Thursday, January 30, 2014

[PhoNang] TƯỜNG TRÌNH F 14 BẮN HẠ MIG 23

anh truong
To anhtruong
Today at 5:51 PM
 TƯỜNG TRÌNH F 14 BẮN HẠ MIG 23
 tka23 post
  Sau khi hai chiếc F-14 Tomcat của phi đoàn VF-41 Black Aces bắn rơi 2 máy bay cường kích Su-22 của Libya ngày 19/8/1981, và đặc biệt là sau chiến dịch không kích El Dorado Canyon ngày 15/4/1986 đối với Libya, Đại tá Gaddafi và chế độ của ông ta đã không còn là mối quan tâm của Mỹ.
Nhưng cuối năm 1988, căng thẳng giữa Washington và Tripoli lại tiếp tục leo thang. Chính phủ Mỹ cáo buộc Libya xây dựng một nhà máy vũ khí hóa học gần thị trấn Rabta, và một lần nữa, chính quyền Gaddafi cảnh cáo Mỹ không được can thiệp vào công việc nội bộ của Libya. Để đáp trả mối đe dọa của Đại tá Gaddafi, HKMH USS John F. Kennedy (CV-67) được cử đi thực hiện một cuộc diễn tập “tự do hàng hải” ngoài khơi bờ biển Libya.
F-14 từ HKMH USS John F. Kennedy (CV-67). 
Buổi sáng 4/1/1989, bốn cặp máy bay  F-14, trong đó có 2 cặp của phi đoàn VF-14 Tophatters và 2 cặp của phi đoàn VF-32 Swordsmen, bay tuần tra chiến đấu (CAP) gần Vịnh Sidra, cùng một chiếc E-2C của phi đoàn cảnh báo sớm  WAV-126 Sea Hawks hỗ trợ.
Trong nhiều năm, do lo ngại khủng bố, phi hành đoàn này đã phải giữ kín danh tính, nhưng đến nay,  hai cặp phi công của phi đoàn VF-32 tham dự tập trận là Buno.159.610, mật danh liên lạc “Gipsy 207” do phi công Joseph B. Connelly và Leo F. Enwright là sĩ quan hoa tiêu radar (RIO) điều khiển và Buno.159.437, mật danh liên lạc “Gipsy 202”, do Trung úy Hermon C. Cock III và Thiếu tá Hải quân Steven P. Collins là sĩ quan hoa tiêu radar (RIO) điều khiển.
 F-14 rời boong phóng HKMH.
Hai chiếc F-14 được trang bị 4 hỏa tiển  tầm trung AIM-7 Sparrows và 2 hỏa tiển  tầm ngắn AIM-9 Sidewinder. Sau khi được một máy bay KA-6D Intruder tiếp nhiên liệu, hai chiếc F-14 với mật hiệu Gipsy 207 lập tức trở lại chiến đấu khẩn cấp, bởi máy bay cảnh báo sớm E-2 Hawk Eye đã báo động có 2 máy bay chiến đấu Libya cất cánh từ sân bay Al Bumbah.
Ngay lập tức, các máy bay chiến đấu F-14 thiết lập đường dây liên lạc radar ở khỏang cách 115km. Đây là một thủ tục để cảnh cáo các máy bay Libya rằng họ đã bị F-14 theo dõi.
Các phi công Mỹ đã “nhiều lần thuyết phục phía Libya”, nhưng hai máy bay này vẫn lao tới.
Các máy bay F-14 bắt đầu tham chiến, chiếm góc 30 độ sau lưng các máy bay chiến đấu của đối phương, nhưng phía Libya phá thế  này bằng một đường lượn vòng rất nhanh. Các máy bay F-14 cũng liên tục bay, sẵn sàng bảo vệ hkmh USS Kenedy.
 F-14  được thiết kế với kiểu "cánh cụp cánh xòe", điều đặc biệt là MiG-23 cũng dùng kiểu cánh này.
Vài phút sau, cuộc chiến thật sự bùng nổ. Phó Đề đốc Paul t.Gillcrist kể lại trong cuốn sách của ông: Tomcat! The Grumman F-14 Story.
“Lúc 11:58, các máy bay chiến đấu của Mỹ giữ  cao  độ 914m và tốc độ 879km/h, trong khi đó hai máy bay Libya xông tới ở khỏang cách  85km, và càng lúc càng gần. Để tránh đối đầu với các máy bay đối phương có trang bị hỏa tiển  không đối không dẫn bắn bằng radar, các máy bay F-14  giành ưu thế chiến thuật.
