Wednesday, November 14, 2012

 

Vụ không kích cơ sở hạt nhân Osirak -  Dự án Irắc - Pháp - Italia

 tka23 post
Thời gian gần đây xuất hiện nhiều thông tin về việc Israel sẽ đánh đòn phủ đầu vào các cơ sở hạt nhân của Iran. Kế hoạch này của Israel làm người ta nhớ lại trận đánh cách đây 30 năm khi không quân Israel xóa sổ một lò phản ứng hạt nhân ở Iraq ngay trước khi nó được đưa vào hoạt động.
Kỳ 1: Dự án Irắc - Pháp - Italia

Mùa thu năm 1980, giới chức tình báo quân sự Israel báo cáo rằng lò phản ứng hạt nhân Osirak, cách thủ đô Baghdad hơn 21 km về phía đông nam, sẽ đi vào hoạt động trong khoảng từ tháng 7 - 11/1981. Họ cho rằng, Tổng thống Iraq Saddam Hussein không cần thiết phải có một lò phản ứng hạt nhân để sản xuất điện hay để phục vụ cho các mục đích hòa bình khác, bởi trữ lượng dầu mỏ của Iraq đứng hàng thứ sáu trên thế giới.

Cơ sở hạt nhân Osirak.
Theo Israel, cái mà Tổng thống Saddam thực sự muốn từ lò phản ứng hạt nhân này là nhiên liệu nguyên tử đã qua sử dụng, từ đó plutonium có thể được chiết xuất để sản xuất phần lõi của một quả bom nguyên tử. Đích đến của quả bom này sẽ là Israel.

Nếu Israel dự trù hành động, nước này phải thực hiện  sớm. Một khi lò phản ứng đã đi vào hoạt động và được nạp nhiên liệu uranium, một trận ném bom sẽ khiến bụi phóng xạ bao phủ khắp Baghdad.

Chính quyền Hussein mua lò phản ứng này từ Pháp, nước cũng cung cấp kỹ thuật hạt nhân cho Israel trong những năm 1950. Kể từ đó, Pháp thay đổi chính sách và tìm cách cải thiện quan hệ với thế giới Arập. Trước tình trạng khan hiếm dầu mỏ ở Mỹ và Tây Âu sau lệnh cấm vận dầu mỏ các nước Arập diễn ra trong khoảng năm 1973 - 1974, nước Pháp mong muốn tìm kiếm một nguồn cung ổn định.

Lò phản ứng hạt nhân Osirak.
Khi Iraq đưa ra đề nghị mua một lò phản ứng hạt nhân, Pháp nhận thấy đây là cơ hội để mua dầu mỏ với mức giá hấp dẫn nên họ không thể bỏ qua. Lợi nhuận từ các thương vụ bán vũ khí cũng là một khía cạnh khiến họ phải cân nhắc. Năm 1975, Pháp đồng ý bán cho Iraq một lò phản ứng Osirak có công suất 70 megawatt và một lò phản ứng Isis công suất dưới 1 megawatt để phục vụ cho công tác đào tạo nhân lực. Italia, với những động cơ tương tự, cũng đồng ý cung cấp cho Iraq một nhà máy để tái chế nhiên liệu hạt nhân và tách plutonium.

Năm 1976, người ta bắt đầu xây dựng một cơ sở hạt nhân ở al Tuwaitha, gần một khúc quanh trên dòng sông Tigris. Tên tiếng Pháp của lò phản ứng lớn hơn là “Osirak”, kết hợp giữa hai cái tên “Osiris” và Iraq. Tổng thống Hussein và các nhà lãnh đạo Iraq đặt tên lại cho các lò phản ứng lần lượt là Tammuz I và II, theo tên của ngày Tammuz 17 (17/7), ngày họ giành được chính quyền từ tay chế độ cũ vào năm 1958. Đối với thế giới, lò phản ứng lớn và cơ sở hạt nhân tiếp tục được gọi là Osirak.

Năm 1978, Pháp đồng ý cung cấp uranium đã được làm giàu ở cấp độ cao cho các lò phản ứng hạt nhân này, thay vì cấp độ thấp hơn theo đề nghị của phía Israel. Tuy nhiên, đến tháng 4/1979, hai lõi của lò phản ứng bị phá hủy trong một vụ phá hoại ở Pháp, ngay trước thời điểm chúng được vận chuyển sang Iraq. Điều này khiến dự án bị lùi lại sáu tháng; nhiều ý kiến cho rằng vụ phá hoại liên quan đến cơ quan tình báo Israel, Mossad.

