợp đồng kinh tế mà
phần lớn các kế hoạch khai thác quặng mỏ –
thuê rừng trong ý đồ Hán Hóa của Trung Cộng cũng
phải trì trệ dài hạn, có khi phải chấm dứt.
Hay, lý lẽ cách khác, là kế hoạch Nam tiến của họ bị
đổ vỡ. Từ đó có thể hiểu rằng, phát
súng khai hỏa cảnh cáo và bảo vệ chủ quyền
của Việt Nam hôm nay, hoàn toàn khác xa với tiếng súng
chủ động của Trung Cộng vào sáng ngày 17-2-1979, mà
lịch sử cận đại của họ đặt
tên cho cuộc chiến đó là Đối
Việt Tự Vệ Hoàn Kích Chiến. Vì khi đó quyền
lợi của họ không có gì tại Việt Nam, ngoại
trừ chiến lược quốc tế nhưng đã hết
công hiệu bởi cuộc chiến đã kết thúc vào năm
1975, trái lại, Trung Cộng phải chịu gánh nặng viện
trợ quá nhiều và quá lâu với Miền Bắc, sau đó
thấy đàn em phản bội theo Liên Xô nên dạy cho một
bài học. Và Đặng Tiểu Bình cũng xác định
được cuộc chiến đó không lợi lộc
gì nên giới hạn về mặt thời gian. Quả thật
kết quả mang lại là: Chó chết thì Mèo cũng bể
bụng!
3) Một
điểm hiện rõ nhưng ít ai để ý, sau sự thành
công của cách mạng năm 1949 của Mao Trạch Đông,
tuy dứt điểm được các triều đại
vua chúa phong kiến, nhưng nền ngoại giao của
Trung Cộng vẫn theo lối “ vỏ ốc”, tính tự
cao tự đại đã tự phong bế lấy vị
trí địa lý chính trị của họ, nên Trung Cộng không
có đồng minh, không có bạn hữu, mà chủ yếu là
kẻ thù. Khi Đặng Tiểu Bình phát hiện và mở cửa
thì đã muộn, đất nước Trung Hoa đã bị
vây kín 3 mặt, bởi, phía Bắc là nước Nga hùng mạnh
có nguyên tử, phía Tây là Aán Độ cũng có hạt nhân,
phía Đông có 2 nước Triều Tiên, phần Bắc Hàn
tuy là đồng chí nhưng cũng phải dè chừng vì họ
có Bom nguyên tử, còn phần Nam Hàn thì bị căn cứ
quân sự Hoa Kỳ cản đường, nên duy nhất,
Trung Cộng chỉ còn hướng Nam là Việt Nam, nơi
có thể hiếp đáp để giải quyết nạn
nhân mãn của họ!
Rất tiếc, các nhà lãnh đạo
cộng sản Việt Nam
đã không nhìn ra được sự yếu thế của
đàn anh, để khi con Sư tử phương Bắc rống lên 1
tiếng dọa..thì con Rồng phương Nam cũng phải gầm
lên 2 tiếng, có thế, thiên địa sẽ dịu êm, còn
im lặng thì thú dữ sẽ ăn thịt ngay. Bao trang sử
cổ của xứ Việt từng
minh chứng điều đó!
Cũng
từ yếu điểm trên,
nếu Trung Cộng giao chiến
với Việt Nam
nghĩa là bắt ép đàn em theo đối thủ Hoa Kỳ,
điều này khác nào họ tự động cô lập và làm yếu hơn
thế chiến lược của mình.
4) Trung
Cộng không có một lý do gì để chiếm đóng Việt
Nam
trên Đất liền, dù là ngắn ngày. Còn Hoàng Sa- Trường
Sa thì họ đã chiếm rồi! Nhưng chính phát súng khai
hỏa bảo vệ chủ quyền của Việt Nam vào
lúc này, thì có thể Trung Cộng sẽ lui về lại kế: Phù Để Trừu Tân, nghĩa
là ( bớt lửa dưới nồi), tạm hiểu là không
nên ép Việt Nam quá, và dĩ nhiên, Trung Cộng sẽ đưa
ra giải pháp có lợi hỗ tương mà lần này sẽ
thành thật chứ không lừa lọc, dối trá, ỷ mạnh
để độc chiếm quyền lợi tại Biển
Đông. Vì họ thừa hiểu rằng, sự phát triển
kinh tế mang tính “ bùng nổ” của họ không tạo sự
cảm tình với thế giới, nên, nếu họ mở
cuộc chiến tranh thì vô tình chính họ đưa 2 tiếng
Việt Nam đến với sự cảm tình của cộng
đồng quốc tế, và Việt Nam theo con đường
dân chủ thì họ sẽ tổn thất về mọi mặt
tại quốc gia phía Nam quan trọng này.
