Wednesday, March 26, 2014

NĂM 1994 UCRAINE NGHE LỜI XÚI DẠI CỦA NGA -MỸ- ANH GIAO TOÀN BỘ VŨ KHÍ NGUYÊN TỬ CHO NGA - VỚI BẢO ĐẢM - AN NINH VÀ TOÀN VẸN LÃNH THỔ-ĐỪNG TRÁCH BẮC HÀN KHƯ KHƯ GIỮ VŨ KHÍ NGUYÊN TỬ 

BẢN GHI NHỚ(MEMORADUM) PUDAPEST HỔ THẸN CỦA ANH MỸ

Steve Herman
24.03.2014
tka23 post
KYIV, UKRAINE — Thủ tướng lâm thời Ukraine thừa nhận rằng quân đội nước ông, bị vượt về quân số lẫn võ khí, đã được lệnh rút khỏi bán đảo Crimea.
 
Thông tín viên VOA Steve Herman tường thuật rằng Việc rút quân diễn ra trong khi Ukraine lên tiếng báo động rằng Nga, đã sáp nhập Crimea hôm thứ Sáu tuần trước, đang trong tư thế tiến vào lãnh thổ Ukraine.
 Thông tín viên đài VOA Steve Herman tường thuật từ Kyiv.
 
Mặc dầu còn có hy vọng rằng cuộc họp khẩn cấp của nhóm G-7 tại La Haye có thể sử dụng đường lối ngoại giao để làm lắng dịu cuộc khủng hoảng, các giới chức Ukraine nói rằng các khu vực biên giới miền bắc, miền nam và miền đông của Ukraine bị đặt trong tình trạng đe dọa ngày càng gia tăng, nhưng quân đội của họ sẵn sàng bảo vệ quê hương.
 
Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh Quốc Gia Ukraine, ông Andriy Parubi, nói rằng có khoảng 100.000 binh sĩ Nga được bố trí dọc theo các biên giới Ukraine.
 
Ông Parubi nói rằng mặc dầu có bảo đảm từ phía các giới chức Nga rằng họ  thao dượt thường lệ, thật ra các lực lượng đó đang trong tình trạng báo động toàn diện.
 
Ông Parubiy cũng nói rằng chính phủ lâm thời của Ukraine cũng  thong báo cho Nga  trả tự do cho các sĩ quan Ukraine bị giữ tại Crimea sau khi quân đội Nga chiếm gần 200 căn cứ quân sự của Ukraine.
 
Nhiều giờ trước đó, Quyền Tổng thống Ukraine Oleksandr Turchynov xác nhận tất cả các đơn vị quân sự của nước ông và gia đình họ đã được chỉ thị rời khỏi Crimea bởi vì họ “bị đặt trong tình trạng đe dọa thật sự.”
 
Một số, có lẽ phần lớn là nhân viên trong một số đơn vị chủ lực  - theo các nguồn tin tại Kyiv - ở lại để làm việc với  quân đội Nga.
 
Nổi tiếng nhất trong số họ là Denis Berezovsky, cựu Tư lệnh Hải quân Ukraine, người đã được bổ nhiệm làm Tư lệnh Phó Hạm đội Hắc Hải của Nga. Giờ đây ông phải đối diện với tội phản quốc tại Ukraine, nơi quân đội gọi ông là kẻ phản bội.
 
Đại tá hồi hưu Volodmyr Voloshyn,  liên đoàn trưởng  thủy quân lục chiến Ukraine và cựu tham mưu trưởng Hải quân Ukraine, nói rằng ông thật sự không hiểu điều gì đã ép buộc các đồng nghiệp của ông quyết định như vậy. Ông nhắc lại rằng sau khi ly khai khỏi Liên Xô nhiều sĩ quan Ukraine đã bị cáo buộc là phản bội vì tuyên thệ bảo vệ Ukraine.
 
Việc mất Crimea, kể cả các căn cứ quân sự Ukraine, chiếc soái hạm và tiềm thủy đỉnh duy nhất là điều hổ thẹn đối với Ukraine, lực lượng của họ ít phản kháng, nếu có, trước quân số chênh lệch quá lớn chống lại họ.
 