Lò phản ứng nhỏ Isis/Tammuz II  hoạt động từ tháng 2/1980. Tháng 6/1980, chuyến hàng uranium làm giàu đầu tiên đã được vận chuyển đến Iraq.

Israel kêu gọi Pháp và Italia ngừng hỗ trợ Iraq, đồng thời tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ và một vài nước khác. Tuy vậy,  hành động  này của Israel không được cộng đồng quốc tế chú ý tới. Lúc đó, kể cả Mỹ, đồng minh lớn nhất của Israel, cũng có đôi chút thiện cảm với Tổng thống Hussein bởi giữa Iraq và Iran đã từng xảy ra một cuộc chiến tranh vào tháng 9/1980. Mỹ coi Iran, nước đã bắt giữ 52 người Mỹ làm con tin trong hơn một năm, là kẻ thù chính của họ ở khu vực này. Tuy nhiên, Giám đốc Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) William J. Casey cho phép Israel tiếp cận các tấm ảnh về cơ sở al Tuwaitha được chụp bởi vệ tinh trinh sát KH-11 của Mỹ.
Trong khi Israel đứng ngồi không yên về cơ sở hạt nhân của Iraq thì Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) khẳng định, lò phản ứng hạt nhân của Iraq không phải được sử dụng cho các mục đích quân sự. Trước khi đưa ra lời khẳng định này, IAEA đã thực hiện các chuyến thanh sát tại Iraq. Tuy nhiên, kết luận này của IAEA không khiến Israel yên tâm hơn, thậm chí nước này còn tỏ ra nghi ngờ khi cho rằng, những chuyến thanh sát này của IAEA là vô giá trị bởi những lý do sau: Các nước bị thanh sát có thể phủ quyết các chuyến đi của những thanh sát viên mà họ không thích; Liên Xô và Hunggari lại thực hiện  mọi cuộc thanh sát ở Iraq. Ngoài ra, các nước bị thanh sát có thể lựa chọn cơ sở để IAEA thanh sát. Trong trường hợp của Osirak, các thanh sát viên không được phép đến gần  khu vực tái chế nguyên liệu hạt nhân của Italia.
Thủ tướng theo đường lối cứng rắn của Israel, Menachem Begin cho rằng lò phản ứng hạt nhân Osirak phải bị phá hủy, nhưng lại không tìm được sự đồng thuận trong chính nội các của mình.
Trong số những người phản đối biện pháp tấn công quân sự có Bộ trưởng Quốc phòng Ezer Weizman và lãnh tụ Công Đảng Shimon Peres - nguyên Bộ trưởng Quốc phòng và đồng thời là đối thủ của Begin trong cuộc bầu cử sau đó (diễn ra tháng 6/1981). Những người phản đối lo sợ rằng kể cả khi trận không kích thành công cũng chỉ làm trì hoãn vấn đề và Israel sẽ bị cộng đồng quốc tế kịch liệt phản đối.

Những người ủng hộ chính của Begin là Ariel Sharon, một tướng lĩnh đã nghỉ hưu và là anh hùng quân đội, Bộ trưởng Nông nghiệp thuộc nội các của Begin, Bộ trưởng Ngoại giaoYitzhak Shamir, Trung tướng Rafael Eitan, Tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Israel, và Thiếu tướng David Ivry, Tư lệnh Không quân Israel.

Khi Weizman từ chức, Begin nắm luôn chiếc ghế Bộ trưởng Quốc phòng.

Tháng 7/1980, Israel đưa vấn đề lò phản ứng hạt nhân của Iraq ra công luận và cảnh cáo rằng nước này sẽ hành động để đối phó với mối đe dọa này. Quyết định tấn công được Begin và nội các bí mật thông qua vào tháng 10/1980.