BIỆN
PHÁP TẠM THỜI (có lẽ)
CŨNG LÀ DUY NHẤT
Đối
chiếu và lượng định mọi tình hình khách quan
và đặc tính chủ quan chính
trị trong chiến lược của Trung Cộng, cũng như quá nhiều quyền lợi thiết
thực hiện có của họ tại Việt Nam, có thể
hình dung như một bàn cờ đã gài đặt mọi
góc cạnh hết sức cao thâm và bí hiểm! Tuy với thế
trận hiểm nghèo như thế; nhưng không có nghĩa
là Việt Nam
đã “cạn nước”..mà không có cách khai cờ phá trận
để biến bại thành: Chiếu Tướng!
Bởi thế, Nếu các nhà lãnh đạo
Việt Nam nào, có chí hướng bảo vệ chủ quyền
quốc gia thì không nên ngồi đó mà suy ngẫm chịu
thua, vì càng kéo dài thì bước tiến của Trung Cộng
càng lấn sâu vào nội địa!
Năm
2010 có nhiều yếu tố thuận lợi trong chính trị,
nhất là mặt tác động quốc tế rất hội
đủ điều kiện tốt để chặn đứng
âm mưu của Trung Cộng, dựa theo nguyên tắc bất
di trong binh pháp là khi bị kìm hãm bao vây, thì phải tạo biến
để khai thông mà biện pháp hữu lực và hữu lý
nhất, là:
Quân
Sự và An Ninh:
Thay vì, đặt nhiều hy vọng vào
ngoại giao nhằm vận động liên minh quốc phòng
trong mục đích xây dựng và ổn định khu vực,
mà kết quả chỉ là “ tốn nác, rác nhà ”.
Thì nay, Việt Nam
nên lợi dụng ngay vào lúc là Chủ tịch luân phiên của
khối Asia. Để huy động toàn bộ lực lượng Không
quân – Hải Quân kết hợp cùng Bộ binh, lên kế hoạch
và đơn phương triển khai tập trận tại
các vùng duyên hải trọng yếu. (xin nhấn mạnh là: Đơn
phương tập trận)
Tại
sao phải đơn phương tập trận ngay vào lúc
này???
Bất ngờ cho Trung Cộng chính là điểm
này mà trong 35 năm qua, sau khi kết thúc cuộc chiến, quân
đội Việt Nam im hơi lặng tiếng không thao dợt.
Nhưng nay “ đột xuất”..!
Chính những
tiếng pháo rơi đạn nổ..Bùm..Pằng.. tập
trận trên biển, là tín hiệu gởi đến Trung Cộng
như một sự tự tôn của dân tộc Việt Nam thách
thức rằng:
- “ Tôi chẳng
sợ gì anh một chút nào, nếu
anh ép-đánh tôi, anh sẽ mất sạch..”!
Nhưng, những tiếng súng “ quậy
sôi ” Biển Đông này cũng là thông điệp gởi đến
các quốc gia trong khu vực, thay vì, nói trên bàn hội nghị
sẽ không bằng hành động, vì lịch sử thế
giới chưa chứng minh có quốc gia tự do nào hỗ
trợ quốc phòng cho một nước cộng sản lúc
động binh! Dĩ nhiên, thoạt tiên, các quốc gia này
không thích, có khi, họ sẽ phản đối qua ngoại
giao, nhưng Biển Đông bị “ hâm nóng” lên thì buộc lòng
họ cũng phải tăng ngân sách quốc phòng, và tập
trận, có khi đơn phương, rồi song phương,
dẫn đến liên minh, và tất nhiên, các nước nước
nhỏ yếu trong khu vực sẽ tự liên kết với
Việt Nam, vì sự bành trướng của Trung Cộng là
nỗi lo ngại chung!
