Cựu Đổng Lý văn phòng Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Ô. Quách Tòng Đức vừa qua đời tại Paris [3 Attachments]
Ô. Quách Tòng Đức, cựu Đổng Lý văn phòng Cố TT Ngô Đình Diệm vừa qua đời ngày Chủ Nhật 25/11/2012 tại Paris hưởng thọ 96 tuổi.
Xin chuyển lại bài phỏng vấn của Luật Sư Lâm Lễ Trinh với
Ô. Quách Tòng Đức thực hiện năm 2005 với tựa đề : 9 năm bên cạnh TT Ngô Đình Diệm
************************************************************************************************
9 NĂM
BÊN CẠNH
TỔNG THỐNG
NGÔ ĐÌNH DIỆM
Luật
sư Lâm Lễ Trinh mạn đàm với
cựu
đổng lý QUÁCH TÒNG ĐỨC
LÂM LỄ TRINH
Ngày Quốc khánh Hoa kỳ 2005. Thuỷ
Hoa Trang, Californie
Tuy là bạn tâm giao với người
viết từ lâu, ông Quách Tòng Đức luôn luôn tỏ ra dè dặt và thận trọng khi nhắc
đến những năm dài làm Đổng lý Văn phòng cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, vị lãnh
tụ khai sáng nền Đệ nhứt Cọng hoà Việt Nam. Sau chính biến 1.11.1963, ông Đức
trở lại ngành Tư pháp và được thăng chức Chủ
tịch Tham Chính Viện 1969. Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ, ông và gia đình xin
tị nạn chánh trị tại Paris. Chánh phủ Pháp tuyển dụng ông vào Phòng Tố tụng
Tổng quát của thị xã Paris, thời Thị trưởng Jacques Chirac. Ông về hưu đầu năm
1984. Nay 89 tuổi, trí tuệ còn minh mẩn tuy sức khoẻ không tốt như trước. Gần
đây, trong những lần gặp nhau lại ở Pháp cũng như qua nhiều cuộc điện đàm có
ghi âm, ông Đức đã chịu thố lộ với người viết nhiều điều liên hệ đến giai đọan chín năm phục vụ vị nguyên thủ quốc gia
bị sát hại năm 1963.
Lần đầu gặp chí sĩ Ngô Đình Diệm
Ông
Quách Tòng Đức (QTĐ) sanh tại An xuyên năm 1917, thuộc một gia đình trung lưu,
đậu cử nhân và Cao học Luật Đông Dương năm 1941, Đại học Hànội, sau khi lấy
bằng tú tài tại trường Pétrus Ký, Sàigòn. Ông thuộc toán cử nhân đầu tiên gồm
có Nguyễn Thành Cung và Lê Văn Mỹ thi đậu năm 1942 vào ngạch huyện, phủ tại
Miền Nam VN mà cấp bậc cao nhứt là Đốc phủ sứ thượng hạng ngoại hạng tương
đương với chức Tổng Đốc đứng đầu tỉnh ở ngoài Trung và Bắc. Khi vua Bảo Đại chỉ
định Trần Văn Hữu lập Chánh phủ, Thủ hiến Nam Việt Thái Lập Thành (xuất thân là
một Đốc phủ sứ như các ông Nguyễn Ngọc Thơ, Lê Tấn Nẩm, Dương Tấn Tài, Lê Quang
Hộ ...) bổ nhiệm ông QTĐ năm 1951 làm
Chánh Văn phòng và thiếu tá Dương Văn
Minh, Chánh Võ phòng. Năm 1953, thủ hiến Thành và Thiếu tướng Chanson bị nhóm
Cao Đài kháng chiến của Trình Minh Thế ám sát tại Sadec trong một cuộc kinh lý.
49 ngày
sau Điện Biên Phủ thất thủ, tức là 26.6.1954, Bảo Đại giao cho cựu Thượng thơ
Ngô Đình Diệm lập chánh phũ, thay thế hoàng thân Bửu Lộc. Trước đây, ông Diệm
đã ba lần từ chối lời mời của Bảo Đại: năm 1937, 1945 và 1948. Ông giao thiệp
thân tình với nhà cách mạng Phan Bội Châu lúc sanh tiền, có ghé Nhựt năm 1950
để hội kiến với Kỳ ngoại hầu Cường Để và, theo một số sử liệu, từng lãnh đạo
Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội trong nước. Có lúc ông bị Việt Minh bắt giữ và
- khác với Bảo Đại - đã cương quyết bác
bỏ lời mời của Hồ Chí Minh làm Cố vấn cho Chánh phủ do Hồ dựng ra. .
Hiệp định Genève, ký ngày 20.7.1954, chia
đôi VN nơi vĩ tuyến 17. Trong đám đông
quần chúng đón tiếp nồng nhiệt Thủ tướng Diệm tại phi trường Tân Sơn Nhứt có
ông Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên bí thơ của Toàn quyền Decoux, cùng đi với ông QTĐ.
Thủ tướng Diệm - kiêm luôn Quốc phòng và Nội Vụ - mời ông Thơ tham gia Nội các
với tư cách Bộ trưởng Nội vụ. Ông Thơ chọn ông Đức làm Đổng lý Văn phòng năm
1954. Ngày 23.10.1955, một cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Ngày 26.10.1956, từ Thủ tướng trở thành Tổng
thống, ông Diệm thiết lập nền Đệ nhứt Cọng hoà VN. Quân đội tổ chức một cuộc
diễn binh huy hoàng tại đại lộ Trần Hưng Đạo Sàigòn dưới quyền điều khiển của
Dương Văn Minh, vừa vinh thăng Thiếu tướng sau khi tảo thanh xong Bình Xuyên
taị Rừng Sát. Ông QTĐ thay thế Đổng lý Tôn Thất Trạch cuối năm 1954 và giữ chức vụ này cho đến ngày
Quân đội đảo chánh năm 1963.
Nhận xét về
mối liên hệ của TT Diệm với gia đình.
Theo ông QTĐ, năm 1954 chánh phủ Pháp trả
trước dinh Gia Long ở đường Gia Long, và sau khi quân đội Pháp rút khỏi Việt
Nam, nhà cầm quyền Đệ nhứt cọng hoà mới thu hồi Dinh Toàn quyền Norodom, đổi
tên thành Dinh Độc lập, trên đại lộ Thống nhứt. Dinh này đươc kiến trúc sư Ngô
Viết Thụ, khôi nguyên La Mã, xây cất lại hoàn toàn sau ngày 27.2.1962 vì Dinh
bị hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom hư hại khá nặng.
Dinh Độc lập chia làm hai tầng: tầng dưới
có hai phòng khánh tiết tráng lệ và các Văn phòng của Cố vấn Ngô Đình Nhu, Bộ
trưởng Phủ Tổng thống, Đổng lý Văn phòng, Tổng thơ ký Phủ Tổng thống và nhân
viên. Tầng trên chia làm ba phần: phía trái dành làm Văn phòng và phòng ngủ của
Tổng thống, phòng sĩ quan tuỳ viên; ở giữa có hai phòng tiếp tân khang trang;
phiá phải là nơi cư ngụ của gia đình ông bà Nhu gồm có hai trai, hai gái. Tổng
thống Diệm thích làm việc trong phòng ngủ, trang trí sơ sài vôùi một cái giường nhỏ bằng gổ, một bàn tròn và ba
ghế da. Nơi đây, Tổng thống thường dùng cơm và tiếp các Bộ trưởng và tướng
lãnh.
Gia đình Tổng thống rất trọng Nho giáo.
Hằng năm vào Tết Nguyên đán, luôn luôn tụ họp đông đủ ở Phủ Cam, Huế, để chúc
thọ bà cụ Ngô Đình Khả giao cho người con áp út Ngô Đình Cẩn săn sóc ngày đêm.
Ông bà Ngô Đình Khả có chín người con: 6 trai, 3 gái. Trưởng nam, Tổng đốc Ngô
Đình Khôi và con trai là Ngô Đình Huân
bị CS giết năm 1945. Ba người con gái là bà Ngô Đình Thị Giao tức bà Thưà Tùng,
bà Ngô Đình Thị Hiệp tức bà Cả Ấm, thân mẫu của Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận và
bà Ngô Đình Thị Hoàng tức bà Cả Lễ, mẹ vợ của Nghị sĩ Trần Trung Dung. TT Diệm
là người con trai thứ ba trong gia đình nhà Ngô, sanh năm 1901 taị Huế, được vua
Bảo Đại bổ nhiệm năm 1933 Thượng thơ đầu
Triều lúc 33 tuổi nhưng ông Diệm sớm rủ
áo từ quan vì thực dân Pháp không chấp nhận chương trình cải tổ rộng lớn của
ông.
Sau ngày ông Khôi qua đơì, Tổng giám mục
Ngô Đình Thục, trở nên người anh cả “quyền huynh thế phụ”. Đức cha được kính nể
và có nhiều ảnh hưởng đối với TT Diệm. Ông QTĐ cho biết, lúc còn ở Vĩnh Long,
Giám mục Thục vài tuần có về Saigon ngụ trong Dinh. Ông Ngô Đình Luyện, con út
trong gia đình, đại sứ ở Luân Đôn, năm khi mười họa mới về nước nghỉ phép hay
để dự các phiên họp của Hội đồng Tối cao Tiền tệ mà ông là một thành viên. hay
để dự các phiên họp của Hội đồng Tối cao Tiền tệ mà ông là một thành viên. Ông
Đức không nhớ có lần nào gặp ông Cẩn trong Dinh Độc Lập.
