KÍNH THƯA CÁC NT VÀ CÁC BẠN
HẢI QUÂN TRUNG CỘNG CÓ RẤT NHIỀU TÀU CHIẾN ĐỦ LỌAI- NHƯNG THỰC LỰC VÀ HỮU HIỆU CHƯA ĐƯỢC CHỨNG TỎ.
 
HẢI QUÂN TRUNG CỘNG
tka23 post
   Trước thập niên 1990, Hải quân Trung cộng đóng vai trò thứ yếu so với Lục quân. Từ thập niên 1990 đến nay, lực lượng hải quân được Trung cộng  hiện đại hóa; phát triển nhanh chóng, đến nay bao gồm thêm 35.000 Hải quân Biên phòng và 56.000 Thủy quân Lục chiến, cùng 56.000 quân thuộc Lực lượng Hải quân Không chiến với hàng trăm chiến đấu cơ trên bờ và các trực thăng trên các chiến hạm.
 

Lịch sử

Năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố "để chống bọn đế quốc xâm lược, ta cần có một hải quân hùng mạnh.". Năm sau, vào tháng 3 năm 1950, trường Sĩ quan Hải quân được thành lập tại Đại Liên với đa số huấn luyện viên người Nga. Tháng 9 cùng năm, Hải quân Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc chính thức thành lập, quân số khởi đầu chọn từ các lực lượng hải quân địa phương trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu tại Khương Yển (nay đặt tại Thái Châu, thuộc tỉnh Giang Tô).
  Lực lượng này thoạt đầu chỉ là một nhóm chiến hạm ô hợp tịch thu của Trung Hoa Quốc Dân đảng, và hai năm sau tăng cường thêm lực lượng không chiến. Giống như tổ chức quân đội , các chính ủy đều được đưa vào mỗi chiến hạm để kiểm soát các hạm trưởng.
Đến năm 1954, số cố vấn hải quân Liên Xô tăng lên đến 2.500 người – tỉ lệ một cố vấn Liên Xô cho 30 quân nhân hải quân Trung cộng –  Liên Xô bắt đầu viện trợ các loại chiến hạm tối tân hơn. Với viện trợ của Liên Xô, năm 1954-1955, Hải quân Trung cộng tổ chức lại thành ba hạm đội. Các chức vụ và cấp bậc sĩ quan hải quân cũng được thành lập từ đội ngũ sĩ quan lục quân. Ban đầu, việc chế tạo các chiến hạm nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô, nhưng về sau, Trung cộng tiến dần từ việc bắt chước chế tạo theo mẫu thiết kế các chiến hạm Liên Xô, đến có thể tự thiết kế và chế tạo chiến hạm các loại. Từng có một thời, quan hệ hai bên mật thiết đến độ có cả bàn tính dự định tổ chức một hạm đội chung cho cả hai hải quân Xô-Trung.
Tuy cũng trải qua những biến động chính trị của thập niên 1950 và 1960, Hải quân Trung cộng không bị ảnh hưởng nặng nề như Lục quân hoặc Không quân. Dưới thời lãnh đạo của Bộ trưởng Quốc phòng Lâm Bưu, Hải quân vẫn được đầu tư khá nhiều trong những năm nghèo đói sau Đại nhảy vọt. Trong Cách mạng Văn hóa, tuy một số chính ủy, tư lệnh đầu não bị truất quyền, và một số lực lượng hải quân được sử dụng để đàn áp cuộc bạo loạn tại Vũ Hán tháng 7 năm 1967, nhưng  Hải quân Trung cộng ít bị dính líu vào các biến động đang xảy ra trên toàn quốc vào thời điểm đó. Hải quân Trung cộng vẫn tiếp tục công việc đóng thêm chiến hạm, huấn luyện thủy thủ và tu bổ các hạm đội.
Hải quân Trung cộng tại Bộ Tư lệnh Hạm đội Bắc Hải, Thanh Đảo
Đến thập niên 1970, khi ngân sách quốc phòng dành cho hải quân lên đến 20% ngân sách quốc gia, thì Hải quân Trung cộng phát triển vượt bực. Lực lượng tàu ngầm  tăng vọt từ 35 đến 100 chiếc, các phóng pháo hạm có khả năng bắn hỏa tiển  tăng từ 20 lên đến 200 chiếc, và các chiến hạm loại lớn và các chiến hạm yểm trợ loại tuần dương cũng được chế tạo thêm. Hải quân Trung cộng cũng đóng thêm tàu ngầm loại xung kích và loại chiến lược phóng hỏa tiển  với máy chính chạy bằng năng lượng hạt nhân. Các tàu ngầm loại này đều có tầm hoạt động rất xa.
   Đến thập niên 1980, dưới thời Tư lệnh Lưu Hoa Thanh, Hải quân Trung cộng trở thành một lực lượng hải quân đáng kể trong khu vực, có khả năng tuần tiễu khá xa lãnh hải. Tuy nhiên, mức độ phát triển có phần chậm hơn thập niên trước đó. Các nỗ lực hiện đại hóa chú trọng nhiều hơn vào trình độ kỹ thuật và học vấn của thủy thủ. Đồng thời, sách lược hành quân biên phòng và cơ cấu lực lượng được chỉnh đốn và đặt trọng tâm vào các hoạt động tuần dương (blue-water operations) hơn tuần duyên (coastal defense), ngoài ra Hải quân Trung cộng còn đẩy mạnh các chương trình huấn luyện hành quân hỗn hợp giữa các lực lượng tàu ngầm, chiến hạm, hải quân không chiến, và các lực lượng duyên phòng. Bằng chứng cho khả năng hoạt động tầm xa của Hải quân Trung cộng đã tăng trưởng:
(a) cuộc trục vớt một hỏa tiển liên lục địa (ICBM) năm 1980 do một hạm đội gồm 20 chiến hạm hành quân đến Tây Thái Bình Dương,
(b)một số hành quân hải hành dài ngày trên biển Đông (Nam Hải) năm 1984 và 1985,
(c) hai chiến hạm Trung cộng thăm giao hữu ba nước thuộc vùng Ấn Độ Dương năm 1985.
 Ngoài việc đẩy mạnh phát triển tầm hoạt động, Hải quân Trung cộng cũng phát triển thêm về khả năng phóng hỏa tiển  từ các chiến hạm và tàu ngầm. Năm 1982 Hải quân Trung cộng bắn thử thành công một phi đạn bắn từ tàu ngầm. Hải quân Trung cộng cũng chế tạo thành công một số hỏa tiển loại hạm-đối-hạm, hạm-đối-đất, đất-đối-hạm, và không-đối-hạm.
Tuần dương hạm Cáp Nhĩ Tân, Soái hạm, Hạm Đội Bắc Hải