Và, chính
chiến thuật này mới đánh trúng huyệt đạo
của Trung Cộng. Vì xưa nay, bản chất lãnh đạo
từ cổ chí kim của họ luôn luôn bị nỗi ám ảnh
lo sợ trong nội bộ, là các sắc tộc Mãn-Hồi-Mông-Hán
sẽ kết hợp vùng lên xé nát nước Trung Hoa ra từng
mảng nhỏ. Còn bên ngoài, họ rất e ngại các quốc
gia khác liên kết chống lại, đó cũng là một
phần lý do cốt yếu mà Trung Cộng cương quyết
lập trường đàm phán song phương, chứ không
đa phương như các nhà
lãnh đạo Hà nội mong muốn về vấn đề
Biển Đông! Biết thế, thì Việt Nam nên dùng cây dao chiến
thuật trên để thọc sâu ngoáy mạnh vào tử huyệt
của đối phương.
Thứ
nữa là, chiến thuật đơn phương tập
trận này, không chỉ tạo được sự chú ý cho
các nước trong khu vực, mà còn cuốn hút và tìm được
thêm sự ủng hộ từ các quốc gia lớn mạnh
trong vòng đai Thái Bình Dương. Nhưng đặc biệt,
có hai siêu cường tuy không ra miệng khuyến khích, nhưng
sẽ nhảy đầm vổ tay hoan hô.. ..Vì nhờ Việt
Nam “ biết quậy”, nên họ “ trúng mánh” qua việc bán vũ
khíï “ đắt như Tôm tươi”,
đó là Nga và Hoa Kỳ. Hiểu giản dị là như vậy!
Hay ngầm
hiểu rằng, trong thế tiểu quốc gặp hoạn
nạn như Việt Nam
hiện thời, thì không sức mạnh nào có thể hóa giải
mối bị bao vây này, bằng
Hoa Kỳ. Cho nên, việc tập trận là một hình thức
vừa gián tiếp vừa chủ động mời gọi
siêu cường này “nhập cuộc” sớm hơn, trong tư
cách là quốc gia lớn luôn có trách nhiệm ổn định
hòa bình thế giới, do đó, các nhà lãnh đạo Việt
Nam phải bỏ đi cái thói “ ăn mày mà cao ngạo”, để
hiểu rằng Việt Nam cần gấp Hoa Kỳ giúp đở,
chứ quy luật này không bao giờ ngược lại trong
hoàn cảnh hiện nay!
Xét từ
biện pháp tạm thời này, nếu ai đã từng dày công
khảo cứu và hoàn thành Luận án sử ký nước Việt, thì sẽ
thấy một điểm hiếm hoi từ thời có quốc
hiệu Đại Việt ..đến nay, biết bao vị
tiền nhân anh minh muốn đưa quốc gia vào quyền
độc lập, nhưng vì xung đột quốc tế
triền miên, tác động và ảnh hưởng vào Việt
Nam
mà quốc vọng bất thành! Nhưng chính ngay thời điểm
này, vâng; đúng vào thời điểm “ ngàn năm có 1” này!
Nếu nhà lãnh đạo Việt Nam nào có tư duy giỏi,
bình tỉnh và khôn ngoan, thì sẽ an toàn đưa quốc
gia vào thế chủ quyền độc lập ( có thể
là vĩnh viễn), theo kiểu mẫu thể chế chính
trị dân chủ như Nam Hàn-Nhật Bản-Đài Loan, với
giai đoạn đầu, nhận sự bảo trợ của
Hoa Kỳ qua quyền lợi hỗ tương.
B) Loại bỏ ngay các hình thức như Thủ tướng ban hành Nghị
định về việc: cấp và kiểm tra giấy phép
tàu thuyền đánh cá nước ngoài vào hành nghề trong lãnh
hải Việt Nam,
hay trang bị vũ khí theo sách lược nhân dân tự vệ,
thật quá sức ngớ ngẫn và mỵ dân! Chính các Nghị
định mang tính khờ khạo của giới lãnh đạo
bạc nhược này, tự nó đã chỉ rõ cho Trung Cộng
thấy hạ sách yếu kém mưu lược, nên cường
độ lấn át của họ tăng hơn! Mà thay vào đó,
là phải huy động lực lượng Hải quân liên
tiếp tuần tiểu trên vùng biển Việt Nam để
bảo vệ cho ngư dân lao động trên ngư trường,
sẵn sàng đối xử nhân đạo theo luật quốc
tế đối với các “ tàu lạ” khi gặp ách nước
tai trời. Nhưng nghiêm minh cảnh cáo, nổ súng chỉ
thiên, hoặc bắt ngay bất cứ tàu thuyền Trung Cộng
hành nghề trên vùng biển quốc gia, cứng rắn xử
phạt như họ đã từng
xử phạt các ngư dân Việt Nam.