Chưa đầy một phút sau đó, vào 11:59:16, các máy bay  Libya, được hỗ trợ bởi radar mặt đất, đã quay trở lại tiến về phía các máy bay F-14 với tốc độ khoảng 1.852km/h. Người chỉ huy tác chiến trên không của USS Kennedy truyền tới hai cặp máy bay của phi đoàn Swordsmen tín hiệu mã hóa: “Cảnh báo màu vàng, giữ vũ khí, tôi nhắc lại, cảnh báo màu vàng, giữ vũ khí”.
  MiG-23 thua kém F-14 về tầm radar cũng như vũ khí.
Cuộc liên lạc này đã gây ra một số hiểu lầm, khi nó được giải thích rằng các máy bay F-14 được lệnh bắn. Khẩu lệnh này được sử dụng để cảnh cáo cho máy bay chiến đấu rằng có một mối đe dọa có thể đến (cảnh báo màu vàng), và vũ khí phải được “giữ” theo qui tắc tham chiến thời bình (ROE) vẫn được áp dụng và các máy bay chiến đấu phải đánh giá đúng thái độ thù địch hay đe dọa, hoặc chỉ để bắn để tự vệ.
Lúc 12:00:53, Enwright báo cáo: Đối phương đã chuyển hướng lần thứ 5 và khoảng cách  với các máy bay Tomcat là dưới 32km. Sau đó, các phi công Mỹ bật công tắc vũ khí. Ở cự ly chính xác 20km, Enwright của Gipsy 207 đã bắn một hỏa tiển  Sparrow và Connelly rẽ 30 độ sang trái. Trong khi đó, Cock III của phi đoàn Gipsy 204 thực hiện lượn  sang bên phải.
Bằng cách này, lúc 12:01:20 hai máy bay F-14 tiến gần đối phương và Enwright bắn hỏa tiển  Sparrow thứ hai. Connelly vẫn không thể nhìn thấy các máy bay chiến đấu của Libya, nhưng ông nhận thấy rằng Gipsy 202 cũng bắn hỏa tiển  Sparrow. Cùng lúc đó Cock III kêu lên: “Tally-ho, góc 11h. Chúng đang nhằm vào tôi”.
Tuyên bố này gây ra một số nhầm lẫn, vì Enwright tin rằng lúc bấy giờ chiếc MiG-23 của Libya đã khai hỏa và ông bắt đầu tung ra các mồi bẫy gây nhiễu. Trong khi đó, hỏa tiển  thứ hai của Gipsy 202 đã bắn trúng một chiếc MiG-23.
Lúc 12:01:57, Gipsy 207 chiếm vị trí, ở góc 6h một chiếc MiG-23 lượn qua họ từ trái sang phải. Chiếc máy bay bị hư hỏng nặng, khói đen xì ra và phi công buộc phải nhảy dù.
F-14 phóng hỏa tiên không đối không. 
Lúc 12:02:06, Connelly chọn một hỏa tiển  Sidewinder để đánh chiếc MiG-23. Nhưng đầu dò của hỏa tiển  không hoạt động. Enwright la lớn: “Hãy chọn Fox 2, Fox 2!”. Thoáng lưỡng lự, Connelly chuyển sang hỏa tiển  Sparrow, nhưng rồi lại chọn hỏa tiể  Sidewinder. Connelly bóp cò, hỏa tiển  bắn hạ ngay chiếc MiG-23 còn lại.
Lúc 12:02:36 Connelly báo cáo với chiếc E-2C rằng họ đã “bắn hạ hai chiếc MiG-23”.
Trong những ngày sau đó, phía Libya đã cố gắng để gây nhầm lẫn bằng những khẳng định rằng đây là 2 máy bay MiG-23 trinh sát không vũ trang, nhưng các đoạn băng video ghi lại trong hệ thống TCS (Hệ thống máy quay, máy ảnh gắn dưới mũi máy bay F-14) cho thấy rõ ràng rằng MiG-23 được trang bị hỏa tiển  không đối không, chứng minh rằng máy bay chiến đấu Libya là một mối đe dọa thực sự.
F-14 Tomcat phi cơ hạm "cánh cụp cánh xòe" do Tập đoàn Grumman thiết kế từ những năm 1970 để trang bị cho Không quân Hải quân Mỹ. Đây là loại máy bay chiến đấu rất mạnh ở thời điểm bấy giờ, được trang bị hệ thống radar AN/APG-71 có thể phát giác mục tiêu ở cách xa 370km.
Máy bay được thiết kế với 10 giá treo cho khả năng mang vác 6,6 tấn vũ khí gồm các hoả tiên không đối không từ tầm ngắn tới tầm xa, bom có điều khiển.
So với  MiG-23 (Liên Xô sản xuất từ những năm 1970) của Libya thì F-14 Tomcat rõ ràng là tôi tân hơn về nhiều mặt, khả năng phát hiện mục tiêu tốt hơn cùng bộ vũ khí vượt trội.
Lương Minh
__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)