Nhưng cựu bộ trưởng Ngoại giao Ukraine Borys Tarasyuk nói rằng Washington và London phải chia sẻ trách nhiệm về việc mất Crimea. Ông nói:

“Tôi dám nêu đích danh Hoa Kỳ và Anh, là hai nước không thi hành cam kết của họ theo Văn bản ghi nhớ Budapest về bảo đảm an ninh quốc gia đối với Ukraine, liên quan tới việc Ukraine tham gia hiệp định không phổ biến võ khí hạt nhân như một quốc gia không có võ khí hạt nhân.” 
Hiệp định chính trị năm 1994 được ký kết giữa Liên bang Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh.
__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)
Visit Your Group
 
Nén hương lòng cho những người nằm xuống vì lý tưởng Tự Do và Chính Nghĩa
của dân tộc
 
 
 
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/e/e7/Ho_ngoc_can.jpg/250px-Ho_ngoc_can.jpg
 
XIN ĐƯỢC GỌI TÊN ANH HỒ NGỌC  CẨN
 
Kính tặng hương hồn cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn !
 
Anh nằm xuống ba chín năm rồi đó
Kể từ ngày Cộng Sản chiếm Quê Hương
Chúng trả thù ,gây chết chóc đau thương
Giết lầm cả những người dân lương thiện.
 
Các chàng trai lớn lên trong thời chiến
Lấy máu đào tô điểm  cho non sông
"Nợ kiếm cung " với hai chữ "tang bồng "
"THIẾU SINH QUÂN " nặng lòng vì đất nước.
 
Chúng bịt mắt không muốn anh thấy được
Những người dân đang xem chúng xử anh
Một phiên tòa với những gã lưu manh
Làm   tay sai  lại  nhân  danh  công   lý.
 
Trước lúc chết vẫn bền gan ,vững chí
Vẫn hô to với lòng dạ sắt son
Dù phút giây mạng sống sẽ chẳng còn
Gương bất khuất trường tồn cùng sử Việt .
 
Anh ngã xuống  nhưng khí hùng không chết
Một  người  trai  đã  vị  quốc  vong  thân
Một  người trai  tiếp  nối   bậc  tiền  nhân
Sống làm tướng ,thác thành thần dương thế.
 
Mình hẹn sẽ  tháng Tư về anh nhé
Về dựng cờ để lấy lại Quê Hương
Ba chín năm bao cay đắng ,đoạn trường...
Dân mình sống trong thiên đường dối trá.
 
Dù ở  đâu  nơi  phương  trời xứ  lạ
Cũng đau buồn khi nghĩ đến tháng Tư
Vành khăn tang ,giọt lệ vợ chinh phu
Và ngọn nến thắp lên "Ngày Quốc Hận ".
 
Xin được gọi tên anh HỒ NGỌC CẨN !
 
Trần Lễ Nguyên
Ngày 5 tháng 3 năm 2014.
 
 



 

Người Chiến Sĩ  QLVNCH
trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến.
39 năm trôi qua...Không bao giờ quên những ngày oai hùng trên các chiến trường Việt nam.
On Tuesday, March 25, 2014 11:43 AM, Nguyen bac ninh <bacninh75@gmail.com> wrote:
300475_01.jpg
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:

300475_02.jpg

1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn rơi.

300475_03.jpg

Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nòng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.

300475_04.jpg

Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh.

300475_05.jpg

2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản.
 
Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Sàigòn.

300475_06.jpg


Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những người lính chiến đấu vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.)
Những người lính chiến đấu này không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng!  Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.

300475_07.jpg

Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng.

300475_08.jpg

Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà.
 
Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngã này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.

300475_09.jpg

Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội thúc giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu.
 
 Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.

300475_10.jpg

Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu tự tử.

300475_11.jpg

Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình.
 
 Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10 n ăm 1998.

300475_12.jpg

Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má.

300475_13.jpg

3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề "Truy Điệu Nam Việt Nam" - "…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.

300475_15jpg.jpg
300475_14.jpg

Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn".

300475_19.jpg
 
4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng.
 
Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.

300475_17.jpg

Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh.
 
 Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.

300475_16.jpg

Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!”
- "Vì sao?"
- "Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản!"
 
…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa… Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.
 
Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.