Và dù rằng,
bộ chính trị Bắc Kinh rất bực mình trước
các biện pháp này, nhưng đây là chuyện nội bộ
của mỗi quốc gia không hề gây hấn đụng
chạm gì đến họ!
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh nước
bé thế yếu, lãnh đạo khờ khạo thì các biện
pháp “ động binh ” nói trên, chỉ tác dụng nhãn tiền nhằm chặn
đứng những hành động ngang ngược thô bạo
lấy mạnh hiếp yếu của Trung Cộng đối
với ngư dân.
Nhưng
nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam không dùng biện pháp
“ cứng” để răn đe cảnh cáo, mà hoài công kéo dài
tìm kiếm giải pháp “ mềm”, thì kết quả chỉ là
tạo lợi thế cho Trung Cộng tiếp tục dụng
kế để thâu tóm thêm các cứ điểm quan trọng
tại đất liền.
Và căn
cứ vào một số sự
kiện lịch sử từng xảy ra trên thế giới,
nhất là đối với các quốc gia từng chịu
sự chi phối chính trị của Trung Cộng, có thể
đưa ra một tiên đoán cũng là sự cảnh báo với
các nhà lãnh đạo Việt Nam rằng. Khi vào thời điểm
khả dĩ làm chủ được tình hình, thì Trung Cộng
không cần thiết đến chế độ CSVN tồn
tại nữa hay không! Nếu cựu hay đương thời
lãnh đạo Việt Nam
nào có liên quan, cản trở đến chiến lược
của họ, thì cục tình báo Hoa Nam sẽ “ làm thịt” theo “ đơn đặt hàng” bằng
các hình thức thủ tiêu ám muội..vv.v.v.. ! Muốn chứng
minh cái họa sát thân này có hay không, thì các nhà lãnh đạo
Việt Nam có thể nhìn lại cục diện chính trị
của Campuchia hay Darfur trước đây, tất cả các quốc gia này đều
là “ sản phẩm bảo trợ” của Trung Cộng, với
những cuộc thảm sát kinh hoàng, nhưng kết cục
lãnh đạo của các quốc gia này không bị Trung Cộng
giết thì phải chịu sự trừng phạt như Pon Pot và đồng phạm! Riêng
trường hợp Việt Nam thì kết quả đen tối nói trên
càng xảy ra sớm hơn, vì đảng cộng sản đang
lắm phái nhiều phe, nhất là “ phe Tàu, phe Mỹ”. Đặc
biệt, khi chiến lược của Trung Cộng bị
sự phản kháng mạnh mẽ từ dân chúng Việt Nam
bằng những cuộc xuống đường biểu
tình, thì Bắc Kinh sẽ càng gây rối loạn an ninh, tạo
ra khủng hoảng xã hội càng nhiều theo kế: Sấn Hỏa Đả Kiếp
( đốt lửa rồi theo lửa mà hành động), thì
họ càng có lợi nhanh trong kết quả khống chế Việt Nam, bằng cách cậy quyền
hay xin phép, để có cớ đưa quân đội vào bảo
vệ Hoa kiều và tài sản các dự án kinh tế của
họ. Nếu xảy ra như thế; khi đó các nhà lãnh đạo
Việt Nam
có dám “ to gan” từ chối không? Đó là giả thuyết về
thượng tầng.
Còn hạ
tầng thì giả định như : Đất đai, thổ
nhưỡng “ mặt bằng” tại Hà Nội-Sài Gòn hiện
nay rất đắt giá, nhưng Trung Cộng cho đặc
vụ, tình báo tạo nên những hình thức “ xã hội đen”
xung đột hình sự Tàu-Việt
đẫm máu, khiến dân bản xứ lo sợ bán tài sản
di chuyển nơi khác. Các “ đại gia” từ Trung Cộng
bay qua mua lại theo kế: Du
Long Chuyển Phượng, và thành lập các tụ điểm
ăn chơi, lâu dần, sẽ thành một Bắc Kinh nhỏ,
hay Tân Thượng Hải ngay giữa các đô thị lớn
Việt Nam, và tuổi trẻ bị cuốn hút vào đó, và
chơi bời càng nhiều thì càng mau quên tổ quốc. Như
thế, xâm lăng kiểu này rất là hợp pháp mà chẳng
tốn viên đạn nào!
Tại
sao các nhà lãnh đạo Việt Nam không nghĩ ra, mà lại
lo sợ đánh thua Trung Cộng?