Văn phòng Đổng lý không làm việc thẳng với
Cố vấn Nhu. Ông Nhu có nhân viên riêng trong Sở Nghiên cứu Chánh trị Phủ Tổng
thống mà người giám đốc đầu tiên là đốc
phủ sứ Vũ Tiến Huân, Tham lý Nội An Bộ
Nội vụ, về sau thay thế bởi bác sĩ Trần Kim Tuyến. Văn phòng của Sở Nghiên cứu
xử dụng một ngôi nhà riêng trong hàng rào Dinh Độc lập. Vài tháng trước vụ binh
biến 1.11.1963, Tuyến bị thất sủng, trung tá Phạm Thư Đường thay thế. Tuyến được bổ nhiệm làm Tổng lãnh sự (hụt) tại Le
Caire, trở lại VN và liên hệ đến một nhóm âm mưu đảo chánh. Đảo chánh thành
công, bs Tuyến bị Hội đồng Cách mạng đày ra Côn Đảo (tỉnh trưởng là trung tá
Tăng Tư) trên một năm cùng với lối 200 nhân vật chế độ củ gồm có Ngô Trọng
Hiếu, Cao Xuân Vỹ, đại tá Nguyễn Văn Y, Hà Như Chi, Dương Văn Hiếu…. Ông QTĐ
không thể xác nhận tin nói rằng trước ngày 1.11.1963, ông Nhu đã giao cho người
em vợ là Trần Văn Khiêm điều khiển cơ quan mật vụ. Khiêm bị nhiều tai tiếng,
từng cọng tác với Văn phòng của luật sư Trương Đình Dzu, ứng cử viên Tổng thống
thời Thiệu-Kỳ. Vụ Khiêm giết cha mẹ là ông bà cựu đại sứ Trần Văn Chương taị
Hoa kỳ sau 1975 làm dư luận xôn xao. Toà án Mỹ tha Khiêm với lý do Khiêm bị
bịnh tâm thần và trục xuất Khiêm khỏi Hoa kỳ. Khiêm hiện sống bình thường ở
Pháp. Có sự điều đình chánh trị gì bên
trong vụ án này?
Khi được hỏi cách cư xử của TT Diệm với bà
Nhu (nhủ danh Trần Lệ Xuân), ông Đức cho biết “ông cụ có vẻ nể và ủng hộ bà
Nhu” trong vụ tổ chức Phong trào Phụ nữ Liên đới và vận động Quốc hội ban hành
Bộ Luật Gia đình cấm ly dị. Tổng thống cho rằng bà Nhu hành động như vậy là
giúp cải tổ xã hội. Tuy nhiên, những kẻ xấu miệng lại cho rằng Bộ Luật Gia đình
nhằm mục tiêu riêng: ngăn luật sư Nguyễn Hữu Châu ly dị với vợ là Trần Lệ Chi,
chị của bà Nhu. Ngoài chức vụ dân biểu Quốc hội, bà Nhu còn là chủ tịch Phong
trào Phụ nữ Liên đới. Khi tiếp quốc khách, bà Nhu đóng vai trò Đệ nhứt Phu nhân
vì Tổng thống độc thân. Tuy bất bình về những lời tuyên bố châm dầu vào lửa của
người em dâu trong vụ Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11.6.1963 (đặc biệt với câu
"monks' barbecue"), ông Diệm không công khai phủ nhận vì ngại
đụng chạm đến ông Nhu vào một giai đoạn rối như tơ vò. Chính ông Nhu, với tánh
hay nhường nhịn cho yên nhà yên cửa, cũng không kiểm soát nổi lối phát ngôn của
vợ. Bà Nhu hiện có một cuộc sống kín đáo, đơn sơ, nặng về tôn giáo, qua la#i
giữa Paris và Rome, tất cả con cái đều thành tài. Trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy
chết trong một tai nạn lưu thông sau 1975. Sự bất hạnh không ngớt đeo đuổi gia
đình nhà Ngô. Thời gian gần đây, bà Nhu
thay bà Luyện để tổ chức hằng năm tại
Paris một lễ cầu hồn cho TT Diệm và ông Nhu. Trong số ít người còn lui tới với
bà Nhu, có vợ chồng cựu bộ trưởng Lao động Hùynh Hữu Nghiã. Ông Nghĩa qua
đời năm vừa rồi.
Về tin đồn Đức cha Thục làm kinh tài (khai
thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ
nhà sách Albert Portail..v..v..), ông
Đức cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không
làm điều gì quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài
thành lập. Trải qua một cuộc đời sóng gió và gặp nhiều hiểu lầm với Toà thánh
Vatican sau 1975, TGM Ngô Đình Thục được
Giáo hoàng phục hồi chức tước, về hưu ở Hoa kỳ và đã ra đi bình yên tại một Viện dưỡng lão công
giáo thuộc tiểu bang Missouri.
Ông QTĐ xác nhận ông Ngô Đình Nhu chẳng
những là lý thuyết gia mà còn là bộ óc của Đệ nhứt Cọng hoà, “l’homme
indispensable, nhân vật cần thiết”. Ông xuất thân từ ÉØcole des Chartes
Paris, trầm tỉnh, ít nóí, lạnh nhạt bên ngoài, thích nghiên cứu lịch sử, có
nhiều sách hơn đồng chí. Trong lối ba năm chót của chế độ, dù giữ quyền quyết
định cuối cùng trong mọi việc, TT Diệm thường phê chuyễn các hồ sơ chánh trị
quan trọng qua cho ông Nhu để lấy ý kiến, không kể những cuộc gặp mặt thảo luận
riêng hằng ngày. Ông Nhu làm việc âm thầm, cần mẩn, hút thuốc liên hồi (mỗi lần
nửa điếu, do sự can ngăn của bà Nhu) trong một văn phòng không rộng, đầy ngập
sách vở, ánh sáng mờ mờ, ở tầng dưới Dinh Độc lập, có gắn máy lạnh và
interphone với bên ngoài. Ông thường phê
vào các công văn với một cây bút chì mỡ màu xanh lá cây. Ông là cha đẻ của Đảng
Cần Lao, dựa vào thuy?t Nhn Vị, Personnalisme, đúc kết hai xu hướng của triết gia công giáo
Emmanuel Mounier (1905-1950) và Jacques Maritain (1882-1973). Ông phát động và thực hiện kế hoạch quốc phòng Ấp
chiến lược từng gây khiếp đảm cho CS Bắc Việt. Quốc sách này được thành lập bởi
Nghị định số 11-TTP của Tổng thống và ông Nhu là Chủ tịch Uy ban Liên bộ đặc
trách Ấp chiến lược
Ông
Nhu cũng cho thành lập Phong trào Thanh niên và Thanh nữ Cọng hoà giao
cho Cao Xuân Vỹ phụ trách. Ông đẩy mạnh tổ chức Lao động ở Việt nam và nâng đở
Trần Quốc Bửu. Đại tá CIA Lansdale (người đã ủng hộ Magsaysay trở thành
Tổng thống Phi Luật Tân năm 1952) giúp ông móc nối với Lực lương kháng chiến
Cao Đài để đưa tướng Trình Minh Thế về với
Quốc gia. Ngoài chức Tổng Bí thơ Đảng Cần Lao (tổ chức theo mô hình đảng
Cộng sản, với một Quân ủy trong Quân đội), (tổ chức theo mô hình đảng Cộng sản,
với một Quân ủy trong Quân đội), có một lúc ông Nhu là dân biểu Quốc hội. Ông
không bao giờ tháp tùng Tổng thống trong các cuộc kinh lý. Săn bắn là thú tiêu
khiển yêu chuộng của ông và đồng thời là cơ hội tìm nơi yên tịnh để suy nghĩ.
Ông
đại sứ Luyện, gốc kỹ sư, tánh tình cởi mở, thích giao du với bạn bè mỗi khi về
VN nhưng không có nhiều ảnh hưởng vì không xen vào vấn đề nội trị. Ông là bạn
học của cựu hoàng Bảo Đại, sống taị Luân đôn và đại diện VNCH ở nhiều xứ Âu
châu và Phi châu. Sau khi vợ trước qua đời, ông Luyện tục huyền với em vợ và có
rất đông con. Bà Luyện sống ở ngoại quốc nhiều hơn và ít khi xuất hiện. Sau
1963, ông Luyện daỵ toán taị một trường tư thục Paris, sau đó sang Phi chu làm việc một
thời gian, tình trạng khá chật vật khi về hưu. Ông có qua Hoa Kỳ vài lần để
thăm Đức TGM Thục, không có liên lạc với bà Nhu, và ông đã quá vãng ở Pháp năm
1982.
Cho đến cuối năm 1961, vai trò của ông Ngô
Đình Cẩn, Cố vấn lãnh đạo Miền Trung, trái lại, rất hệ trọng về mặt an ninh và
đoàn thể. Ông Cẩn không ăn học cao nhưng nắm vững tình hình địa phương, có óc
tổ chức, luôn luôn trang phục theo lối Việt, áo dài, khăn đống, ăn trầu, (từ đó
biệt danh “Ông Cố Trầu”), độc thân, thích hút thuốc Cẩm Lệ, đan rổ, làm
vườn, nuôi thú, nuôi chim. Ảnh hưởng của ông lan vào Miền Nam với những điệp vụ
mang danh nghĩa chiêu hồi của Đoàn Công tác Đặc biệt do Dương Văn Hiếu quán
xuyến, sự hiện diện của Nguyễn Văn Hay trong cương vị phó TGĐ taị Tổng nha Cảnh
sát Công An Sàigòn và các hoạt động của cánh Cần Lao do nha sĩ thân tín Phan
Ngọc Các điều khiển. Sau 1.11.1963, viên lãnh sự Mỹ Helble taị Huế không cho Cẩn và thân mẫu được tị nạn chánh trị
taị Toà lãnh sự trong khi trước đó, cơ quan USAID Sàigòn chứa chấp Trí Quang
nhiều ngày. Lúc vừa bị bắt, ông Cẩn có chỉ cho tướng Đổ Cao Trí tịch thu tại
nhà ông ở Phú Cam, dưới gầm giường, "một bao bố và một va-li đựng quý
kim" (đọc hồi ký Dòng họ Ngô Đình của Nguyễn Văn Minh, bí thơ của N Đ Cẩn,
trang 307). Ông Cẩn bị Hội đồng Quân
nhân Cách mạng, thời Nguyễn Khánh, xử tử vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 9.5.1964
taị sân sau khám Chí hoà, Sàigòn. Luật sư bào chửa là Võ Văn Quan. Cố vấn Cẩn tỏ ra bình tỉnh tại pháp trường,
tuyên bố tha thứ cho các người tuyên án ông và xin đừng bị bịt mắt nhưng không
được chấp nhận. Nếu gia đình thỏa thuận
lấy của đổi mạng, ông Cẩn có thể đã thoát chết. Vụ tống tiền này đã được cố
nghị sĩ Trần Trung Dung và cố trung tướng Lâm Văn Phát xác nhận với người viết
sau 1975.