300475_18.jpg

Sưu tầm : Nguồn trên Net




--
bacninh

__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (2)

Saturday, March 22, 2014


Today at 5:36 PM

XIN THEO DÕI NGUYÊN NHÂN XA , GẦN ĐƯA ĐẾN THẾ CHIẾN- NHỮNG THỦ ĐOẠN RẤT BÀI BẢN - ĐƯA ĐẾN CHIẾN TRANH TỔNG LỰC - NHÌN QUA BIẾT NGAY- KHÔNG CẦN PHÁN ĐOÁN QUANH CO
 
anh truong
 
THẾ CHIẾN LẦN THỨ II
tka23 post
Với  quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có không quân và tàu ngầm,
Đức  phát triển thành một quân đội hùng mạnh nhất thế giới rồi gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai(1939-1945).
   Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan. Cuộc xâm lược khiếnAnh  Pháp tuyên chiến với Đức, theo hiệp ước hai nước này đã ký kết với Ba Lan.
   Theo sau Anh, các nước Úc, Canada, New Zealand, Cộng hoà Nam Phi cũng tuyên chiến với Đức. Sau chiến dịch tại Ba Lan, chiến tranh bước đến một giai đoạn tương đối im lặng gọi là Chiến tranh Giả vờ.
   Giai đoạn này kết thúc khi Đức xâm chiếm Đan Mạch và Na Uy vào tháng 4 năm 1940 và Hà Lan, Bỉ  Pháp vào tháng 5. Tất cả các nước bị xâm chiếm lần lược bị sụp đổ trong khi Anh và các đồng minh bị tổn thất nặng nề tại Na Uy và phải rút quân ra khỏi Pháp. Anh lại có nguy cơ bị đổ bộ, nhưng trong cuộc chiến trên bầu trời Anh, Luftwaffe (Không quân Đức Quốc xã) đã không giành được ưu thế và vì vậy Đức Quốc Xã đã đình hoãn kế hoạch xâm chiếm.
    Các sự kiện quân đội Đức bị đánh bại ở Trận Stalingrad năm 1942, ở Trận Kursk năm 1943, ở Chiến dịch Bagrachion năm 1944 và sự kiện Hoa Kỳ cùng các đồng minh Anh và Canada mở Mặt trận phía Tây tháng 6 năm 1944 đã làm thay đổi cán cân lực lượng bất lợi cho Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt với sự đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện của Đức, sự sụp đổ của Đức quốc xã, và cái chết của Adolf Hitler.
Trong hai năm đầu, chiến thuật của Đức Quốc xã là nói chuyện hòa bình, bí mật chuẩn bị chiến tranh, thực hiện chính sách ngoại giao cẩn trọng, tái vũ trang trong bí mật nhằm tránh các nước Đồng Minh viện dẫn Hòa ước Versailles để chống Đức bằng quân sự.