KẾT
LUẬN CŨNG LÀ TÂM BÚT CỦA
TÁC GIẢ
Hơn
5 năm trước, người Việt Nam không nghe tiếng
phá đá nổ mìn của công nhân Trung Cộng xây đập
thủy điện trên thượng nguồn Mê Kông hay Sông
Hồng, hoặc biết, nhưng cho là không quan trọng!
Nhưng
hôm nay đây, người Việt hoảng hốt nhìn nhau tự
hỏi rằng. Những nhánh sông thân quen cạn kiệt dòng
nước, trơ đáy phơi bùn dưới trời hạn
hán, tất cả đồng khô hồ cạn là vì đâu,
do ai?
Nguyên
thủ 4 quốc gia vùng hạ lưu Mê Kông liên tục họp
hành, năn nỉ Trung Cộng mở đập xả nước
để cứu đời sống người dân. Nhưng
cho dẫu, lên án hay quỳ lạy thì hậu quả của
dữ kiện đã trở thành quy luật Xin-Cho. Vì xét theo
địa lý, Trung Cộng ( có quyền) vô trách nhiệm đặt
điều kiện: “ Muốn cung cấp đầy đủ
nước cho vùng hạ lưu thì phải trả cho họ
cái gì? ..”.
Nêu lên hình ảnh “ hấp hối ”
của vùng hạ du Mê Kông mà Việt Nam ở vào đoạn
cuối “ ung thư ” để
nhấn mạnh rằng, việc công nhân trá hình khai thác
Bauxite Tây Nguyên, hay nơi thượng nguồn 10 tỉnh
cho thuê rừng hôm nay, thì tự nó đã là một phần đất
của Trung Cộng theo khế ước hợp đồng.
Những nhát cuốc xẻng để
đào bới-cày xén bây giờ chỉ là công đoạn đầu
tiên, cho một chủ trương Xin – Cho sẽ xảy ra trong
tương lai ngay trên quê hương Việt Nam, và sự Xin – Cho này không chỉ áp đặt
lên đầu người dân, mà thành phần đầu tiên
phải chịu sự áp đặt này chính là lãnh đạo
quốc gia, nếu muốn tồn tại!
Hay nói cách khác, là Việt Nam từ
từ lệ thuộc và mất hẳn chủ quyền vì 2
nguyên tắc căn bản của kẻ đi xâm lăng, là
triệt tiêu dân trí và cướp nguồn lợi kinh tế
thuộc của nước bị xâm lăng.
Tất
cả các điểm nêu trên đều là chuyện nội
bộ của mỗi quốc gia. Việt Nam cầu khẩn Hoa Kỳ
và quốc tế giúp đở được không? Có lẽ,
câu trả lời là: Không.
Điều
đó chứng minh rằng, dù thế giới chung sống từ
hòa đến đâu, thì quy luật
mạnh sống yếu chết vẫn muôn đời
tồn tại trong chủ trương chính trị và quân sự,
và hơn ai hết, người lãnh đạo phải thấu
triệt được sinh mệnh
cũa tổ quốc và dân tộc, đặc biệt là lãnh
đạo đương thời Việt Nam!
Hiểm họa vừa nêu trên, là bài
học chính trị được viết bằng máu dành
cho những ai là nguyên thủ quốc gia sau này, phải luôn
luôn biết và nhớ về tầm quan trọng bởi vị
trí địa lý chính trị của Việt Nam rất khác với
các quốc gia trên thế giới. Vì đặc tính riêng biệt
này, nên dù, quốc gia trải qua thể chế Cộng hòa
hay Cộng sản, thì 2 yêu cầu căn bản phải được
ưu tiên lên hàng đầu, đó là Quốc Phòng và Lãnh Đạo
đi kèm với một chính sách Ngoại Giao “ chừng mực-biết
người biết ta”. Nhất là đối với quốc
gia láng giềng Phương Bắc thì nhất định và cương
quyết để không thể và không bao giờ phó thác số mệnh dân tộc
vào nền ngoại giao: “Hữu Nghị và Hợp Tác”, cụm
từ này chỉ ngụy hình cho những âm mưu tráo trở
phi chính nghĩa.
Khi có được những yếu tố
cần thiết như đã nói, thì mới đứng vững
được trước một quốc gia khổng lồ
ngạo ngược như Trung Hoa.
Cũng
vì địa lý thiên ý và sự mất còn của mảnh đất
này, mà trải dài hơn 900 năm từ 939 đến 1840, bao thế hệ
tiên công phải kiên gan cố sức chống đở với
7 cuộc ngoại xâm, 2 lần nhà Tống, 3 lần nhà Nguyên,
1 lần nhà Minh, 1 lần nhà Thanh, nhưng dù Trung Hoa hùng mạnh
đến đâu thì kết quả vẫn là thảm bại.