Wednesday, January 29, 2014





alt
LỄ KHAI MẠC HỘI CHỢ TẾT OC 2014 DO TRUNG TÂM VĂN HOÁ HỒNG BÀNG TỔ CHỨC, NGÀY 25 & 26-1 TẠI LITTLE SAIGON, NAM CALIFORNIA


To phonang@yahoogroups.com

Today at 4:03 PM

H Vuong
alt11:46 AM (4 hours ago)
alt


to Nguyen, Huy, Luu, PCD, Song, Cao, anthonyluu, Q, Huy, Phan, Phan, Phan, Phan, Bui, Thanh, thaocodon61, Luc, Tran, Nhan, Tran, Thieu, Vo, Xuan, Phan, Mai



Tường Trình: Hoàng Thụy Văn
 Ảnh: Vương Huê

Trung Tâm Văn Hoá Hồng Bàng mà ông Nguyễn Ngọc Cang là một trong các quản trị viên hiện nay, cũng là cơ sở đứng tổ chức những lần hội chợ Hè và các sinh hoạt mang tính giáo dục và truyền thống trong vùng, và đây là lần thứ nhất với Hội Chợ Tết OC 2014, vào các ngày 25 và 26 tháng 1. Địa điểm Hội Chợ choán hết bãi đậu xe phía nam của trường Trung Học Bolsa Grande thuộc Học khu Garden Grove. Cũng là nơi mỗi cuối tuần từ hơn 20 năm nay có rất nhiều trẻ em Việt Nam được cha mẹ, anh chị đưa đến học tại các lớp  Việt ngữ của Trung Tâm được tổ chức ngay tại các phòng học ở đây. Ngày khai mạc Hội Chợ OC hôm nay đã quy tụ hầu hết các vị dân cử trong vùng, đầy đủ các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo; về phía cộng đồng tỵ nan có chủ tịch CĐ NVQG NC, chủ tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH, Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Tây Nam Tập Thể CS  VNCH; nhà hoạt động cộng đồng TS Phạm Kim Long; ban Tế lễ cổ truyền của Hội Đền Hùng, Ban kèn đồng của Bolsa Grande High School, và Đoàn Lân Quang Trung. Phải chăng hầu hết các hoạt động của Trung Tâm Văn Hoá Hồng Bàng đều được thành công với sự hoan nghênh, tiếp nhận của đồng hương là do tinh thần dấn thần của nhà hoạt động cộng đồng Nguyễn Ngọc Cang cùng những đồng sự của ông gồm các thầy, cô giáo dạy Việt ngữ ở TTVH Hồng Bàng đã từng gắn bó lâu năm với công việc dạy tiếng Việt cho thế hệ kế thừa. Đây là một mặt trận văn hoá - giáo dục, vừa lo dạy trẻ để thế hệ kế thừa được tiếp nhận sự hiểu biết về ngôn ngữ dân tộc, giữ gìn di sản văn hoá nước nhà; vừa học theo tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của tiền nhân, vừa dương cao ngọn Cờ Vàng chính nghĩa quốc gia, biểu tượng của văn hoá Tự Do đồng thời cảnh giác và chống lại mọi âm mưu đầu độc trí óc non trẻ của con em VN bằng bất cứ tài liệu, sách báo, hình ảnh nào có nguồn gốc tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản.