Chương trình tái vũ trang 1934-1936

Trong lúc này, Đức Quốc xã theo đuổi một cách không mệt mỏi chương trình tái vũ trang. Quân đội  tăng quân số lên gấp ba – từ 100.000 lên 300.000 quân tính đến ngày 1 tháng 10 năm 1934.
   Hải quân Đức (Kriegsmarine) đã bắt đầu đóng hai chiếc  thiết giáp hạm  26.000 tấn (Hòa ước Versailles hạn định tối đa 10.000 tấn).
   Việc đóng tàu ngầm, mà Hòa ước Versailles ngăn cấm, đã được thực hiện  bí mật ở Phần Lan, Hà Lan  Tây Ban Nha dưới chế độ Cộng hòa Weimar.
  Hermann Göring cũng tất bật trong hai năm này để lo gây dựng Không quân. Với tư cách là Bộ trưởng Hàng không – được hiểu là Hàng không Dân sự  – ông đặt hàng cho các cơ xưởng thiết kế máy bay chiến đấu.
   Việc đào tạo phi công quân sự được bắt đầu ngay dưới lốt ngụy trang Liên đoàn phi công  Thể thao.
Ngày 16 tháng 3 năm 1935, Adolf Hitler ban hành nghị định thiết lập chế độ quân dịch và một quân đội thời bình gồm có 12 quân đoàn và 36 sư đoàn – khoảng nửa triệu quân .
   Pháp và Anh chỉ lên tiếng phản đối nhưng không có hành  động  nào khác. Xiềng xích  hiệp ước Versailles, biểu tượng của chiến bại và nỗi nhục nhã của Đức, đã bị tháo bỏ.
Ngày 21 tháng 5 năm 1935, Hitler bí mật ban hành Luật Bảo vệ Đế chế, bổ nhiệm TS. Hjalmar Schacht làm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh và tái tổ chức quân lực; Bộ Quốc phòng được đổi thành Bộ Chiến tranh. Quân đội Đức từ danh hiệu Reichswehr (Quân Phòng vệ Đế chế) dưới thời Cộng hòa Weimar bây giờ được chuyển thành Wehrmacht (Lực lượng Phòng vệ). Hitler kiêm thêm Tư lệnh Tối cao Quân lực, Đại tướng Werner von Blomberg được chỉ định làm Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực. Mỗi quân chủng có Tư lệnh và Bộ Tư lệnh riêng. TướngLudwig Beck được chỉ định là Tham mưu trưởng Lục quân.
Cùng ngày, Hitler đề nghị việc giải trừ quân bị. Đặc biệt, Đức sẵn sàng giới hạn Hải quân Đức mới ở mức 35% của trọng tải lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh. Chính phủ Anh rơi vào bẫy của Hitler một cách ngây thơ, nông nỗi  xóa bỏ mọi hạn chế hải quân ghi trong Hòa ước Versailles. Vì lẽ, đồng ý cho Đức gây dựng hải quân bằng 35% hải quân Anh tức là đã cho phép Đức tự do đóng tàu cho hạm đội càng nhanh càng tốt theo khả năng có thể – ngang bằng khả năng huy động tối đa các xưởng đóng tàu và nhà máy thép trong 10 năm. Vì thế, đây không phải là giới hạn tái vũ trang của Đức mà là khuyến khích bành trướng binh chủng hải quân nhanh chóng theo khả năng của Đức.
Đức chiếm Rhineland
Sáng 7 tháng 3 năm 1936, một lực lượng nhỏ của Đức đi qua các cầu sông Rhine và tiến vào khu phi quân sự Rhineland. Lực lượng Đức bao gồm từ 4 lữ đoàn (theo Hitler cho biết) đến 3 sư đoàn (theo Quân báo của Đồng Minh). Pháp lo tập trung 30 sư đoàn gần biên giới Đức, nhưng chỉ để tăng cường cho Phòng tuyến Maginot. Hitler dám đánh ván bài liều là do Pháp lưỡng lự và Anh nhu nhược. Anh không muốn gây rủi ro chiến tranh cho dù lực lượng của Đồng Minh vượt trội hẳn so với Đức.
Ngày 7 tháng 3 năm 1936, Hitler giải tán Nghị viện, tổ chức "bầu cử" mới và trưng cầu dân ý về việc Đức chiếm Rhineland. Theo tài  liệu chính thức, 99% cử tri đi bỏ phiếu trưng cầu dân ý, và 98,8% chấp thuận hành động của Hitler.
Ngày 30 tháng 1 năm 1937, Hitler đọc diễn văn trước Nghị viện, tuyên bố "rút chữ ký" của Đức ra khỏi Hòa ước Versailles. Đây là hành động rỗng tuếch nhưng đặc biệt  của Hitler, vì  hòa ước đã bị Đức khai tử từ lâu.

Nước cờ định mệnh ngày 5/11/1937

Buổi chiều 5 tháng 11 năm 1937, Hitler triệu 6 người đến để ông trình bày chiến lược quân sự: Thống chế Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Werner von Blomberg, Đại tướng Tư lệnh Lục quân Werner von Fritsch, Đô đốc Tư lệnh Hải quânErich Raeder, Đại tướng Tư lệnh Không quân Hermann Göring, Nam tước Ngoại trưởng Konstantin von Neurath, và Đại tá Hossbach, tùy viên quân sự cho Hitler. Hitler  thông báo quyết định không gì lay chuyển được: tiến hành chiến tranh. Các tư lệnh và vị Ngoại trưởng đối mặt với những thời điểm cụ thể để thật sự tấn công hai nước láng giềng Tiệp Khắc  Áo – hành động mà họ tin chắc sẽ dẫn đến chiến tranh toàn Châu Âu. Họ phải sẵn sàng vào năm 1938, và chậm nhất là 1943-1945.