Căn cứ không quân Hill, bang Utah - nơi phi công Israel được huấn luyện lái máy bay F-16 không kích Osirak.
Kế hoạch phá hủy lò phản ứng hạt nhân đã được hoạch định trước đó từ năm 1978. Có ý kiến trong chính phủ Israel cho rằng, nước này nên áp dụng chiến dịch oanh kích tầm xa Entebbe (Irael đã từng thực hiện để giải cứu những người bị giam giữ ở Uganda năm 1976) trong vụ không kích Osirak. Nhưng phương án này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa lực lượng trên mặt đất với số lượng lớn binh sĩ và những máy bay vận tải hạng nặng. Bởi vậy, nếu áp dụng lối đánh phức tạp này đối với Osirak thì xem chừng Israel quá mạo hiểm. Thảm họa của Mỹ, chiến dịch Sa mạc 1 diễn ra vào tháng 4/1980 nhằm giải cứu con tin ở Teheran, cũng được Israel đem ra cân nhắc khi xác định Osirak là mục tiêu cần tiêu diệt.

Chính quyền Israel khẳng định, trận đánh vào Osirak nhất định phải là chiến dịch  không quân . Cơ sở hạt nhân ở al Tawaitha cách Israel khoảng 1.080 km, lại phải bay qua Saudi Arabia và Jordania. Không quân Israel chưa từng thực hiện một sứ mệnh nào ở khoảng cách xa đến như thế. Hầu hết các loại máy bay của nước này không đủ khả năng bay một quãng đường xa như thế mà không tiếp nhiên liệu. Việc tiếp nhiên liệu sẽ làm gia tăng nguy cơ bị phát giác  hay bị chặn đánh.

Để phục vụ cho chiến dịch này, Israel phải chuẩn bị loại máy bay phù hợp. Nước này đã đặt mua máy bay F-16 của Mỹ và thời hạn chuyển giao là năm 1982. Tuy nhiên, họ có cơ hội nhận máy bay F-16 sớm hơn dự tính do một thương vụ bán máy bay cho Iran bị hoãn lại sau khi quốc vương nước này bị lật đổ. Những chiếc máy bay đầu tiên về đến Israel vào tháng 7/1980 và nước này có tổng cộng 53 chiếc loại này tại thời điểm  chiến dịch Osirak.

Tốc độ và kích thước nhỏ giúp máy bay F-16 giảm thiểu nguy cơ bị tiêu diệt bởi hỏa lực của đối phương. Với thùng nhiên liệu chính cộng với các thùng nhiên liệu ở cánh và khoang giữa máy bay, F-16 có thể bay được một quãng đường dài mà không cần tiếp nhiên liệu.

Israel có các loại đạn chính xác có điều khiển nhưng các vũ khí “thông minh” cũng rất dễ bị ảnh hưởng , bởi những yếu tố như điều kiện thời tiết và đòi hỏi máy bay phải bay theo một kiểu ổn định. Các nhà hoạch định quyết định tiến hành chiến dịch theo cách đơn giản. Họ tính toán rằng, 8 quả bom ném trực tiếp xuống mục tiêu sẽ đủ khả năng phá hủy lò phản ứng, và 16 quả bom trọng trường được ném ở tầm thấp sẽ có cơ hội thành công lên đến 99%.

Hệ thống kính ngắm dùng khi ném bom được điều khiển bằng máy tính của máy bay F-16 , giúp hiện thực hóa quyết định tấn công bằng bom trọng trường thông thường. Lực lượng thực thi  chiến dịch sẽ gồm 8 máy bay F-16, mỗi chiếc mang theo hai quả bom Mk 84 nặng 908 kg, dưới sự yểm trợ của các máy bay F-15.   Lò phản ứng hạt nhân Osirak được bảo vệ  bởi một mái vòm bê tông có độ dày gần 10 cm. Theo như tính toán, một quả bom nặng 908 kg có thể dễ dàng xuyên thủng mái vòm đó.

Các chiến đấu cơ F-16 được tổ chức  thành một phi đội mới đóng ở căn cứ không quân Ramat David, phía bắc Tel Aviv trong thung lũng Jezreel. Chỉ huy phi đội kiêm chỉ huy trưởng căn cứ là Đại tá Iftach Spector, một người nổi tiếng trong không lực Israel vì đã từng bắn rơi 15 máy bay MiG trong cuộc chiến tranh Yom Kippur diễn ra năm 1973. (Trong mắt của mọi người, Spector không phải là anh hùng. Năm 1967, do nhầm lẫn, ông chỉ huy một phi đội oanh kích tàu USS Liberty trong vùng biển quốc tế, giết chết 34 lính Mỹ trong cuộc Chiến tranh sáu ngày).