Được
hỏi về tin đồn có sự cạnh tranh ảnh hưởng chánh trị giữa Nhu và Cẩn, ông QTĐ
nói chỉ nghe nói phong thanh. Vào tháng 10.1963, ông Cẩn nhận được lệnh của TT
Diệm ngưng mọi hoạt động về đoàn thể và đóng cửa Văn phòng Cố vấn chỉ đạo ở
ngoài Trung gồm có Hồ Đắc Trọng và đại úy Nguyễn Văn Minh. Hình như sự hiện
diện của TGM Ngô Đình Thục tại Huế đã bó tay ông Cẩn phần nào. Ông Cẩn không
dám phê bình chị dâu tuy không ưa bà Nhu. Trong phạm vi cá nhân, ông Cẩn giữ
liên lạc tốt với Thượng tọa Trí Quang nhưng điều này không giúp giải quyết cuộc
khủng hoảng Phật giáo. Hoa kỳ và Cộng sản đã nhúng tay quá sâu.
Người viết có yêu cầu ông QTĐ cho biết
trong gia đình họ Ngô, ai là người gây tiếng tâm bất lợi cho chế độ. Suy nghĩ
một phút, ông Đức đáp: TGM Thục và bà Nhu. Đặc biệt trong giai đọan Phật giáo. Đức cha
ảnh hưởng quá nặng ngoài lãnh vực tôn giáo. Bà Nhu xen quá sâu vào chính trị,
điều ít thấy trong giới phụ nữ VN. Ngó từ bên ngoài, năm anh em Ngô Đình rất khắn
khít, mỗi người giúp tay tích cực xây dựng chế độ trong một lãnh vực. Sự đoàn
kết ấy được diễn tả trong huy hiệu Đệ nhứt cọng hoà: năm cành trúc kết thành
một bó, dưới khẩu hiệu “Tiết trực Tâm Hư.” Tuy nhiên, mỗi nhân vật có cá
tánh riêng, nhận định không luôn luôn nhất thống, đôi khi còn mâu thuấn. Đó là
hậu quả khó thể tránh trong một chế độ dựa vào gia tộc để lãnh đạo. Phe chống
đối cũng như Hoa kỳ và Cộng sản đều khai
thác triệt để và dễ dàng nhược điểm này.
Dư luận cho rằng trong năm chót của chế
độ, trước cuộc binh biến 1.11.1963, ông Nhu – trên thực tế – là một “Tổng thống
không ngôi” vì có nhiều quyền lực, làm lu mờ vai trò của ông Diệm nhưng quyền
bính hiến định vẫn ở trong tay ông Diệm bị tấn công tứ phiá, bên trong lẫn
ngoài nước. Không có một văn kiện chánh thức nào bổ nhiệm ông Nhu lẫn ông Cẩn
làm Cố vấn Chánh phủ. Chính các đoàn thể chánh trị ở Miền Trung mời ông Cẩn làm
“Cố vấn Chỉ đạo” và dành cho ông danh xưng nầy. Có lúc dư luận
cảm thấy ông Diệm cần ông Nhu hơn là ông Nhu cần ông Diệm. TT Diệm không thể
tách rời khỏi ông Nhu đóng vai trò "l'âme damnée, linh hồn đày
đọa". Đó là đầu mối thảm trạng xảy
ra cho hai người vào giờ phút chót.
TT Diệm tưởng lầm có thể dùng uy tín cá
nhân để bảo vệ sanh mạng của bào đệ. TT Diệm cũng tưởng lầm khối tướng lãnh
chấp nhận điều đình với ông. Phần đông tướng lãnh kính nể TT Diệm nhưng tất cả
ngán sợ ông Nhu vì ông Nhu lắm mưu mô, nhiều bản lãnh. Sự ngán sợ đã trấn áp lòng nể trọng và dẫn
đến quyết định hy sinh vị nguyên thủ quốc gia. 3 giờ trưa ngày 1 tháng 11, lúc
tiếng súng đang nổ lớn , TT Diệm điện
thọai cho đại sứ Lodge: Một cuộc điện đàm ngắn ngủi, đầy phẩn nộ trong khuôn
khổ ngoại giao. Khi hay hai ông Diệm,
Nhu thoát khỏi Dinh Gia Long đêm1.11.1963, nhóm phản lọan “run den phát rét
“ và một tướng cầm đầu định “trở cờ”, theo sự tiết lộ của Tổng thống
Thiệu trước khi qua đời với người viết. Conein thúc phe phản lọan phải bắt sống
cho kỳ được hai ông Diệm, Nhu. Conein nói suồng sã: “On ne fait pas
l’omelette sans casser les oeufs, Không thể rán trứng mà không đập bể trứng
! ”, theo Trần Văn Đôn kể lại trong Hồi
ký.
TT Diệm không chiụ ra lệnh cho một số đơn
vị võ trang trung thành phản công quân đảo chánh vì muốn tránh cảnh nồi da xáo
thịt, làm suy giảm tiềm năng kháng cộng.
4 giờ sáng ngày 2.11.1963, hai tư lệnh Quân khu thân tín ở Vùng I và II
là tướng Đổ Cao Trí và Nguyễn Khánh tuyên bố ủng hộ Hội đồng Cách Mạng. Hy vọng cuối cùng tan biến. Hai giờ sau, Tổng
thống cho phép đại úy Đổ Thọ, sĩ quan tùy viên, điện thoại cho chú y là đại tá
Đổ Mậu yêu cầu cho xe đến đón tại Nhà thờ Cha Tam Chợlớn. Lúc 6 giờ và 6 giơ 45
sáng ngày 2.11.63, TT Diệm đích thân điện thoại
cho các tướng Minh, Đôn và Khiêm để tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng.
Dương Văn Minh chỉ định Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Quang, Dương Ngọc Lắm, Dương
Hiếu Nghĩa và Nguyễn Văn Nhung (tên vệ
sĩ đã từng thủ tiêu xác của Ba Cụt) đi đón, với chỉ thị riêng thanh toán hai ông
Diệm, Nhu, trước khi về tới Bộ Tổng tham
mưu. Thái thú Cabot Lodge nhắm mắt trước
vụ mưu sát bỉ ổi này mà ông có dư quyền chận lại nếu muốn. Đây là một vết nhơ
không bao giờ rửa sạch trong lịch sử đại cường Hoa kỳ. Tổng thống Kennedy (lãnh
tụ đảng Dân chủ) quá yếu đuối, để cho thuộc hạ lật đổ ông Diệm một cách vô
trách nhiệm, với sự a tùng của viên đại sứ đồ tể Cabot Lodge (thuộc đảng Cọng
hoà). Mai Huu Xuân (đồ đệ của tên Cò
khát máu Pháp Bazin) sống cô đơn, qua đời tại vùng Bắc Californie vì bịnh tim,
nhiều hôm sau lối xóm mới khám phá được, báo cho cảnh sát. Đại tá Quang (gốc
Đaị Việt và cấp trên của Dương Văn Minh trong Quân đội Pháp) thăng thiếu tướng,
một thời gian ngắn thì chết vì bịnh lao phổi.
Ông Nhu có thiện cảm với Pháp hơn với Mỹ,
yếu tố văn hoá/ giáo dục ảnh hưởng nặng.
Ông Diệm lại e dè với Pháp (qua kinh nghiệm thất vọng thời làm quan dưới
triều thực dân) nhưng rốt cuộc, oái oăm thay, ông trở thành nạn nhân của Mỹ mà
ông nghĩ là văn minh và nhân đạo hơn!
Con người
của chí sĩ Ngô Đình Diệm.
Nhiều sách vở và tài liệu đã nóí về cuộc
đời chánh trị và riêng tư của TT Ngô Đình Diệm. một lãnh tụ cương trực, khí
khái, chống cộng cố hữu (anti-communiste
invétéré) cũng như bướng bỉnh với đế
quốc, bất luận Pháp, Tàu hay Mỹ. Theo ông QTĐ, TT Diệm có cái uy nghiêm riêng
phát xuất từ một gương mặt phúc hậu, một tác phong cương nghị, một giọng Huế ấm
áp, một lối nhìn thẳng vào người đối thoại. Một nốt ruồi đen thấy rỏ trên gò má
dưới mắt trái của Tổng thống được các
nhà tử vi xem như báo hiệu một số mạng nhiều buồn phiền và tang tóc. Ông
không nặng lời hay gắt gỏng với cấp thừa
hành, khi không vừa ý.