Qua sự dồn dập liên tiếp của
các cuộc chiến tranh cổ đại đó, minh chứng
một điểm rõ ràng, là các vua chúa của bất cứ
triều đại phương Bắc nào, cũng luôn luôn
có cùng một tham vọng và đeo đuổi cùng một chủ
trương lấn chiếm Việt Nam, tư tưởng
ngạo mạn : Thuận Ngã Giả Xương, Nghịch
Ngã Giả Vong ( lạy ta thì sống, chống ta thì chết),
vẫn tồn tại với giới lãnh đạo Trung Cộng
ngày nay, và mãi mãi.
Rất
bất hạnh cũng là đáng tiếc! Vì hơn ai hết,
giới đương quyền Việt Nam rất hội đủ
điều kiện để đối đầu với nạn Hán xâm hôm nay. Bởi phần
lớn, họ được
sinh ra hay trưởng thành tại Miền Bắc, mảnh đất
được thừa tự truyền thống quật cường
của tiền nhân, thực tế hơn, các nhà lãnh đạo
này từng được đào tạo và thành công trong việc
cướp, dựng và giữ chế độ bằng một
hệ thống gian manh, lọc lừa và dối trá. Chính cả
2 yếu tố Truyền thống và Hệ thống mà họ
từng được hấp thụ và trui rèn này, rất
khả dĩ, giúp cho họ đầy đủ mưu mô để
chống lại một đối thủ nhiều mưu
ma chước quỷ, giúp cho Việt Nam vượt lên cơn
can qua đại họa này, tiếc thay, chính họ đồng
cam tâm bán nước, đi ngược lại nguyện vọng
dân tộc và sự trường tồn của quốc gia.
Vậy,
có nên để chế độ này tồn tại nữa
không???
Hay nói đúng
hơn, muốn tổ quốc Việt Nam được trường
tồn cùng Việt Tộc, thì chẳng có gì hy vọng vào sự
cạn trí của nhóm lãnh đạo đương thời,
hay ê kíp mới sau đại hội thứ 11 của đảng
CSVN. Mà trong tình thế cấp bách hiện nay, Việt Nam cần
phải có một chế độ dân chủ để tìm
được những khuôn mặt lãnh đạo, mà ít ra,
có được bản lỉnh chính trị độc lập
như Ngô Đình Diệm, có tư duy sâu sắc và tiên kiến
như Ngô Đình Nhu, có tính cương quyết bảo vệ
chủ quyền quốc gia như Nguyễn Văn Thiệu,
cũng nhờ mệnh lệnh của ông cùng tiếng súng
chống ngoại xâm của lực lượng Hải quân
VNCH năm 1974, hay như tiếng súng của Hải quân Bộ
đội năm 1988. Tinh thần bất khuất và sự
nằm xuống của con dân nước Việt hôm qua,
chính là bằng chứng hùng hồn cho lớp người hôm
nay, hay mai hậu cất cao tiếng nói với thế giới
rằng: HOÀNG SA-TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM.
Vậy,
tiếng súng nằm trong biện pháp vừa nêu trên, cũng
nhằm bảo vệ ngư dân Việt Nam, nhằm thể
hiện tính chủ quyền-nội bộ của một quốc
thể, thì hà cớ chi các nhà lãnh đạo cộng sản
Việt Nam phải lo sợ rụt rè!?
Rất
có thể! Bài viết này đã vượt ra ngoài vị trí
Tác giả, và tính “vô tư ” của một bài Báo, nên ắt
rằng, Tác giả sẽ bị cho là Diều Hâu hiếu
chiến, hay..đôi điều gì đó!
Tuy nhiên,
dù dưới mọi biên độ của quan điểm
hay chính kiến nào; thì tâm tình và suy nghĩ độc lập
của người viết rất bình dị như nông dân
Việt Nam rằng: Quốc-Dân
Việt Nam
là vạn đại!
Vui nào hơn,
khi nhận được sự cảm thông thì vãn sinh xin tha
thiết thọ ơn sâu-dài!
Trân trọng xin lỗi bạn đọc
“ tâm đắc” của Tác giả, vì bài này dài nhưng không
thể chia đôi. Kính ái gởi lời chào Việt Nam đến
toàn thể quý vị.
No comments:
Post a Comment