 Hiện tại

 Kế hoạch và ưu tiên chiến lược

Trong vài năm gần đây, Hải quân Trung cộng trở nên quan trọng vì có sự thay đổi trong tầm nhìn chiến lược của Trung cộng. Các mối đe dọa chiến lược bao gồm giao tranh với Hoa Kỳ, hoặc tranh chấp với Nhật hay Đài Loan, hoặc giao tranh tại Trường Sa. Trong sách lược hiện đại hóa hải quân nói chung, một trong những ưu tiên dài hạn là cải tổ và phát huy Hải quân Trung cộng thành một Hải quân Viễn dương (, blue-water navy).
 Hải quân Trung cộng dự định chế tạo hoặc mua một hàng không mẫu hạm, nhưng ý tưởng này có vẻ không được ưu tiên so với những nhu cầu hiện đại hóa khác. Hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng nếu Trung cộng không hiện đại hóa cả lực lượng hải quân, thì hàng không mẫu hạm không những có cũng vô dụng, mà còn tốn hao lây vào những chi phí khác của quân đội. Nhận đình này có vẻ được sự đồng tình ủng hộ của các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị. Trung cộng hiện đã mua được hàng không mẫu hạm Varyag hạng Kuznetsov, hiện đang cập bến tại Đại Liên, và họ có thể tân trang và đưa vào hoạt động, hoặc dùng để huấn luyện phi công cất cánh và đáp trên biển.
Tháng 6 năm 2005, có nguồn tin trên mạng loan báo Hải quân Trung Quốc dự định sẽ chế tạo một hàng không mẫu hạm trị giá 30 tỉ nhân dân tệ (362 triệu US$), với trọng tải 78.000 tấn và do hãng đóng tàu Giang Nam đóng. Nguồn tin này  Bộ Quốc phòng Trung cộng phủ nhận.