Phong cách của TT Diệm làm cho những người
tiếp xúc với ông phải kính nể. Sau cái
bề ngoài trầm tỉnh, TT Diệm là một con người cuồng nhiệt, một hỏa diệm sơn,
kiên trì trong mục đích, không nhân nhượng trên những đức tin căn bản. Trong
chín năm làm việc tại Dinh, ông Đức cũng có dịp chứng kiến một ít trường hợp –
vì lý do đặc biệt – Tổng thống thịnh nộ, quát tháo, đập bàn .. Những “trận bão”
này, tuy nhiên, qua mau, Tổng thống tự kềm chế cấp thời vì bản tánh của ông bộc
trực, không cố chấp, không thâm độc như Hồ Chí Minh. Ông có thể độc thoại hàng
giờ khi nói đến những đề tài mà ông nghiền ngẫm
như chủ thuyết cộng sản, ấp chiến
lược, khu trù mật, dinh điền, cải tổ hành chánh, hay văn hoá Khổng Mạnh. Mái tóc đen nhánh,
dáng người thấp, chân đi hai hàng lạch bạch nhưng mau lẹ. Rất sùng đạo, xem lễ
mỗi buổi sáng tại hoặc một phòng riêng trong Dinh, hoặc nhà nguyện Dòng Chúa
Cứu thế. Trang phục màu trắng, cà vạt
đen quanh năm, không thay đổi. Làm việc
bất chấp giờ giấc, với nhịp độ làm các người thân cận mệt nhoài. Khi có
vấn đề khẩn, ông cho mời nhân viên hữu trách vào Dinh để đàm đạo thâu đêm. Bằng
không, ông đọc phúc trình, hồ sơ đến khuya, uống trà, hút thuốc nhưng không bao
giờ hút hết phân nửa điếu thuốc.
TT Diệm kinh lý không biết mệt, có khi mỗi
tuần đi suốt hai ba ngày, đến các tiền đồn hẻo lánh, làng Thượng xa xôi, xử
dụng mọi phương tiện chuyên chở: máy bay, ghe, tàu, xe jeep, trực thăng….. Ông
không hùng hồn trước đám đông nhưng rất thoải mái và thân mật ở giữa những nhóm
nhỏ, không quan cách, không mị dân
Khi nhóm Hội đồng Nội các, Tổng thống Diệm
thường ra ngoài chương trình ấn định, nếu tình cờ gặp một đề tài gây chú ý. Ông
nói say mê, không đầu không đuôi, lắm khi không kết luận. Với tư cách thơ ký
phiên họp, ông QTĐ ghi mệt tay. Lúc bế mạc, các bộ trưởng thường phải nhờ ông
Đức tóm tắt vì suốt chín năm trời làm việc bên cạnh Tổng thống, ông Đức đã quen
và rút kinh nghiệm, tuy đôi lúc cũng đoán lầm.
TT Diệm sống rất nặng về lý tưởng. Con
người Khổng giáo nghiêm khắc và Công giáo khổ hạnh nơi ông có những nhận xét
lắm khi không sát thực tế. Ông thường nhắc rằng người cán bộ trung thành luôn
luôn hy sinh vì đại cuộc mà không cần đến cơm áo, danh vọng và chức tước, một
lời khen của lãnh tụ đủ gây mãn nguyện. Khổ nổi, không phải cán bộ nào cũng
thánh thiện như thế. Cuộc nổi loạn năm 1963 là một sự cải chính xót xa. Sánh
với Hồ Chí Minh, ông Diêm là một lãnh tụ đức độ thiếu mưu lược, ghét xảo
quyệt.
Thú tiêu khiển của TT Diệm không nhiều vì thiếu giờ rảnh. Ông thích cỡi ngựa ở
Đàlạt hay trong vòng rào của Dinh Độc Lập trong những năm yên ổn. Ông sưu tập
máy ảnh, thích chụp hình và rất vui khi nhận được một máy lọai mới. Chủ tiệm
chụp hình Hà Di thường được gọi vào Dinh về vấn đề chuyên môn. Tổng Thống ăn
uống thanh đạm, thường bữa dùng tại ngay phòng ngủ, do ông già An và đại uý
Nguyễn Bằng phục dịch, thực đơn ít khi
thay đổi gồm có cơm vắt, muối mè, cá kho và rau. Tổng thống ít khi đau, lâu lâu
cảm cúm, có bác sĩ Bùi Kiện Tín chăm sóc. Phòng nội dịch không đông nhân viên,
do ông Tôn Thất Thiết phụ trách. Vấn đề tiền bạc riêng của Tổng thống thì giao
trọn cho Chánh văn phòng đặc biệt Võ Văn Hải, ông Diệm không có nhu cầu
lớn. Ông Hải, học trò cũ của GM Ngô Đình
Thục, tốt nghiệp Trường Khoa học Chính trị Paris, cử nhân Hán học, rể của cựu Thượng
thơ Nguyễn Khoa Toàn, theo sát Tổng thống
Diệm từ lúc còn bôn ba ở hải ngoại và được ông Diệm thương như con. Ông
Hải chính là người được TT Diệm chỉ định ngày11.11.1960 ra trước cổng Dinh Độc
Lập tiếp xúc với các sĩ quan phản lọan Nguyễn Chánh Thi - Vương Văn Đông để tìm
hiểu yêu sách của họ. Hải chống ông bà Nhu và bác sĩ Tuyến, giám đốc Sở Mật vụ
và cũng không thích ông Cẩn.
Ông Đức còn thêm: Vài hôm sau 1.11.1963,
ông có chứng kiến vụ Hải lập biên bản trao cho đại úy Đặng Văn Hoa, chánh văn
phòng của tướng Trần Văn Đôn số tiền của TT Diệm giao cho Hải cất giữ. Ông Đức không biết số tiền này được bao nhiêu
và lọt vào túi của ai. Nôi hai trang cuối cùng của hồi ký Việt Nam Nhân chứng,
Trần Văn Đôn có ghi rỏ Hải đã trao hai số bạc mặt 2.390.000 đồng và 6.297 Mỹ
kim, Dương Văn Minh lấy 6.000 đô và chia cho Trần Thiện Khiêm 297 đô. Số bạc VN
được phân phát cho Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh,
Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Phạm Ngọc Thảo, Trần ngọc Tám và Trần Thiện
Khiêm, riêng Đôn có nhận 24.500 đồng.
Khi phe quân nhân lên cầm quyền, Võ Văn
Hải có can đảm tổ chức nhóm “Tinh thần Ngô Đình Diệm” và ra ứng cử dân
biểu taị Sàigòn nhưng thất cử. Năm 1974, không hiểu vì sao Hải lại xoay qua,
cùng với Tôn Thất Thiện, ủng hộ nhiệt tình tướng Dương Văn Minh là người ra lệnh
hạ sát hai ông Diệm, Nhu. Hải qua đời trong một trại giam Bắc Việt sau 1975,
đem theo nhiều điều bí mật chưa hề tiết lộ.
Về câu hỏi TT Diệm liên hệ ra sao với đảng
Cần Lao, ông QTĐ cho biết ông Diệm chỉ để ý theo dõi hoạt động của Phong Trào
Cách Mạng Quốc gia (tổ chức nồng cốt của
chế độ từ lúc đầu) và Liên đoàn Công
chức Cách mạng, một tổ chức ngoại vi của Chánh phủ. Về chuyện thành lập và sinh
hoạt của đảng Cần Lao, TT Diệm giao hết cho hai ông Nhu và Cẩn. Trong các năm
chót của chế độ, kế hoạch ẤÙp chiến lược cũng do ông Nhu hoàn toàn phụ trách,
Tổng thống không lưu ý đến như đã từng lưu ý đến kế hoạch Dinh điền hay Khu Trù
mật. Các gương mặt nổi trong hoạt động Cần Lao gồm có các ông Huỳnh Văn Lang,
Trần Kim Tuyến, Lê Văn Đồng, Huỳnh Hữu Nghĩa, Lê Quang Tung, Đổ Mậu, Nguyễn Văn
Châu, Đổ Kế Mai, Nguyễn Trân ..v..v.. Bs Tuyến làm việc với ông Nhu, ít khi gặp
Tổng thống, trừ trường hợp đặc biệt. Quyết định đưa Cần Lao vào Quân đội –
tức là chính trị hoá Quân đội – làm yếu
Quân đội vì phá vỡ hệ thống quân giai và làm nản lòng các sĩ quan chuyên
nghiệp. Quân đội chỉ biết có Tổ Quốc. Và phục vụ tổ quốc mà thôi.
Vụ
công điện số 9159 cấm treo cờ Phật giáo
và sự trở mặt của các sĩ quan thân tín.
Trong quyển hồi ký “ Dòng họ Ngô Đình”,
xuất bản năm 2003 taị Californie, tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí
thơ (1956-1963) của cố Ngô Đình Cẩn, ghi
nơi trang 164-165: Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7 em bé và một số Phật tử
tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Đản 1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn
Công tác đặc biệt Miền Trung, vào Dinh để phúc trình với TT Diệm, ông Diệm nói
với Hiếu như sau về vụ treo cờ Phật giáo: “Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức
gởi công văn nhắc các Tỉnh, chứ tôi có cấm chi mô! Không hiểu taị răng hắn để
tới ngày chót mới gởi công điện. Khi xảy chuyện, tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi.
Công chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi thì ích chi?”. Nguyễn Văn Minh còn
viết thêm ý kiến của Tôn Thất Đính: “Ông Đức đã gởi đi một công điện mà
không tham khảo ý kiến ông Cố vấn Ngô Đình Nhu..Lẽ nào lại tự tiện đánh đi một
công điện như vậy nếu không được tình báo Mỹ
tổ chức?”
Được hỏi nghĩ sao về những đoạn trích dẫn
trên đây, ông QTĐ tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Ông xác quyết không bao giờ có nhận
được lệnh của ông Diệm thảo và gởi cho các Tỉnh trưởng công điện số 9159 đề
ngày 6.5.1963 do ông Nguyễn Văn Minh nêu ra, với nội dung “ chỉ thị cho các
cơ quan phụng tự (nhà thờ, chùa chiền..chỉ treo cờ Quốc gia mà thôi”
(nguyên văn). Trước đó, việc treo cờ được giải quyết bởi hai nghị định số 78 và
189 của Bộ Nội vụ (năm 1957 và 1958) và một sắc lệnh đầu năm 1962 của Phủ Tổng
thống nhắc nhở quần chúng tôn trọng Quốc kỳ.