Inline image 1
Quan khách hiện diện, Hội Đồng Liên Tôn chuẩn bị cắt băng khánh thành.
Inline image 2
Inline image 3

Inline image 4
Tế lễ cổ truyền.
Inline image 5
Inline image 6
Inline image 7
Inline image 8


Inline image 9
Giới thiệu quan khách và chuẩn bị chào cờ Việt Mỹ.
Inline image 10
Đội kèn đồng/ Bolsa Grande HS Music Band.
Inline image 11
Đoàn lân Quang Trung.

Inline image 12
Inline image 13

Inline image 16
Võ sinh Vovinam-Việt Võ Đạo với nhà dìu dắt là Võ sư Nguyễn Văn Thanh (người mang kính đen) bám trụ trường kỳ tại Trung Tâm Nguyễn Bá Học, trong khi chờ đợi tới phiên trình diễn trong Hội Chợ. (đai vàng một vạch của Vovinam tương đương thứ bậc với Black Belt First Degree quốc tế)

Inline image 15
Một màn chụp hình lưu niệm với khẩu đại liên 30 trong khu trưng bày chiến cụ xưa của quân bạn thời Chiến tranh VN. 

Xin mời xem thêm hình ảnh của Lễ khai mạc Hội Chợ Tết OC 2014 tại link sau đây:


__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)

Monday, January 27, 2014




Thêm chút hiểu biết về vũ khí hóa học   

Thêm chút hiểu biết về vũ khí hóa học
S  ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 13

Sự thật về vũ khí hóa học giết người hàng loạt

Sự phát tán của loại vũ khí chiến tranh này có thể là dấu chấm hết cho sự tồn tại của loài người…

Trong thời gian gần đây, quan hệ quốc tế đang trở nên căng thẳng vì tình hình chính trị ở Syria. Sau những nghi ngờ của một số nước phương Tây về việc về việc Syria có sử dụng vũ khí hóa học đối với thường dân, Mỹ và các quốc gia đồng minh đe dọa sẽ sử dụng những biện pháp can thiệp quân sự vào mảnh đất ở khu vực Trung Đông này.
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 1
Mới đây nhất, chính quyền Mỹ đã cho công bố những báo cáo, bao gồm một loạt chứng cứ về sự tồn tại của một cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học ở ngoại ô Damascus ngày 21/8 vừa qua.

S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 2
Thi thể nạn nhân nằm la liệt trên đường phố.
 
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 3
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t  4
Theo đó, cuộc tấn công này đã làm 1.429 người thiệt mạng, bao gồm 426 trẻ em. Vậy vũ khí hóa học là gì, chúng có ảnh hưởng như thế nào tới cuộc sống con người và điều gì sẽ xảy ra nếu loại vũ khí này phát tán, bùng nổ trên toàn thế giới?
Vũ khí hóa học là gì?
 
Vũ khí hóa học là một dạng vũ khí quân sự thường được sử dụng trong chiến tranh, có khả năng hủy diệt và sát thương hàng loạt, giống như vũ khí sinh học, vũ khí hạt nhân… Nói đơn giản, đây là tập hợp các thiết bị quân sự có sử dụng hóa chất (ở cả 3 thể rắn, lỏng, khí) khi được phát tán sẽ gây ra tổn thương trực tiếp trên cơ thể người hoặc tử vong.
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 5
Một xưởng sản xuất vũ khí hóa học.
Tùy theo hóa chất được sử dụng, người ta chia vũ khí hóa học thành 3 loại chính: loại sử dụng chất độc thần kinh, sử dụng hơi cay và sử dụng chất độc hô hấp.
Sức mạnh hủy diệt của vũ khí hóa học?
 