   Mười hai phi công người Israel được huấn luyện lái máy bay F-16 ở căn cứ không quân Hill,  tiểu bang Utah, trước thời hạn chuyển giao chiếc máy bay đầu tiên. Trở về nước, họ luyện tập bay những quãng đường xa ở tầm thấp. Họ không được thông báo về trận đánh sắp tới nhưng ai cũng dễ dàng đoán được mục đích của việc luyện tập này là gì.
Đình Vũ (tổng hợp)
 THỰC THI KẾ HOẠCH
Chiến dịch Opera được lên kế hoạch kỹ lưỡng vào ngày Chủ nhật để giảm thiểu thiệt hại nhân mạng với các công nhân nước ngoài và vụ tấn công được dự định vào cuối buổi chiều để Đội Cứu nạn và Giải cứu Chiến đấu Israel (CSAR) có cả đêm để cứu hộ cho các phi công Israel bị bắn rơi.
Một phi đội 8 chiếc F-16A 107, 113, 118, 129 của Không quân Israel, thuộc phi đội số 117 và 239, 240, 243249 thuộc Phi đội số 110, mỗi chiếc trang bị hai quả bom nổ chậm không điều khiển Mark-84 2,000-pound và các bình nhiên liệu phụ được gắn vào.
  Một phi đội 6 chiếc F-15A cũng được điều động thực hiện chiến dịch để hỗ trợ những chiếc F-16A. Ilan Ramon, một phi công F-16A người đã  trở thành nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Israel và thiệt mạng trong thảm hoạ Tàu con thoi Columbia năm năm 2003, là người trẻ tuổi nhất tham gia chiến dịch. Khi ấy ông còn hai tuần nữa là tới 27 tuổi.
    Ngày 7 tháng 6 năm 1981 lúc 15:55 giờ địa phương (12:55 GMT) kế hoạch bắt đầu được thực hiện. Lực lượng tấn công rời Căn cứ Không quân Etzion, bay ở độ cao 800 feet qua không phận Jordan và Saudi.[8]
Ở khoảng cách 1,000 km, chiến dịch gặp rắc rối với các thùng nhiên liệu phụ của những chiếc F-16A. Những chiếc máy bay chở quá nặng khiến các bình nhiên liệu phụ (hai thùng 1,400 l dưới cánh và một thùng 1,100 l dưới bụng) cạn khi lực lượng tấn công vẫn trên đường tới lò phản ứng Osirak.  Những thùng nhiên liệu phụ này được vứt bỏ trên sa mạc Saudi trước khi phi đội tới mục tiêu.
  Ngay khi tới không phận Iraq phi đội tác ra, với hai chiếc F-15 hình thành đội hình hộ tống gần cho phi đội F-16, và những chiếc F-15 còn lại tản ra trong không phận Iraq theo chiến thuật sẵn sàng hỗ trợ. Phi đội tấn công hạ xuống độ cao 30 m trên sa mạc Iraq, tìm cách bay dưới tầm radar của các lực lượng phòng vệ Iraq.
Lúc 18:35 giờ địa phương (14:35 GMT), 20 km từ khu phức hợp lò phản ứng hạt nhân Osirak, đội hình F-16 hạ xuống 2,100 m và bổ nhào ở góc 35-độ với vận tốc 1,100 km/h, nhắm thẳng vào lò phản ứng. Ở độ cao 1,100 m, những chiếc F-16 bắt đầu ném từng cặp bom Mark 84, cách quãng 5 giây. Theo các báo cáo của Israel, tất cả 16 quả bom đều trúng vào khu phức hợp, dù hai quả được báo cáo là không nổ. Các lực lượng phòng không bắt đầu nổ súng vào phi đội khi họ lên tới độ cao 12.200 m và bắt đầu quay trở về Israel.
  Theo các báo cáo của Israel các lực lượng quốc phòng Iraq không kịp bảo vệ và phản ứng quá chậm. Dù với bất kỳ lý do nào, các lực lượng phòng không của cơ sở này đã không thể làm hư hại bất kỳ chiếc máy bay tấn công nào. Dù có những lo ngại về những chiếc máy bay đánh chặn của Iraq, phi đội không gặp sự tấn công nào và quay về không phận Israel bình yên .