Ông Đức kể lại: Tháng tư 1963, sau một
cuộc thị sát vào mùa lễ Phục Sinh, TT Diệm có chỉ thị cho ông Đức gởi thông tư
lưu ý các giới chức Tỉnh về thể thức treo quốc kỳ VN trong các ngày lễ đạo,
không phân biệt tôn giáo nào: treo trước
cổng giáo đường, ở chính giữa và phiá trên, đúng kích thước, còn các cờ đạo và cờ đoàn thể thì ở vị trí
thấp hơn. Thông tư nhấn mạnh: phiá trong các giáo đường, chùa chiền và những
nơi thờ phượng, giáo kỳ được treo tự do, không giới hạn. Lệnh của Tổng thống
được phổ biến ngay ngày hôm sau.
Theo
ông QTĐ, đầu tháng 5.1963, tại Huế, xảy ra một điều đáng tiếc: Để lấy điểm trong lễ Ngân khánh 25 năm thụ
phong giám mục của Đức cha Ngô Đình Thục, nhà chức trách hành chánh địa phương
đã cho treo cờ Vatican "loạn xạ", bất chấp thông tư nói trên.
Một tuần sau - ngày 8.5.1983 - vào lễ
Phật Đản, các Phật tử cũng tự tiện treo
cờ Phật giáo như thế. Hôm sau, Tỉnh trưởng Thừa Thiên trở lại thi hành thể thức
treo cờ trong thông tư của Phủ Tổng thống nên gây sự phẩn nộ của Phật tử vì họ
cho rằng đây là một biện pháp bất công, kỳ thị. Tại Miền Nam, theo ông Đức, với
4.800 chùa Phật, không có xảy ra vấn đề như ở Huế.
Ông Đức còn nhớ rất rành mạch rằng, sau
thảm kịch tại Đài Phát thanh Huế chiều ngày 8.5.1963, Tổng thống có đòi ông vào
Văn phòng để đưa cho ông xem, với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán
nãn”, công điện ngày 6.5.1963 nói trên và hỏi “một cách sơ sài” ai
đã gởi đi chỉ thị ấy. Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công văn gởi đi
không có dấu vết của tài liệu vưà kể.
Theo ông QTĐ, trong hoàn cảnh chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích
Quảng Đức tự thiêu, Quách Thị Trang bị baén chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ
ở Huế, tướng lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa..v..v..), TT
Diệm rối trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra. Ông có lẽ dư
biết việc giả tạo công điện 9159 là một đòn
phép mới của phe chống Chánh phủ ( Phật giáo Ấn quang? Tình báo Hoa kỳ?
Đảng phái đối lập? hay Cộng sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều
thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ chức”ông Đức – như tướng Đính ởm
ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền.
Để
tỏ thiện chí dàn xếp, Chánh phủ đồng ý cho hai Ủy ban Liên bộ và Liên phái công bố một thông cáo chung ngày 16.6.1963
xác định những điểm đã thỏa hiệp về
việc treo cờ Phật giáo và Quốc kỳ, hưá
xét lại Dụ số 10 trước Quốc hội vào cuối
1963, tạm ngưng áp dụng Nghị định của
Phủ Tổng thống số 116/TTP/TTK ngày
23.9.1960 ấn định thể thức mua bán bất động sản
và đất đai của Phật giáo, hứa sẽ trừng trị nhân viên có lỗi và bồi thường các gia đình
nạn nhân. Tuy nhiên, mọi việc đã quá trể đối với Hoa kỳ và Bắc Việt.
Trong hồi ký “Ngô Đình Diệm, Nổ lực hoà
bình dang dở”, (nxb Xuân Thu Californie 1989), nơi trang 189-190, Nguyễn
Văn Châu, nguyên giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý Quân đội VNCH, trở thành đối
lập với Chánh phủ trước cuộc binh biến 1.11.1963, có ghi lại: Sau 1975, một cựu
đại uý Hoa kỳ tên James Scott, liên hệ với CIA và từng làm cố vấn cho Tiểu đoàn
1/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, thú nhận trong một lá thơ đăng trên một tuần báo
Mỹ rằng chính y đã gài một trái bom nổ chậm
chiều 8.5.1963 taị Huế. Sự kiện này cũng được Trần Kim Tuyến, dưới bút
hiệu Lương khải Minh, ghi lại trong hồi ký Làm thế nào giết một Tổng thống?
(tập 2, trang 366-370). Theo trung tướng Trần Thiện Khiêm xác nhận với
Marguerite Higgins, tác giả quyển sách Vietnam, Our nightmare, chương VI,
Nguyễn Khánh (nắm quyền sau cuộc chỉnh lý 30.1.1964) đã hy sinh thiếu tá Đặng
Sỹ, phó Tỉnh trưởng Nội an Thừa Thiên, để Thich Trí Quang trì hoãn chống
đối. Toà án Mặt trận xữ Sỹ
khổ sai chung thân.
Tình trạng giữa TT Diệm và Mỹ căng thẳng
kể từ muà hè 1962, nổ lớn taị Huế với vụ
Phật giáo 8.5.1963. Qua tháng 7, tin đồn đảo chánh lan rộng. Ngày 21.8.1963, đại sứ Lodge trình
ủy nhiệm thơ và bắt đầu móc nối với tướng lãnh. Sau ngày Lực Lượng Đặc
Biệt của đại tá Lê Quang Tung lục soát
chùa chiền, các tướng tin cẩn của TT Diệm đều đổi lòng, theo phe phản loạn, trừ
ông Cao Văn Viên trước sau như một. Ông Đức cảm động khi được biết đại tứớng
Viên (hiện ở Hoa Thịnh Đốn) đã xác nhận với người viết rằng sau ngày 30.1.1964
Nguyễn Khánh chỉnh lý ê-kíp Dương Văn Minh, Nguyễn văn Nhung, kẻ giết hai ông
Diệm-Nhu, - từ đại úy thăng thiếu tá - bị An ninh Quân đội bắt vào giao cho Lực
lượng Nhãy Dù của Tư lệnh Cao Văn Viên canh giữ. Nhung “đã tự treo cổ bằng
một sợi giây giày trong khám đường”, theo lời tướng Viên.
Được hỏi: trong các tướng thường vô ra
Dinh Độc lập, ai là người được sủng ái nhứt, ông QTĐ đáp không do dự: “ Tôn
Thất Đính và Trần Thiện Khiêm, mà Tổng thống xem như người nhà!”
Điều này không ngăn Đính và Khiêm đóng vai trò chính yếu trong cuộc đảo chánh 1.11.1963, hệ trọng hơn
cả Dương Văn Minh được chọn làm bình phong. Chính Trần Văn Đôn, với tư cách
người móc nối, đã tiết lộ trong hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”, rằng Đôn
có dò xét tâm ý của Đính và đến gặp Khiêm bốn lần, lần đầu vào tháng 9.1963, và
Khiêm có cho Đôn biết “ông ta cũng có một kế hoạch riêng do Mỹ chủ trương”.
Đôn viết (nguyên văn): “Tôi khuyên
ông ta không nên bàn với Mỹ một việc quan trọng như vậy, nên bỏ kế hoạch
ấy đi!”(trang 193). Trong những biến cố
quân sự liên tiếp làm hỗn loạn Miền Nam từ 1.11.1963 cho đến ngày Tổng
thống Thiệu cầm quyền, tướng Trần Thiện Khiêm đứng sau màn giựt giây chiếu theo
lời xác nhận của một số nhân chứng hàng đầu khả tin. Tới nay, ông Khiêm không
đính chánh mà cũng không tiết lộ gì cả. Liệu tướng Khiêm sẽ ra đi như tướng
Thiệu, mang xuống tuyền đài những bí ẩn đau thương của Đệ nhị Cọng hoà Miền Nam
?
Theo QTĐ, Dương Văn Minh không sâu sắc về
chánh trị tuy thời cuộc đưa lên ghế Quốc trưởng hai lần: sau 1.11.1963 (nhờ Mỹ
giúp) và tháng tư 1975 (với sự đồng ý của Bắc Việt). Lần đầu, Minh tại chức ba
tháng; lần sau, được 40 giờ, rồi đầu hàng địch vô điều kiện. Với tư cách Bộ
trưởng Nội vụ, tác giả bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về trường
hợp tẩu tán kho vàng Bảy Viển chứa trong một thùng kẻm lớn, theo phúc trình của
đại tá Nguyễn Văn Y, Tỉnh trưởng Chợ lớn, phụ tá hành quân cho ông Minh
trong cuộc tảo thanh Rừng Sát. Người
viết có mời tướng Minh đến giải thích. Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư
lệnh Hành Quân bị giải tán, tướng Minh được cử làm Cố vấn Quân sự Phủ Tổng
thống, một chức vụ tượng trưng. Từ đó, ông cảm thấy không yên tâm với “chiếc
gươm Damoclès treo trên đầu”, ông hận chế độ – đặc biệt cố vấn Nhu - vô ơn sau khi ông đã chống Nguyễn Văn Hinh,
ủng hộ Thủ tướng Diệm, giúp dẹp Bình Xuyên và bắt nạp Ba Cụt. Một lý do khác
gây nghi ngờ đối với tướng Minh là cơ quan tình báo quốc gia bắt đủ bằng chứng
về mối liên hệ thầm lén giữa ông Minh và người em CS là thiếu tá Dương Văn
Nhựt. bí danh Mười Ty. Một người em khác của tướng Minh là Trung tá QĐVNCH
Dương Văn Sơn cũng đã chứa chấp vợ chồng Nhựt và đóng vai trò liên lạc ở trong
và ngoài xứ. Cục trưởng Trung ương Tình báo và Tổng giám đốc Cảnh sát Công an
Nguyễn Văn Y, hiện ở Virginia, đã xác nhận với người viết có đích thân trình hồ
sơ Dương Văn Minh cho TT Diệm xem. Tổng thống liền ra lệnh hủy bỏ hồ sơ nầy
"trước mắt ông" vì không muốn cho Hoa kỳ biết, “xấu hổ.”
(sic).