Trên thực tế, con người biết sử dụng loại vũ khí tàn bạo này từ rất sớm. Những phiên bản đầu tiên chính là các mũi tên tẩm độc của thổ dân da đỏ. Thời đó, người ta đã biết tới việc bỏ độc vào nguồn nước để tiêu diệt quân địch.
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 6
Trước Công nguyên, người Ấn Độ đã từng vận dụng khói hơi ngạt trong các trận chiến của mình. Ở phương Tây, các chiến binh Spartan cũng đốt gỗ trộn với mù tạt và lưu huỳnh để tạo ra hơi cay của riêng mình dùng trong chiến tranh.
Thời kỳ hoàng kim của loại vũ khí này là trong hai cuộc chiến tranh thế giới và hình ảnh tàn bạo của phát xít Đức thảm sát hàng triệu người vô tội bằng khí độc sẽ còn ám ảnh chúng ta mãi về sau. Một số loại chất độc chính từng được sử dụng là VX, Sarin, clo, phosgene,…
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 7
Vũ khí hóa học được sử dụng rất nhiều trong Thế chiến I.
Trong đó, Sarin là một chất độc thần kinh, độc tính mạnh gấp 500 lần cyanide (Hidro xyanua) và có thể giết chết một người trưởng thành trong vòng 1 phút.
VX lại sở hữu khả năng hủy diệt lớn, giết chết 75% những ai bị chất này dính lên người trong vòng 7-8 giờ đồng hồ.
Phosgene có mùi cỏ mới, sẽ gây phù phổi nếu vô tình hít phải và giết chết người bị nhiễm trong vòng 1-2 ngày.
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 8
Cho tới ngày nay, trên thế giới có không ít quốc gia trên thế giới tuyên bố sở hữu kho vũ khí hóa học. Có thể kể tới như Mỹ, Ấn Độ, Iraq, Nhật Bản. Gần đây, cả thế giới đang nín thở theo dõi tình hình ở Syria khi báo chí và chính quyền phương Tây nghi ngờ nước này sử dụng vũ khí hóa học với dân thường.
Dù điều đó có đúng hay không thì với khả năng hủy diệt hàng loạt của mình, sẽ không sai khi cho rằng, nếu vũ khí hóa học bùng nổ trên thế giới, đó cũng sẽ là dấu chấm hết cho lịch sử loài người.
Bí kíp sống sót trước thảm họa vũ khí hóa học
 
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 9
Không chỉ có con người mới là nạn nhân của vũ khí hóa học mà rất nhiều loài động vật cũng phải nhận kết cục tương tự.
Cả nhân loại đều hiểu được sự nguy hiểm mà vũ khí hóa học đem lại. Do đó, một tổ chức giải trừ vũ khí hóa học (OPCW) quy tụ 189 quốc gia đã được thành lập năm 1997 nhằm thực hiện những nỗ lực không mệt mỏi, ngăn chặn sự phát triển cũng như giải trừ, tiến tới xóa bỏ vũ khí hóa học trên thế giới.
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 10
Hàng trăm ngàn người bị giết trong Thế chiến II bởi vũ khí hóa học của phát xít Đức.
Với những nỗ lực này, nhiều khả năng, một thảm kịch vũ khí hóa học trên quy mô toàn cầu có lẽ sẽ chỉ có trên lý thuyết. Song, không ai có thể chắc chắn 100% điều gì.
S ñ th ­t v Á v i khí hóa  h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 11
Thế giới còn biết bao nhiêu kho vũ khí hóa học như thế này.
Bởi vậy, giống như thảm họa hạt nhân, sự bùng nổ trên quy mô toàn cầu của vũ khí hóa học cũng như Ngày Tận thế đang treo lơ lửng trên đầu chúng ta. Để sống sót qua “cái chết không báo trước” này, hãy làm theo những hướng dẫn sau:
Cố gắng nhận biết một cuộc tấn công hóa học càng nhanh càng tốt.
Bạn có thể làm điều này bằng cách nghe thông tin từ truyền hình, radio. Đa phần các chất độc hóa học được sử dụng có thể không màu nhưng có mùi đặc trưng như mùi hắc của khí clo, mùi mù tạt… Khi tiếp xúc với những loại khí như vậy, cơ thể bạn gần như phản ứng tức thì: da tấy đỏ, ngứa, khó thở, mù tạm thời…
S ñ th ­t v Á v i khí hóa h Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 12
Nếu biết mình đang nằm trong vùng tấn công hóa học, hãy tìm những vùng đất cao nhất và tới đó. Phần lớn chất độc hóa học nặng hơn không khí, do đó việc làm trên giúp bạn hạn chế đáng kể khả năng bị dính chất độc.
Sau đó, khẩn trương cởi hết toàn bộ quần áo đang mặc, bọc vào túi nhựa và vứt đi vì chắc chắn hóa chất đã dính lên chúng. Bạn cần nhanh chóng tắm rửa bằng xà phòng cẩn thận, rửa mắt với nước 10-15 phút để loại bỏ những mầm mống hóa chất có thể sót lại trên da.