 Phản ứng chính trị quốc tế

Hành động của Israel đã bị cộng đồng quốc tế lên án. Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua Nghị quyết số 36/27 ngày 13 tháng 11 năm 1981 gọi cuộc ném bom là một hành động gây hấn có kế hoạch và chưa từng xảy ra, và yêu cầu Israel bồi thường lập tức và thoả đáng với những thiệt hại vật chất và nhân mạng mà họ gây ra.[2] Nghị quyết cũng nghiêm khắc cảnh báo Israel phải kiềm chế trong những hành động tương lai.
Tranh cãi trước sự thông qua nghị quyết của Liên hiệp quốc phản ánh sự khác biệt trong quan điểm của các quốc gia về các vấn đề như giải trừ hạt nhân trong vùng và tính chính đáng và pháp lý của các hành động của Israel. Một số quốc gia thể hiện rằng họ ủng hộ quyền của các quốc gia được sử dụng năng lượng hạt nhân cho các mục đích hoà bình nhưng rằng họ mạnh mẽ phản đối sự bí mật phát triển các loại vũ khí hạt nhân của Israel. Một số quốc gia như Syria yêu cầu không chỉ lên án chủ nghĩa khủng bố của Israel chống lại người Ả Rập, mà cả Hoa Kỳ vì liên minh của họ với Israel.[2]
Đại diện của Pháp nói rằng mục đích duy nhất của lò phản ứng là nghiên cứu khoa học. Những thoả thuận giữa Pháp và Iraq loại trừ việc sử dụng vào mục đích quân sự. Anh Quốc giải thích rằng Iraq không có khả năng phát triển vũ khí hạt nhân. Tổng giám đốc IAEA xác nhận rằng những cuộc thanh tra những lò phản ứng hạt nhân gần Baghdad cho thấy không có sự vi phạm nào vào các thoả thuận.[2]
Hầu hết các nhà quan sát bác bỏ lý lẽ của Israel rằng họ hành động để tự vệ. Có sự giải thích rằng Hiến chương Liên hiệp quốc không trao bất kỳ quyền nào cho việc hành động ngăn chặn. Một số người giải thích cuộc tấn công là cuộc tấn công vào chính IAEA. Có tranh cãi cho rằng Hiến chương Liên hiệp quốc hạn chế quyền phòng vệ chỉ trong trường hợp một cuộc tấn công vũ trang. Một số quốc gia kêu gọi áp đặt các lệnh trừng phạt chống Israel theo Chương VII của Hiến chương Liên hiệp quốc.[2]
Ngoài ra Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc mạnh mẽ lên án vụ tấn công như một sự vi phạm rõ ràng vào Hiến chương và cho rằng Iraq có quyền đòi hòi bồi thường thích đáng cho những thiệt hại của họ. Nghị quyết còn kêu gọi Israel đặt các cơ sở hạt nhân của mình dưới sự giám sát của IAEA.[9] Hoa Kỳ ủng hộ nghị quyết này vì nó lên án hành động chứ không phải quốc gia gây ra hành động. Phản ứng của họ là, tạm thời, đình hoãn việc cung cấp các máy bay đã được hứa hẹn cho Israel.[cần dẫn nguồn] Một số quốc gia không hài lòng với nghị quyết của Hội đồng Bảo an bởi nó không bao gồm các biện pháp trừng phạt. Có gợi ý rằng Hội đồng Bảo an nên đưa ra các biện pháp trừng phạt chống lại Israel.[2]
Từ thời gian đó, đặc biệt sau cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, nhiều chính trị gia Hoa Kỳ đã bày tỏ ủng hộ với chiến dịch.[10] Những người tin rằng Iraq đang theo đuổi các loại vũ khí hạt nhân trong thập niên 1980 coi Chiến dịch Opera là hành động cần thiết, thậm chí nếu nó bị coi là một sự vi phạm rõ ràng vào luật pháp quốc tế bởi Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Một số học giả về pháp lý tin rằng hành động không vi phạm luật pháp quốc tế bởi nó tuân theo quy luật tự phòng vệ trước.[11] Ngoài ra, ở thời điểm vụ tấn công, Iraq vẫn đang trong tình trạng tuyên chiến với Israel.[cần dẫn nguồn]