Hoa kỳ và Cabot Lodge đã khai thác mối thù
riêng của tướng Minh đối với cá nhân hai ông Diệm, Nhu để lật đổ Đệ nhứt Cọng
hoà và thay ngựa giữa giòng. Hoa kỳ cũng dư
biết Minh có liên hệ với Bắc Việt nên áp lực Trần Văn Hương trao quyền gắp lại cho D V Minh – trái với Hiến pháp -
hầu tạo lý do cho Mỹ chuồn sớm khỏi VN. Nguyên đại tá Nguyễn Linh Chiêu, hiện ở
Huntington Beach, Californie, kể lại với tác giả bài này: Năm 1983, ông có gặp
tướng Minh tại Paris, hỏi vì sao thủ tướng Vũ Văn Mẫu cuối tháng 4.1975 lại hấp tấp ra thông cáo
buộc quân Mỹ phải rút trong vòng 24 giờ?
Tướng Minh đáp – trước mặt nhân chứng Trần Văn Đôn - đã làm “theo lời
yêu cầu của đại sứ Mỹ Graham Martin.”
Các sự kiện trên đây cho thấy tướng Dương Văn Minh chỉ là một con rối
trong tay Hoa kỳ, Pháp và Bắc Việt. Minh đã giúp Hoa kỳ tràn vào VN bằng cách
tuân lệnh đảo chánh ông Diệm. Mười hai năm sau, cũng chính Minh giúp Quân đội
Mỹ tháo chạy. Nguyên TT Trần Văn Hương đã thẳng thắn phát biểu: “Minh không
phải là con người thích hợp với cảnh dầu sôi lửa bỏng của Đất nước!”
Năm 1988, đại tướng Minh được Hoa kỳ cho
phép rời Paris qua Pasadena, Californie, sống với người con gái. Phải chăng đây
là một cách trả ơn? Ông Minh quá vãng ngày 6.8.2001, thọ 86 tuổi. Trước đó, Võ
Văn Kiệt cũng có đến thăm ông taị Pháp, theo Lý Quý Chung tiết lộ trong quyển “Hồi
ký Không Tên” vưà xuất bản taị Saigon.
Với vài người thân tín, tướng Minh nói ông không tiếc hối đã đóng vai
trò của một Pétain Việt Nam!
Nguyễn Khánh là một sĩ quan thân tín có
công “cứu Chúa” trong vụ binh biến 11.11.1960 khi giữ chức Tham mưu
trưởng Bộ Tổng tham mưu. Ông nuôi cao vọng thay thế Tổng tham mưu trưởng Lê Văn
Tỵ. Sau khi thăng Thiếu tướng tạm thời taị mặt trận, ông được đưa lên Cao
nguyên hẻo lánh để trấn Quân khu 2 và Vùng 2 chiến thuật. Ông Khánh sanh bất
mãn, vì thế tuyên bố trên đài phát thanh lúc bốn giờ sáng ngày 2.11.1963 ủng hộ
phe đảo chánh. Theo tướng Khánh kể lại với người viết: đêm 1.11.1963, ông Diệm
và ông Nhu có điện thoại từ Chợ Lớn lên
Pleiku cố thuyết phục ông Khánh cầm quân về Sàigòn giải cứu nhưng ông Khánh trả
lời “Quá trể và ở quá xa.”. Câu hỏi đặt ra: Nếu tướng Khánh nhận về “cứu giá”, nếu TT
Diệm trì hưởn xuất hiện sáng 2.11.1963
và nếu sự cứu giá thành công, thì thời cuộc liệu thay đổi ra sao? Mọi việc tùy thuộc biết bao
nhiêu chữ “nếu”! Sau hết, với người
viết, tướng Khánh còn than phiền TT Diệm không giữ lời hứa (viết tay) trao
quyền lại cho Quân đội sau cuộc binh
biến 11.11.1960. Đây là một sự kiện khác
mà tướng Khánh hẳn không quên. Trong một buổi lễ long trọng truy điệu cố TT Ngô
Đình Diệm taị thủ phủ Little Sàigòn, Californie, tướng Nguyễn Khánh không tiếc
lời ca tụng TT Diệm như một anh hùng dân
tộc mà ông ngưỡng mộ và quyết chí noi gương.
TT Diệm nể trọng đại tướng Lê Văn Tỵ,
người duy nhứt trong Quân đội được kêu bằng Ngài. Phiá dân sự, cách xưng
hô này chỉ áp dụng đối với Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ và Bộ trưởng Ngoại giao Vũ
Văn Mẫu, nhân vật cạo đầu năm 1963 để phản đối trong vụ Phật giáo.
Tướng nào giỏi đóng tuồng và chuyên “trở
cờ”? Tuy không thân cận với giới tướng lãnh, ông Đức có thể trả lời theo
một nhận định chung: Trần Văn Đôn (em
út của Tây con Nguyễn Văn Hinh và là người từng công khai đốt lon sĩ quan Pháp
để tỏ lòng trung thành với TT Diệm) và Tôn Thất Đính (con cưng của chế độ trở
giáo đâm sau lưng chế độ. Một Brutus hay một Juda? ). Ai thâm độc nhứt? Đổ Mậu. Ông Mậu - một cột
trụ Cần Lao - thú nhận đã mọp lạy trước ông Đính (cũng là Cần lao gộc) để van xin Đính theo
quân nổi loạn. “Đại tá muôn năm” Đổ Mậu hận vì TT Diệm cho rằng ông không đủ văn hoá để tiến cao hơn. Người viết có dịp
hỏi nguyên Thủ tướng Nguyễn Khánh nghĩ sao khi chọn Mậu lãnh đạo Bộ Văn hoá
không thích hợp chút nào với trình độ của y thì tướng Khánh nheo mắt cười, trả
lời: Mậu tự ti mặc cảm nhưng đầy cao vọng và được một số Phật tử ủng hộ lúc đó.
Việc bổ nhiệm này khuyến khích Mậu cọng tác sốt sắng và đồng thời biến Mậu
thành trò cười của quần chúng! Đây là một “đòn chánh trị” quen thuộc của Nguyễn
Khánh, kịch sĩ từng đả đảo Hiến chương Vũng Tàu do chính ông cho thảo ra. Một
đòn khác của tướng Khánh: móc nối với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ Mặt trận Giải
phóng Miền Nam, với chủ đích – theo lời tuyên bố của Khánh – kéo Phát về phiá
Quốc gia. Điều này bị Nguyễn Thị Bình phủ nhận hoàn toàn trong hồi ký Chung
Một Bóng Cờ, (nxb Chính trị Quốc gia, Hànội 1993). Chẳng những thế, trang 453-454 của hồi ký còn
tiết lộ Nguyễn Khánh đã vận động Hoa kỳ cúp viện trợ và bỏ rơi TT Thiệu, Khánh
công khai đi đêm với Mặt trận trong giai đoạn chót của Hiệp định Paris.
“TT
Diệm có thích được nịnh hót hay không?” Ý kiến của Ông Đức: Tại Bắc Việt,
Cộng sản đã thần tượng hoá Hồ Chí Minh. Trong Nam, cũng có khuynh hướng ấy đối
với ông Diệm, dưới nhiều hình thức, đặc biệt trong Phong trào Cách mạng Quốc
gia với số đoàn viên tăng từ 10,000 năm 1955 lên đến 2 triệu năm 1963, tổ chức
đến tận xã, phường. Bộ trưởng Thông tin Trần Chánh Thành bỏ hàng ngũ kháng
chiến về cọng tác với ông Diệm từ lúc đầu như Trần Hữu Phương, Trần Lê
Quang…..Ông có công xây dựng Phong trào CMQG,
tổ chức Chiến dịch tố cộng và đề xướng “Suy tôn Ngô Tổng thống”. Bất thuận với Trần Kim Tuyến, Thành rời
Nội các cuối năm 1959. Ba bộ trưởng khác ra đi cùng một lúc vì, với ông Thành,
lap hồ sơ truy tố một số cán bộ Cần lao
dân sự và quân sự lộng quyền: Trần Trung Dung (Quốc phòng), Nguyễn Văn Sĩ (Tư
pháp) và người viết (Nội vụ). Bộ Thông tin bị đổi thành Nha Tổng Giám đốc Thông
tin do bác sỉ (Cần lao) Trần Văn Thọ phụ trách.
Ngày 30.4.1975, ông Thành (Nghị sĩ và Ngoại trưởng thời Nguyễn Văn Thiệu)
tự tử bằng thuốc độc tại nhà để tránh sa vào tay CS còn bs Tuyến thì được nhà
báo điệp viên Việt cộng nằm vùng Phạm Xuân A#n lấy xe chở đến một địa điểm dùng
trực thăng Mỹ thoát khỏi VN. Tuyến định cư
tại Anh quốc nhờ bà Tuyến làm việc cho Tòa Đại sứ Anh ở
Sàigon. Tuyến làm chủ một nhà trọ bed and breakfast gần Cambridge và qua
đời cách đây vài năm, sau khi phát hành với Cao Vĩ Hoàng quyển hồi ký “ Làm thế nào giết một
Tổng thống?”
Theo ông QTD, TT Diệm cởi mở, bình dân
trong những năm đầu chấp chánh nhưng về sau, trở nên khó tánh và khép kín
hơn. Ảnh hưởng của quyền lực? hoàn cảnh ? giới cận thần a dua? Qua ba giai
đọan Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội Lập Pháp kỳ 1 và Quốc Hội Lập Pháp kỳ 2, nền
Đệ nhứt Cọng hoà đi lần vào bế tắc. Trong gia đình, ông bà Trần Văn Chương,
nhạc gia của ông Nhu, - chồng, đại sứ VNCH taị Hoa Thịnh Đốn và vợ, quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc - lợi
dụng chức vụ để phản tuyên truyền và đả kích kịch liệt Chánh phủ Sàigòn và luôn
cả vợ chồng ông Nhu. Bác sĩ Trần Văn Đổ, chú vợ của cố vấn Nhu, và luật sư
Nguyễn Hữu Châu, nguyên bộ trưởng Phủ Tổng thống kiêm Bộ trưởng Nội vụ, anh em bạn cột chèo
với ông Nhu, cũng không còn ủng hộ ông
Diệm. Ls Châu đào thoát qua Paris ngang con đường Nam Vang nhờ sự giúp đở của
bạn học cũ là Quốc vương Sihanouk. Ông đã trình luận án Thạc sĩ luật chỉ trích
chương trình viện trợ Hoa kỳ ở VN và sau đó, dạy luật taị Đại học Paris. Ls
Châu như khoa học gia Bửu Hội, năm 1972,
cũng ngã theo ủng hộ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trần Văn Đôn- người chủ
trương đảo chánh - nhìn nhận một cách thương hại: Tội nghiệp, mọi người đều
bỏ TT Diệm!