Thay đổi lớn trong thế kỷ 21

Hải quân Trung cộng đã bước vọt trong những năm gần đây khi họ quyết định mua loại khu trục hạm Sovremenny và mua tàu ngầm Kilo của Nga. Hai khu trục hạm Sovremenny đầu tiên được trang bị hỏa tiển chống chiến hạm loại SS-N-22, còn gọi là hỏa tiển  chống chiến hạm vận tốc siêu âm 3M-80E.
  Theo các nhà nghiên cứu quốc phòng Tây phương, loại hỏa tiển  này có khả năng tiêu diệt hàng không mẫu hạm. Hai khu-trục hạm kế tiếp sau đó được trang bị loại SS-N-26 Yakhont tối tân hơn, và nhiều chiến hạm trang bị loại hỏa tiển  này đang được đóng thêm.
Hạm đội tàu ngầm của Hải quân Trung cộng cũng có những bước tiến lớn. Các tàu ngầm hạng Kilo có khả năng hoạt động rất im , và được trang bị hai loại vũ khí mới nhất: hỏa tiển  chống chiến hạm loại Klub, còn gọi là hỏa tiển  chống chiến hạm vận tốc dưới âm 3M-54E1, và hỏa tiển  thủy lôi loại VA-111 Shkval có tốc độ trên 320 km/giờ và tầm hoạt động 7,5 km.
   Tất cả các tàu ngầm của Hải quân Trung cộng, kể cả loại Kilo, đều được trang bị loại máy hoạt động không cần không khí, có nằm chờ rất lâu dưới biển để đột kích kẻ thù.
Kỹ thuật đóng tàu của hải quân Trung cộng nay cũng tiến rất xa qua sự giúp đỡ của Nga, và các khu trục hạm mới nhất của Trung cộng sử dụng trang bị nội hóa  không kém so với tiêu chuẩn phương Tây, với ra đa loại AEGIS và sườn tàu thiết kế kiểu chống ra đa.

 Các hoạt động

Tháng 9 năm 2005, phát ngôn viên quân sự Bộ Quốc phòng Nhật thông báo một số chiến hạm Hải quân Trung cộng gồm một tuần dương hạm trọng tải 23.000 tấn, một khu trục hạm hạng Sovremenny trọng tải 7.940 tấn, một hộ tống hạm  hỏa tiển  trọng tải 6.000 tấn, hai hải phòng hạm hạng Giang Hồ I
( Jianghu I-class) trọng tải 1.702 tấn đã có mặt tại khu dầu khí Chunxiao (người Nhật gọi Shirakaba). Đây là nơi từng xảy ra tranh chấp gay gắt giữa Trung Quốc và Nhật.[1]

 Hoạt động trong biển Đông

Hải quân Trung cộng với các trang thiết bị tối tân , vũ lực hùng hậu  bắn vào ngư dân Việt Nam làm vỡ tàu, chết người hoặc bắn và bắt cóc các tàu cá của ngư dân gặp nạn hoặc tránh bão trên vùng biển mà ngư dân Việt Nam cho là còn thuộc chủ quyền Việt Nam làm chết người và bắt giam đòi tiền chuộc một cách có hệ thống[2], đồng thời cướp đoạt toàn bộ phương tiện đánh bắt cá và sản phẩm đánh bắt của ngư dân Việt Nam, rồi đưa ra tòa phạt vi cảnh,và gần đây nhất là hành động vi phạm lãnh hải thuộc chủ quyền của VN, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của Tập đoàn Dầu khí quốc gia VN.[3]. Đặc biệt, Hải quân  Trung cộng còn muốn biển Đông nằm trong quyền kiểm soát của mình. [4]

 Các hạm đội

Lực lượng  của Hải quân Trung cộng có ba hạm đội:
Hạm đội Bắc Hải
Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Thanh Đảo thuộc tỉnh Sơn Đông. Hạm đội này có khu vực trách nhiệm vùng vịnh Bột Hải và Hoàng Hải. Soái hạm của hạm đội nầy là khu trục hạm
Cáp Nhĩ Tân, thuộc loại trang bị hỏa tiển  có điều khiển (guided-missile destroyer - DDG).
Hạm đội Đông Hải
Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Ninh Ba, thuộc tỉnh Chiết Giang. Hạm đội nầy có khu vực trách nhiệm vùng Đông Hải. Soái hạm là tuần dương hạm J302 Sùng Minh Đảo.
Hạm đội Nam Hải
Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Trạm Giang thuộc tỉnh Quảng Đông. Hạm đội nầy có trách nhiệm kiểm soát vùng Nam Hải. Soái hạm là tuần dương hạm AOR/AK 953 Nam Xương.
Hạm đội Nam Hải là lực lượng trực tiếp giao tranh với Hải quân Việt Nam trong những cuộc tranh chấp lãnh hải vào các thập niên 1970 và 1980.