[sửa] Phản ứng ngoại giao

Menachem Begin, Thủ tướng Israel và là người chịu trách nhiệm chiến dịch, xuống máy bay khi tới Hoa Kỳ, với sự hộ tống của Ngoại trưởng Israel Moshe Dayan.
Israel biết sự tồn tại của chương trình lò phản ứng trong nhiệm kỳ đầu tiên của Yitzhak Rabin, và coi việc Iraq sở hữu lò phản ứng hạt nhân, với khả năng nó có thể được dùng để chế tạo vũ khí hạt nhân, là một mối đe doạ trực tiếp.
Iraq cho rằng họ chỉ quan tâm tới năng lượng hạt nhân một cách hoà bình, và ở thời điểm đó Iraq có tham gia Hiệp ước Không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân (NPT), đặt các lò phản ứng hạt nhân của mình dưới sự giám sát của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA). Tuy nhiên, chương trình giám sát của IAEA không được mọi người nói chung coi là đủ để đảm bảo rằng việc nghiên cứu vũ khí không diễn ra.
Ngoại trưởng Israel Moshe Dayan đã thực hiện các cuộc đàm phán ngoại giao với Pháp, Italia —Israel cho rằng một số công ty Italia đã hoạt động như những nhà cung cấp và những nhà thầu phụ - và Hoa Kỳ về vấn đề này, nhưng không thể có được sự đảm bảo rằng chương trình lò phản ứng có thể bị ngăn chặn, và không có khả năng thuyết phục các chính phủ Pháp của Valéry Giscard d'EstaingFrançois Mitterrand ngừng giúp đỡ chương trình hạt nhân của Iraq.

[sửa] Hậu quả

Chiến dịch đã hoàn thành nhiều mục tiêu của Israel. Khu phức hợp lò phản ứng bị hư hại nặng nề, đúng theo kế hoạch. Mười binh sĩ Iraq và một nhà nghiên cứu dân sự Pháp thiệt mạng trong vụ tấn công. Từ đó đã có một số nhà bình luận đề xuất rằng nhà nghiên cứu người Pháp Damien Chaussepied là một điệp viên của Mossad và chịu trách nhiệm đặt một số dấu hiệu chỉ đường tại địa điểm để các máy bay tấn công, dù không có bằng chứng cho điều này.[12]
Israel nói rằng những thiệt hại nhân mạng chủ yếu do đạn phòng không lạc của các lực lượng phòng vệ Iraq, chứ không phải từ vụ ném bom. Không một máy bay nào của Israel bị hư hại bởi các lực lượng Iraq. Dù gần như đã cạn kiệt nhiên liệu, tất cả 14 chiếc máy bay đều quay về được lãnh thổ Israel và hạ cánh an toàn.
Iraq nói họ sẽ xây dựng lại cơ sở, và Pháp đã đồng ý, trên nguyên tắc, giúp đỡ việc tái thiết. Tuy nhiên, năm 1984, Pháp rút khỏi dự án.[cần dẫn nguồn] Theo giáo sư Louis Rene Beres, cuộc tấn công của Israel vào lò phản ứng đã ngăn cản Iraq sử dụng vũ khí phóng xạ trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất.[13]
Một số nhà nghiên cứu người Iraq nói rằng chương trình hạt nhân của Iraq đơn giản được tiến hành bí mật, đa dạng hoá và mở rộng.[14] Những nỗ lực của Iraq nhằm tạo ra một lò phàn ứng hạt nhân có khả năng sản xuất plutonium ước tính ở mức độ có thể chế tạo một vũ khí cấp 1 pound plutonium mỗi năm, hay một quả bom sau xấp xỉ 10 tới 11 tháng dường như ít được ưu tiên trong chương trình mới này.
Cơ sở hạt nhân Osirak vẫn ở tình trạng hư hại cho tới cuối cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh, khi một loạt các cuộc không kích kéo dài của Hoa Kỳ phá huỷ hoàn toàn nơi này. Về mặt chính trị, chiến dịch mang lại kết quả khả quan cho Đảng Likud cầm quyền dưới sự lãnh đạo của Begin và họ tiếp tục cầm quyền sau chiến thắng lớn trong cuộc bầu cử ba tháng sau đó.
__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)
Recent Activity:
.

__,_._,___

No comments:

Post a Comment