Blomberg, Fritsch, Neurath và Schacht bị loại

Cả Werner von Blomberg, Werner von Fritsch, Konstantin von Neurath  Hjalmar Schacht đều tỏ ý ít nhiều chống lại quyết định đi đến chiến tranh của Hitler. Chẳng bao lâu, họ đều rơi rụng bằng cách này hay cách khác. Neurath và Schacht bị thay thế, riêng hai tướng Blomberg và Fritsch bị dàn cảnh để rồi bị loại ra khỏi quân đội.

Áo sáp nhập vào Đức

Trong buổi hội kiến với Thủ tướng Áo Kurt Schuschnigg, Hitler đưa tối hậu thư với các điều kiện: Áo phải bãi bỏ lệnh cấm Đảng Quốc xã Áo, ân xá mọi đảng viên Quốc xã đang ngồi tù, cử luật gia thân Quốc xã TS. Arthur Seyss-Inquart làm Bộ trưởng Nội vụ với quyền hành chỉ huy các lực lượng cảnh sát và an ninh, cử hai người thân Quốc xã khác làm Bộ trưởng Chiến tranh và Bộ trưởng Tài chính. Cộng thêm sự đe dọa của Đức sẽ tấn công bằng quân sự, Schuschnigg từ chức, Seyss-Inquart lên thay. Đức ngụy tạo một bức điện tín của Seyss-Inquart kêu gọi Hitler đưa quân vào Áo để lập lại trật tự.
Ngày 12 tháng 3 năm 1938, quân Đức tiến vào Áo trong khi Bộ Ngoại giao Đức cho rằng phát biểu của Schuschnigg về tối hậu thư của Đức là "hoàn toàn bịa đặt".
Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 10 tháng 4 năm 1938, đa số người Áo bỏ phiếu thuận theo Hitler để sáp nhập Áo vào Đức. Không cần bắn một phát súng và không có sự can thiệp của Anh, Pháp và Liên Xô vốn có lực lượng quân sự áp đảo, Đức Quốc xã chiếm được một vị trí chiến lược có giá trị to  lớn lao cho những kế hoạch trong tương lai. Quân đội của Đức chế ngự Tiệp Khắc ở ba mặt, và Áo là cửa ngõ mở ra vùng Đông-Nam Châu Âu.
Cũng vào giữa năm 1938, khi Đức ngấp nghé thôn tính tiếp Tiệp Khắc, nổi lên bước khởi đầu của phong trào chống Hitler, kéo dài cho đến gần cuối cuộc chiến.

Đức thôn tính Tiệp Khắc

Đức lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người Đức thiểu số ở Tiệp Khắc làm cái cớ để xâm chiếm  nước này, trong khi Anh và Pháp vẫn chưa nhận ra mưu đồ ấy. Hitler chỉ thị cho Đảng người Đức Sudeten thân Quốc xã là "phải ra những đòi hỏi mà chính phủ Tiệp Khắc không thể chấp nhận", tức "phải luôn đòi hỏi nhiều để ta không bao giờ được thỏa mãn". Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain gây áp lực bắt Tiệp Khắc phải nhượng bộ.
Kết quả là Tiệp Khắc nhường cho Đức gần 30.000 kilômét vuông lãnh thổ. Trên lãnh thổ này là một hệ thống lô cốt mà từ trước đến giờ tạo nên tuyến phòng thủ vững chắc nhất Châu Âu, có lẽ chỉ kém Phòng tuyến Maginot của Pháp. Cả hệ thống đường sắt, đường bộ,điện thoại  điện tín của Tiệp Khắc đều bị xáo trộn. Theo tài  liệu của Đức, Tiệp Khắc mất trên dưới 80% than non, hóa chất, xi măng; trên dưới 70% than đá, sắt, thép, điện năng; và 40% gỗ. Một đất nước công nghiệp phồn thịnh trong phút chốc bị tan rã và phá sản.
Đức Quốc xã thôn tính Memel
Memel, một cảng trên bờ Biển Baltic với khoảng 40.000 dân, đã bị Hòa ước Versailles cắt ra từ Đức để trao cho Litva. Hitler quyết định chiếm Memel từ ngoài biển. Ông và Thủy sư Đô đốc Erich Raeder muốn phô trương sức mạnh của hải quân nên cả hai đi trên chiếc tàu thiết giáp bỏ túi Deutschland đến Memel ngày 22 tháng 3 năm 1939, đúng một tuần sau khi Hitler tiến vào thủ đô Praha của Tiệp Khắc. Ngày hôm sau, Litva đã chịu ký nhường Memel lại cho Đức.
Lúc 2:30 giờ chiều ngày 23 tháng 3 năm 1939, Hitler có thêm một chuyến đi chiến thắng vào một thành phố mà ông vừa thôn tính, lần này ở Memel ông cũng phát biểu với một đám đông người Đức mà ông vừa "giải phóng". Thêm một điều khoản của Hòa ước Versailles đã bị xé bỏ. Thêm một cuộc thôn tính không đổ máu. Dù cho Hitler không biết, đấy là cuộc thôn tính không đổ máu cuối cùng.