Ông QTĐ tỏ ra dè dặt đối với dư luận cho
rằng TT Diệm kỳ thị Phật giáo. Ông cho biết TT Diệm thường tiếp xúc với các vị
tu hành thuộc mọi tôn giáo, đặc biệt Phật giáo; không bỏ qua dịp viếng thăm một
số chùa như chùa Sư Nữ của Sư bà Diệu
Huệ (mẹ giáo sư Bữu Hội) ở Phú Lâm, chùa Diệu Đế ở Huế..v..v..Chính ông Đức đã
nhiều lần chuyển đến tay ông Mai Thọ Truyền, chủ chùa Xá lợi và Hội trưởng Hội
Phật giáo Nam Việt những số tiền giúp đở. Một chuyện mà ít người biết là TT Diệm đã hiến cho Đức
Đạt Lai Lạt Ma trọn số tiền 15.000 mỹ kim, giải thưởng Leadership Magsaysay
tặng cho Tổng thống. Vì lý do chánh trị, quyết định này không được công bố.
Ủy
ban tôn giáo Liên Hiệp Quốc được Chánh phủ Saigòn mời đến điều tra năm 1963 cũng đã phúc trình
- sau ngày hai ông Diệm, Nhu bị giết -
rằng Đệ nhứt Cọng hoà không kỳ thị tôn giáo. Mặt khác, TT Diệm đã từng thẳng
thắn bác bỏ những yêu sách quá đáng của các giáo phẩm di cư, bởi thế nên có sự
bất mãn ngấm ngầm. Hai Giám mục Phát Diệm, Bùi Chu Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi
chống đối ra mặt.
Cho đến ngày TT Diệm qua đời, phần đông
các người phục vụ sát cạnh bên Tổng thống hàng ngày đều thuộc thành phần Phật
giáo: Đổng lý (QTĐ), Tổng thơ ký Nguyễn Thành Cung, Chánh văn phòng Võ Văn Hải,
bí thơ Trần Sử, nội dịch Tôn Thất Thiết, cận vệ Nguyễn Bằng…..
Vấn đề thủ tiêu các người đối lập và việc tiếp xúc
của ông Nhu với đối phương Cộng sản.
Sau chánh biến 1.11.1963, Hội đồng Quân
nhân Cách Mạng tố cáo chánh quyền Diệm đã thủ tiêu một số ngưới đối lập như
Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp, Vu Tam Anh, Hồ Hán Sơn, ..v..v.. QTĐ tuyên bố
không biết gì về những chuyện này thuộc thẩm quyền các cơ quan công an, tình
báo. Tuy nhiên, ông tin chắc rằng ông Diệm không bao giờ đích thân chủ trương
như vậy vì Tổng thống là một tín đồ Công giáo thuần thành, phân biệt tội phước,
không khát máu như Cộng sản mà ông tích cực chống đối. Có thể một số nhân viên
an ninh cuồng tín đã hành động để lấy điểm (excès de zèle) hay giải
thích sai lầm chỉ thị cấp trên. Một bằng chứng cụ thể là TT Diệm chỉ ra lệnh
giam chớ không cho xữ tử Hà Minh Trí, một cán bộ Cao Đài, mưu sát hụt ông tại
Ban Mê Thuột và gây thương tích cho Bộ trưởng Đổ Văn Công. Hà Minh Trí được Hội
đồng Cách Mạng trả tự do khi họ đã giết TT Diệm. Câu hỏi nêu ra là cuối cùng,
TT Diệm có hay biết các vụ thanh toán toán đối lập hay không và phản ứng thế
nào? Dù sao, lịch sử vẫn đặt vấn đề
trách nhiệm tinh thần đối với ông.
Trong giai đoạn chót của chế độ, có tin
đồn trong quần chúng và báo giới Mỹ rằng cố vấn Ngô Đình Nhu đi đêm với CS
kháng chiến để tìm ra giải pháp giữa Nam, Bắc. Chính ông Nhu có đề cập đến
chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng lãnh tại Bộ Quốc phòng và ngày 23.7.1963 taị suối Lồ Ồ khi nóí
chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp Chiến lược khoá 13. Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử dụng
trung gian cuả bốn đại sứ Roger
Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Goburdhun (Ấn dộ) và Manelli (Ba Lan), (hai
ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đình chiến) cũng như Tổng
lãnh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon để
liên lạc với Hànội.
Ông QTĐ nói có nghe dư luận này nhưng
không biết rỏ chi tiết. Ông cũng có nghe
xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận
Tánh Linh, Bình Tuy. Ông Đức nghĩ đây chỉ là một đòn chiến thuật của ông Nhu để
dằn mặt Hoa kỳ, Tổng thống Diệm không bao giờ chấp nhận giải pháp điều đình với
Hồ Chí Minh. Hơn nửa, Hiến pháp VNCH có ghi rỏ chủ trương của Miền Nam Việt Nam
chống chủ nghĩa vô thần. Ông Đức còn xác
nhận: một Tết Nguyên Đán trước 1963, một cành đào đỏ lộng lẩy được trưng bày
nơi phòng khánh tiết Dinh Độc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tich
Nhà nước Cọng hoà Xã hội Miền Bắc”.
Những ngày chót của Tổng Thống Diệm. Các cận thần
cuối cùng.
42 năm trôi qua, mọi công dân VN, ủng hộ
hay chống đối ông Diệm, đều cảm thấy nhục nhã khi đọc lại những lời thú nhận
sống sượng của tướng Trần Văn Đôn, đầu não trong chánh biến 1.11.1963 và tác
giả của quyển hồi ký “VN Nhân Chứng”
(nxb Xuân Thu, Californie, 1989) về vai
trò Hoa kỳ chỉ huy vụ lật đổ và sát hại một lãnh tụ đồng minh. Đôn viết: “Đúng
1 giờ 30 trưa, (trùm Xịa) Conein vào bộ Tổng Tham mưu, (nơi đặt văn phòng
của Đôn) mang theo một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với Toà Đại sứ Mỹ
và một bao tiền là ba triệu bạc VN” (trang 211). Đôn còn tuyên bố khi y
thậm thọt gặp riêng Thái thú Cabot Lodge để thỉnh thị: “Chúng tôi (nhóm đảo
chính) không bao giờ có tham vọng cá nhân, chỉ muốn cứu nước!” (trang 210)
Trong hồi ký VN Nhân Chứng, đọan
chót, Trần Văn Đôn cho biết ba triệu bạc -cái giá rẻ mạt để thay đổi một thế
cờ! - đã chia cho Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Đổ
Cao Trí, Nguyễn Khánh , Trần Ngọc Tám và Lê Nguyên Khang.
Ông Đức tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ
gì về sự tự thú trên đây. Theo ông,
trong những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT Diệm là
con người cô đơn nhứt trên thế gian: dân tộc bỏ rơi, đồng minh phản bội, gia
đình chia cách, kẻ thù cộng sản reo hò chiến thắng, sự nghiệp chính trị ra tro,
uất hận ngất trời vì tương lai mù mịt của Đất nước, một quốc gia bị sức mạnh
chèn ép. Với ông Nhu quỳ bên cạnh cầu nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng
ngày 1.11.1963. không chắc TT Diệm đồng một tâm tư với người em.
Ông Đức bùi ngùi nhắc lại: Tối 1.11.1963,
khi tiếng súng nổ rền khắp nơi, ông và gia đình rời khỏi nhà riêng ở số 8 đường
Lê Văn Thạnh, Sàigòn, ngủ đêm tại Chợ Lớn, không xa căn phố lầu của Mã Tuyên,
nơi Tổng thống và ông Nhu tạm ngụ. Sáng hôm sau 2 tháng 11, trô lại nhà thì
được hay Tổng thống có điện thoại tối hôm trước nhưng người giữ nhà trả lời
không biết ông Đức ở đâu. Vài giờ sau, ra-dô báo tin hai ông Diệm, Nhu “tự tử”,
điều mà Đức không tin chút nào. Đến nay, ông Đức vẫn ân hận vì không được tiếp
xúc lần chót với Tổng thống.
Hỏi:
Trong Nội các, ai được Tổng thống Diệm tin cậy nhứt những ngày, tháng cuối
cùng? QTĐ đáp: Nguyễn Đình Thuần và Trương Công Cừu. Thuần kiêm ba trọng trách:
Bộ trưởng taị Phủ Tổng thống, Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng, và Bộ trưởng Đặc
nhiệm Phối hợp An ninh. Cừu là Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Văn hoá Xã hội.
Ngoài ra, còn có Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng Công dân vụ, từng là đại sứ VNCH ở
Nam Vang, bị Chánh phủ Cam bốt trục xuất vì giúp cho tướng Đap Chuon đảo chánh
(hụt) Quốc vương Sihanouk. Tên ông Hiếu nằm trong bản danh sách của Cabot Lodge
ghi các nhân vật cần thanh toán, theo hồi ký nêu trên của trung tá Nguyễn Văn
Châu.