Trang bị

 Khu trục hạm ( Destroyer)

  • 4 Khu trục hạm
  • 956/ 956EM Hạng Sovremenny  ; Trọng tải 7940 tấn
  • 1 Khu trục hạm 051B hạng Luhai (Lữ Hải )  ; Trọng tải 6100 tấn
  • 2 Khu trục hạm 051C hạng Luzhou ( Lữ châu)  :Trọng tải 7100 tấn
  • 2 Khu trục hạm 052b hạng Luyang ( Lương )  : Trọng tải 6500 tấn
  • 5 Khu trục hạm 052C hạng Luyang II ( Lương )  : Trọng tải 7000 tấn
  • Tổng cộng : 14 chiếc

Khinh hạm (Frigate)

  • 2 tàu Loại
  •  052 hạng Luhu (Lữ Hộ)  ; Trọng tải : 4800 tấn
  • 11 tàu loại 051 Lớp Luda (Lữ Đại ) Trọng tải : 3960 tấn
  • 13 tàu Loại 054A Lớp JiangkaiII (Giang Khải ) , Trọng tải: 4053 tấn
  • 2 tàu Loại 054 Lớp JiangkaiI (Giang Khải ) , Trọng tải: 4300 tấn
  • Tổng cộng : 28 chiếc hiện dịch

 Tàu hộ tống hỏa tiển (Corvette)

  • 10 tàu Loại
053H3 Lớp Jiangwei II ( Giang Vỹ ) Trọng tải: 2393 tấn
  • 4 tàu Loại 053H2G Lớp Jiangwei ( Giang Vỹ ) Trọng tải: 2393 tấn
  • 21 tàu Loại 053 Lớp Jianghu (Giang Hộ) trọng tải: 1,925
  • Tổng cộng : 35 chiếc

 Tàu hỏa tiển (Guided Missile Boats ) 65 tàu

  • 6 tàu Loại
  • 037-II Lớp Houjian Trọng tải 520 tấn
  • 30 tàu Loại 343M Houxin (Hậu tần ) trọng tải 478 tấn
  • 83 tàu Loại 021 Lớp Houbei ( Hồ bắc ) Trọng tải 220 tấn
  • tổng số : 119

Tàu ngầm

 SSBN (Ballistic Missile Nuclear Submarine)

    • Loại 092 - Lớp Hạ Xia-class – 01 chiếc , trọng tải 7000 tấn
    • Loại 094 - Lớp Tấn Jin-class – 04 chiếc , trọng tải 9000 tấn

SSN (Nuclear Attack Submarine)

    • Loại 091 - Lớp Hán Han-class – 04 chiếc , trọng tải 5500 tấn
    • Loại 093 - Lớp Thượng Shang-class – 04 chiếc , trọng tải 7000 tấn

 SSK (Diesel-Electric Attack Submarine)

    • Loại 039 - Lớp Tống Song-class – 14 chiếc, gồm: 01 tàu loại 039 số hiệu 320 (dừng hoạt động năm 1998); 03 tàu loại 039G (314, 321322); 10 tàu loại 039G1 (315, 316, 318, 323, 324, 325, 327,…).
    • Lớp Kilo Kilo-class – 12 chiếc, gồm: 02 tàu loại 877EKM (số hiệu: 364, 365); 02 tàu loại 636 (số hiệu: 366, 367) ; 08 tàu loại 636M – (số hiệu: 368, 369, 370, 371, 372, 373, 374, 375).
    • Loại 041 - Lớp Nguyên Yuan-class – 02 chiếc (số hiệu: 330,...).
  • Loại 031 -Lớp Golf -1 chiếc
    • Loại 033 - Lớp Romeo Romeo-class – 06 chiếc.
    • Loại 035G - Lớp Minh Ming-class – 17 chiếc.
  • SSG (Guided Missile Submarine) – phát triển từ loại 033 - 01 chiếc.
  • DSRV (Salvage Submarine) – 01 chiếc.
Trong nhiều  tư liệu về Hải quân Trung cộng trên phương tiện truyền thông, việc bố trí và số lượng các tàu ngầm của Hạm đội Đông Hải và Hạm đội Nam Hải hoàn toàn không nói đến .

 Tàu đổ bộ

  • LST
    • Loại 072 - Lớp Vũ Khang (Yukan) – 07 chiếc.
    • Loại 072-II - Lớp Vũ Đình (Yuting) – 11 chiếc.
    • Loại 072-III - Lớp Vũ Đình (Yuting) – 08 chiếc.
    • Lớp Sơn (Shan) LST-1 – 03 chiếc.
  • LSM
    • Loại 073-II - Lớp Vũ Đảo (Yudao) – 01 chiếc.
    • Loại 073-III - Lớp Vũ Đăng (Yudeng) – 01 chiếc.
  • APA (attack transport)
    • Lớp Hùng Sa (Qiongsha) – 04 chiếc.
    • Lớp Hùng Sa (Qiongsha AH) – 02 chiếc.
TỔNG HỢP
__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (2)