Hiệp ước Xô-Đức


Ngày 23 tháng 8 năm 1939, Ngoại trưởng Joachim von Ribbentrop của Đức và Ngoại trưởng Viatcheslav Mikhaïlovitch Molotov của Liên Xô ký kết Hiệp ước Xô-Đức hay còn gọi là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, có tên chính thức là "Hiệp ước Bất tương xâm giữa Đức và Liên bang Xô viết". Nghị định thư bí mật đính kèm quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva  România thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Hai bên đồng ý phân chia Ba Lan. Nhiều năm trước, Hitler đã tiên đoán trong quyển Mein Kampf: "Việc ký kết mối liên minh với Nga chỉ là kế hoạch cho cuộc chiến kế tiếp". Trong lúc này, Đức được rảnh tay với Liên Xô để chú tâm thôn tính Ba Lan.
alt
alt
Các nước dưới sự chiếm đóng của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Đức tấn công Ba Lan

Sáng ngày 1 tháng 9 năm 1939, quân Đức tràn qua biên giới Ba Lan và đều hướng về thủ đô Warszawa từ ba phía bắc, nam và tây. Đức đã lấy cuộc tấn công giả tạo của Đức vào đài truyền thanh của Đức ở Gleiwitz nhằm biện minh cho hành động gây hấn lạnh lùng với Ba Lan.
Ngày 3 tháng 9, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.
Ngày 17 tháng 9,  Tập đoàn quân Bắc dưới quyền Tướng Fedor von Bockbắt tay với Tập đoàn quân 14 của Tướng Siegmund von List, bao vây tất cả lực lượng Ba Lan. Vài nhóm lẻ tẻ còn chống cự một cách anh dũng, nhưng số phận của họ đã bị khép lại.
Bắt đầu từ ngày 17 tháng 9, Liên Xô đưa quân vào Ba Lan. Ngày 29 tháng 9, Molotov và Ribbentrop ký kết một hiệp ước mới gọi là "Hiệp ước Biên giới và Hữu nghị Đức-Liên Xô" quy định những quyền lợi của hai quốc gia; trong mỗi lãnh thổ chiếm được hai quốc gia sẽ tái lập "hòa bình và trật tự" và " cư dân sống ở đấy một đời sống an bình trong việc gìn giữ bản sắc dân tộc của họ". Cũng có nghị định thư mật thêm Litva vào "vùng ảnh hưởng" của Liên Xô.
Hitler đã thắng cuộc chiến ở Ba Lan, nhưng người hưởng lợi nhiều nhất là Stalin, và quân đội Liên Xô hầu như không phải nổ phát súng nào. Liên Xô chiếm gần phân nửa Ba Lan và bóp nghẹt các nước vùng Baltic.