Ông Đức không ngạc nhiên cho lắm khi được
người viết cho biết một số tài liệu giải mật taị Hoa kỳ tiết lộ Thuần là tay
trong thân tín của CIA, theo dõi để phúc trình từng phản ứng của hai anh em
Diệm-Nhu. Thuần từng được Mỹ chấm như một “Thủ tướng có triển vọng” nếu
TT Diệm chịu sửa Hiến pháp để đặt thêm chức vụ này (đọc The Storm has many
eyes, A personal narrative của Henri Cabot Lodge, NY 1973, trang 62
và Lodge in Vietnam, A Patriot abroad của Ann Blair, nxb Yale
University Press, New Haven 1995, trang 92).
Một số nhân vật rất gần Dinh Độc lập cho
biết Thuần dùng đủ mưu chước để thu hút cảm tình của TT Diệm và từ đó, tìm cách
ly gián ông Diệm và ông Nhu trong giai đọan chót của chế độ. Ông QTĐ ngạc nhiên
khi hay chính Đệ nhị Phòng Pháp đã giúp Thuần trốn khỏi VN. Cố Ứng Thi, chủ của
Khách sạn Rex và bạn thân của Thuần, xác nhận với người viết điểm vừa nói.
Thuần hiện sống thong dong taị Paris.
Tác giả bài này thắc mắc: không lẽ một
ngưởi tinh vi như ông Nhu mà không nhận ra mặt trái của Nguyễn Đình Thuần? Ông
Đức trả lời: Có thể ông Nhu không mù quáng nhưng ở vào thế kẹt lúc đó, không
còn ai liên lạc để dò xét âm mưu đen tối của Hoa kỳ, ông Nhu phải “tương kế,
tựu kế.” xử dụng Thuần. Ông Nhu cũng đã áp dụng chiến thuật này (kế hoạch chống
đảo chánh Bravo) để tìm cách chi phối nhóm tướng bị Mỹ mua chuộc.
Ông Đức cho biết thêm: Linh mục Cao Văn
Luận cũng là một cố vấn thân tín của Tổng thống được giao phó ra nước ngoài xin
tài trợ về giáo dục, tìm kiếm trí thức Việt đưa về nước và tổ chức Viện Đại học
Huế mà ông là Viện trưởng đầu tiên. Trong giai đoạn khủng hoảng Phật giáo, du luan cho rang cha
Luận đã trở mặt, ngã theo phe chống chánh quyền. Chẳng những thế, ông còn viết
hồi ký “Trong giòng lịch sử “ để nói xấu TT Diệm và đề cao Hồ Chí
Minh. Tình đời đen bạc!
Ông QTĐ quả quyết không bao giờ gặp Vũ
Ngọc Nhạ (mà CS tuyên bố phịa trong quyển sách và bộ phim giả tưởng Ông Cố Vấn
gài được vào Dinh Độc Lập!) Trả lời về
các cán bộ gốc Cộng sản cọng tác với chế độ, ông Đức cho biết Kiều Công Cung –
nguyên tư lệnh một sư đoàn Việt cộng –
đã tỏ ra xứng đáng đến cùng trong chức vụ Đặc ủy chiêu hồi. Phạm Ngọc Thảo – mà Tổng Nha Công an có hồ sơ
– được bổ nhiệm đại úy Bảo An, sau đó
Tỉnh trưởng Kiến Hoà và thanh tra dinh điển. Hai chuyên viên Mỹ về Giáo dục và
Dinh điền thường lui tới Dinh và ăn sáng với Tổng thống là giáo sư Wesley
Fishel thuộc Đại học Michigan và Ladejinsky mà Tổng thống quen từ lúc bôn ba ở
Hoa kỳ. Về sau, được hay hai chuyên viên này làm việc cho CIA. Đặc biệt, Fishel
đã ra mặt chống phá ông Diệm taị Hoa Thịnh Đốn trước ngày đảo chánh.
Trần Văn Đôn ghi nơi trang 182 của hồi ký
“Việt Nam Nhân Chứng”: Trong một buổi học tập chính trị taị bộ Tổng Tham
Mưu trước chính biến 1.11.1963, ông Nhu
nóí, sau khi nghe các tướng lãnh trình
bày thỉnh nguyện, : “Mấy anh muốn cải tổ chánh phủ mà xin như vậy đâu có
nhiều. Muốn làm cách mạng thật sự, tôi tưởng các anh phải xin nhiều hơn. Ông
Diệm bị kẹt với một số Bộ trưởng thối nát bất tài. Trong lúc này Quân đội phải
nhận rỏ vai trò của mình để cứu nước, nên đảo chánh một đêm bắt mấy ông Bộ
trưởng đó rồi hôm sau trao quyền lãnh đạo lại cho Tổng thống. Nếu có vị tướng
nào muốn đảo chánh thì quân đội phải chống lại, phải bắt người đó mà treo cổ
trên đường Công Lý.”
Đâu là sự
thật? Nếu đúng, thì đây có phải là ván bài tố xả láng của ông Nhu để dò xét và
sập bẩy nhóm tướng tạo phản? Hay một nhìn nhận chua chát chế độ đang tuột dốc
thê thảm, đưa dân tộc vào một trận đại hồng thủy? Tổng thống Ngô Đình Diệm có
thể đã phạm một số sai lầm nguy hại khi cầm quyền – điều này sẽ được sử sách
phê phán công và tội – nhưng không
một ai – từ đồng minh Hoa kỳ cho đến Hồ
Chí Minh – chối cải rằng ông là một lãnh tụ yêu nước, trong sạch, có khí phách
và không làm dân tộc VN hổ thẹn vì ông đã cố bảo vệ đến cùng thể diện và quyền
uy quốc gia. Không một gia đình Việt Nam nào mà lại hy sinh nặng như thế cho
Đất nước, mất một lần bốn người con ưu tú, một vì tay Cộng sản và ba vì tay
quốc gia. Ông Diệm ra đi, Hồ Chí Minh không còn đối thủ, Mỹ rảnh tay Việt nam
hoá chiến tranh, Miền Nam sụp đổ mau lẹ.
Hay tin TT
Diệm bị sát hại, Mao Trạch Đông phản ứng bằng nhận xét: “ Chính quyền Kennedy
hạ ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, một sai lầm rỏ rệt!” Và Hồ Chí Minh
tuyên bố: “Ông Diệm là một nhà yêu nước, theo lối của ông ấy!” Trong hồi
ký The Real War, chương V, Richard Nixon viết: Tổng thống Pakistan Ayub
Khan nóí với tác giả vài ngày sau vụ đảo chánh 1.11.1963: “Việc Tổng thống
Diệm bị giết có ba ý nghĩa đối với nhiều người Á Đông: trở thành bạn Hoa kỳ là
một nguy hiểm, trung lập có giá hơn và đôi khi tốt hơn là kẻ thù.” Riêng về
De Gaulle thì ông nhận định: ‘Sau Diệm, không phải là một khoảng trống mà là
một sự quá đầy!” De Gaulle muốn nói: Miền Nam lạm phát lãnh tụ, trở thành
một giỏ cua và một hí trường tranh dành
địa vị, ngôi thứ.
Đối với thế hệ lãnh đạo mai sau, sự
thất bại của TT Diệm – mà đồng minh Hoa kỳ lẫn kẻ thù Cộng sản đều xem như một
mối đe dọa cần triệt hạ - là một bài học quý báu về kinh nghiệm chống Đế quốc,
về Nhân tình thế thái và thân phận của
một nước nhược tiểu. Học giả Denis Warner từng cho ông biệt danh "The Last Confucian, Người hiền
triết Khổng giáo cuối cùng”. TT Diệm là một thầy tu lạc lõng giữa chính trường
gió tanh mưa máu, gánh trên vai thánh giá của Quê hương đau khổ. Lịch sử trước sau gì cũng sẽ ban cho ông Công
Lý.
Sau tháng 4.1975, hai ngôi mộ của TT Diệm
và Cố vấn Nhu được cải táng từ nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, Saigon, về quận Lái thiêu, tỉnh Bình Dương. Mộ bia
của TT Diệm có khắc chữ Huynh. Mộ bia
của Cố vấn Nhu khắc chữ Đệ. Hai nắm mồ
khiêm nhường, quạnh hiu, thiếu người chăm sóc,
kết thúc một cuộc đời đấu tranh
khắc nghiệt, đầy oan trái nhưng chắc chắn không phải là một hy sinh vô bổ trên
bàn thờ Tổ Quốc.
Kết luận
Ông
bạn Quách Tòng Đức chấm dứt buổi nói chuyện thân tình bằng một lời than chua
xót: Dĩ vãng buồn nhiều hơn vui, phá hoại nhiều hơn xây dựng, hận thù thay vì
đoàn kết. Đến nay, Đất nước chưa thấy lối thoát, những bài toán của Xứ sở chưa
tìm ra đáp số. Ngày nào Cộng sản vẫn bám víu vào quyền lực thì quốc nhục chậm
tiến còn kéo dài. Thế cuộc xoay vần. Lý
thuyết chánh trị, chế độ, lãnh tụ,… rồi cũng phải trở về với cát bụi. Vanitas
vanitatum, omnia vanitas, Hư danh, tất cả đều là hư danh! Cuối cùng chỉ còn lại Dân tộc, Dân tộc trường
tồn, Dân tộc bất diệt.
Lưu
đày, dù trên mãnh đất dân chủ, chưa phải là Tự do. Người Việt tha hương, vào tuổi gần đất xa
trời, vừa đau buồn hướng về Đất Mẹ, vừa thao thức tự vấn như Thôi Hiệu trong
bài thơ Đường Hoàng Hạc Lâu :
Chiều
xuống, Quê nhà đâu đó tá?
Bên
sông khói toả, não lòng ai.
(Chi
Điền dịch)
LÂM LỄ TRINH
Ngày Quốc khánh Hoa kỳ 2005
Thuỷ Hoa Trang
Californie
Đọc
những bài khác của tác giả Lâm Lễ Trinh trên hai internet websites
http:www.centralstation.net/lamletrinh và http:www.geocities.com/ftlamle
__._,_.___
Attachment(s) from tuong pham
2 of 2 Photo(s)
1 of 1 File(s)
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic | Messages in this topic (1) |
No comments:
Post a Comment