Chiến tranh giả vờ ở phía Tây

Không có gì nhiều xảy ra ở phía Tây. Hầu như không có tiếng súng nổ. Đức không lấy làm ngạc nhiên lắm; họ xem việc Pháp tấn công là khó xảy ra.
Tham mưu trưởng Hành quân Alfred Jodl của Bộ Tổng tham mưu khai trước Tòa án Nürnberg:
Nếu chúng tôi không sụp đổ năm 1939, đấy chỉ nhờ sự kiện là trong chiến dịch Ba Lan, khoảng 110 sư đoàn Pháp và Anh hoàn toàn bất động khi đối mặt với 23 sư đoàn của Đức.
Có nhiều lý do tại sao quân đội Pháp không tấn công Đức: tư tưởng chủ bại trong quân đội, chính phủ và người dân Pháp; hồi ức trongThế chiến thứ nhất khi Pháp bị bỏ mặc cho đến kiệt quệ và e sợ cuộc thảm sát tương tự lần này; Pháp nhận ra rằng vào giữa tháng 9 quân đội Ba Lan đã bị đánh tan nát và Đức chẳng bao lâu sẽ chuyển quân về phía Tây và có thể đẩy lùi bước tiến của Pháp.
Hitler đề nghị hòa bình, Anh-Pháp nói phải chấp nhận thực tế "là Ba Lan không thể cất đầu lên lại nữa". Ngày 12 tháng 10 năm 1939, Chamberlain trả lời Hitler, nói những đề nghị của Hitler là "mơ hồ và thiếu chắc chắn" và nhận xét rằng "không có đề nghị nào nhằm sửa chữa những sai lầm đã gây ra cho Tiệp Khắc và Ba Lan". Ông nói, không thể nào tin tưởng những lời hứa của "Chính phủ Đức hiện giờ".

Đức tấn công Đan Mạch và Na Uy

Hải quân Đức từ lâu đã dòm ngó miền bắc nhằm lập căn cứ hải quân ở Na Uy để phá vỡ sự phong tỏa của Anh trên Biển Bắc, mở đường cho tàu Đức thông thương ra đại dương. Tương tự, Không quân Đức dòm ngó các sân bay Đan Mạch để làm bàn đạp tấn công Anh.
Ngày 9 tháng 4 năm 1940, nhà vua Đan Mạch đầu hàng và ra lệnh chấm dứt mọi hành động chống cự. Tổng cộng phía Đan Mạch có 13 người tử trận và 23 người bị thương. Phía Đức có khoảng 20 thương vong.
Na Uy chống cự ngay từ đầu, tuy không phải là ở khắp nơi. Đến ngày 28 tháng 5, Na Uy mới chịu đầu hàng. Vua Håkon VII của Na Uyvà chính phủ được đưa đến Luân Đôn và sống ở đây 5 năm trong cảnh lưu vong.
Cuộc tấn công thần tốc Đan Mạch và Na Uy là một chiến thắng quan trọng cho Đức Quốc xã. Chiến thắng giúp  tuyến vận chuyển quặng sắt trong mùa đông, tạo thêm sự bảo vệ cho Đức ở ngõ ra vào Biển Baltic, cho phép Hải quân Đức tiến ra vùng Bắc Đại Tây Dương, cung cấp các cảng biển vô cùng thuận lợi cho cuộc chiến trên biển với Anh, cho phép Không quân Đức sử dụng các sân bay tiến gần đến địch thủ hơn hàng trăm dặm. Và có lẽ yếu tố quan trọng nhất là uy tín quân sự của Đức Quốc xã được nâng cao rõ rệt.

Hà Lan đầu hàng

Vào ngày 10 tháng 5 năm 1940, dọc chiến tuyến 280 kilômét trải dài từ Biển Bắc đến Phòng tuyến Maginot, quân Đức tràn qua biên giới của ba quốc gia trung lập nhỏ bé Hà Lan, Bỉ  Luxembourg. Ngày 15 tháng 5, Hà Lan ký văn kiện đầu hàng.

Bỉ đầu hàng và quân Anh-Pháp bị bao vây

Vào buổi tối 13 tháng 5, các đơn vị thiết giáp của Đức chiếm được bốn bàn đạp bắt ngang con sông Meuse có bờ dốc và cây cối rậm rạp, từ Dinant đến Sedan, rồi chiếm lấy Sedan. Ngày kế, cơn hồng thủy ập đến. Sử dụng phương án tác chiến "Chiến tranh chớp nhoáng" (tiếng Đức: Blitzkrieg), một đoàn quân thiết giáp chưa từng thấy về quân số, sự tập trung, tính cơ động và hỏa lực, theo ba mũi trải dài đến 160 kilômét. Vào buổi tối 20 tháng 2, sư đoàn 2 Thiết giáp của Đức tiến đến thị trấn Abbeville gần cửa sông Somme, trong sự ngạc nhiên của tổng hành dinh của Hitler. Quân Bỉ, Lực lượng Viễn chinh Anh và ba tập đoàn quân Pháp bị bao vây.
Vua Leopold III của Bỉ đầu hàng sáng ngày 28 tháng 5 năm 1940.
Anh tổ chức cuộc di tản binh sĩ khỏi bờ biển Dunkerque. Đến ngày 4 tháng 6, gần 340.000 quân Anh và Pháp đã thoát ra khỏi gọng kìm của Đức, được đưa về Anh. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1940, sau khi quân Đức tiến chiếm thủ đô Paris, Philippe Pétain - người anh hùng của nước Pháp trong trận Verdun hồi năm 1916, lên làm Thủ tướng và bắt đầu đàm phán với Đức Quốc Xã.[1]
Vào ngày 22 tháng 6 năm 1940, Adolf Hitler buộc Pháp ký văn kiện đầu hàng trên một khoảnh trống trong khu rừng Compiègne. Sự kiện này đã tẩy bỏ một trong những ký ức đen tối nhất trong tâm trí của người Đức – cuộc đầu hàng của Đức vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 tại toa tàu hỏa cá nhân của Thống chế Pháp Ferdinand Foch ở Compiègne.[2] Hitler đã ngồi trên cái ghế ngồi của Foch khi ký kết hiệp định đình chiến nam 1918[1]. Đây cũng được xem là đỉnh điểm trong sự nghiệp của nhà lãnh đạo Đức Quốc xã[2].
Chiến dịch năm 1940 ở phía Tây được nhìn nhận là thắng lợi quân sự lớn nhất của Đức Quốc xã.[1] Trong vài tuần lễ kế tiếp, Hitler vẫn tin rằng sau khi Pháp bị đánh bại, Anh sẽ nôn nóng muốn hòa bình. Theo cái  nhìn của Đức, những điều khoản mà Hitler đưa ra là rộng lượng, nếu xét qua việc Đức đã đánh bại Anh ở Na Uy và Pháp. Hitler nói ông chỉ muốn Anh cho ông được tự do hành động trên lục địa Châu Âu. Nhưng Anh vẫn không chịu thỏa hiệp hòa bình.

Cuộc chiến trên bầu trời Anh quốc


Đức mở cuộc tổng không kích nhắm vào nước Anh bắt đầu ngày 15 tháng 8 với mục đích tiêu diệt Không lực Hoàng gia Anh và qua đấy tạo một điều kiện thuận lợi cho cuộc đổ bộ. Do những thất bại nặng nề của Không quân Đức, ngày 17 tháng 9, Hitler đình hoãn vô hạn định kế hoạch đổ bộ lên đất Anh. Trận không chiến tại Anh Quốc là thắng lợi đầu tiên của phe Đồng Minh trước Đệ tam Đế chế Đức và tạo điều kiện cho sự tiếp diễn của Trận chiến Đại Tây Dương[3].

Liên Xô chiếm vùng Baltic

Trong khi Đức đang bận rộn đánh Tây Âu, quân đội Liên Xô lần lượt tràn vào Litva, Latvia Estonia và lật đổ Chính phủ các nước này, đưa các lãnh đạo thân Liên Xô lên nắm quyền. Các cuộc bầu cử gian lận được tổ chức ở ba nước để hợp pháp hóa việc chiếm đóng, và Xô viết Tối cao (quốc hội của Liên Xô) sáp nhập ba nước vào Liên bang Xô viết: Litva ngày 3 tháng 8, Latvia ngày 5 tháng 9 và Estonia ngày 6 tháng 8. Adolf Hitler cảm thấy mất mặt, nhưng trong khi tất bật lo xâm lấn Anh, ông không làm gì được.

This message has been truncated