S ñ th ­t v Á v i khí hóa h  Íc gi ¿t ng ° Ýi hàng lo ¡t 13
Cuối cùng, hãy giữ bình tĩnh để điều hòa nhịp thở. Sự hoảng loạn khiến bạn thở nhanh hơn, hít nhiều khí hơn bình thường và làm tăng nguy cơ hít phải khí độc. Để bảo vệ phổi, hãy sử dụng mặt nạ phòng độc hoặc bịt mũi bằng bông tẩm nước tiểu.
Nước tiểu có khả năng trung hòa một số chất độc hóa học đang được sử dụng hiện nay. Trong Thế chiến thứ I, quân đội Canada đã sống sót nhờ vận dụng phương pháp này.
Tạm kết:
Sự bùng nổ vũ khí hóa học xảy ra chính xác khi nào là điều không ai dám chắc. Nhưng chuẩn bị trước là chuyện hoàn toàn nên làm. Thường xuyên cập nhật tin tức, tìm hiểu chính xác những bí kíp phòng thân là điều sẽ giúp bạn sống sót qua “cái chết không báo trước” này.
* Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Discovery, Business Insider, Global Post, Wikihow, Wikipedia…

 
 
 




Friday, January 24, 2014



On Friday, January 24, 2014 9:50 AM, qtran <qtran@ec.rr.com> wrote:
 
HỒ SƠ MẬT 1963
Từ Các Nguồn Tài Liệu Của Chính Phủ Mỹ
Nhóm Thiện Pháp thực hiện
Nhà Xuất bản Thien Tri Thuc Publications, USA 2013
http://sachhiem.net/images/nha.jpg30-Dec-2013
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgoQQGpQ7ZA57CSLyEPHYLLClzr5SsF70Rl_tTKlcZyTluDmqyXQ2S4jw8diQJt0sYnZ2yQTCwTNtKsNIfKOrEKp82Zgt4mpfik2CWPkxENodkXey9niOVKlCA2_le426CBhkfKmxBNY_OP/s320/Cover_HS1963_Front.jpg
  
LỜI GIỚI THIỆU
Tập sách Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ nầy ra đời có hai mục đích:
Thứ nhất là để giới thiệu với quảng đại độc giả một nguồn tài liệu tham cứu của chính phủ Mỹ, ký tự là FRUS, vốn khá quen thuộc với giới nghiên cứu nhưng lại vẫn còn xa lạ với độc giả Việt Nam bình thường khi muốn tìm hiểu về những biến động lịch sử trong thập niên 1960’ của nước ta.
Thứ nhì là thông qua nguồn tài liệu đó để trình bày một số phát hiện mới, vốn không được đa số giới nghiên cứu người Việt hải ngoại khai thác và phổ biến, thậm chí còn bị một số “nhà bình luận” xuyên tạc và ngộ nhận, về những gì đã thực sự xảy ra tại miền Nam Việt Nam trong năm 1963.
Do đó, từ “Mật” trong tiêu đề tập sách là chỉ để cho quảng đại độc giả chưa biết đến, hoặc có biết đến nhưng không chịu sử dụng, nguồn tài liệu nầy mà thôi. Từ nay, hy vọng rằng mọi độc giả đều có thể tiếp cận trực tiếp nguồn FRUS để bổ túc cho những nhận định của mình được trung thực và chính xác hơn.
-- o0o --
Tập sách nầy gồm 26 tài liệu, trong đó hơn 80%, 21 tài liệu, là của chính phủ Mỹ. Những văn bản nầy của chính phủ (Công điện, Bản Ghi nhớ, Điện tín, Phúc trình, …) gồm 12 tài liệu, hơn 57%, đã là của Bộ Ngoai Giao Mỹ dưới ký tự viết tắt FRUS. 9 tài liệu còn lại là của Tòa Bạch Ốc (Cục An Ninh Quốc Gia NSA), Bộ Quốc Phòng (Pentagon Papers), CIA (tại Sài Gòn và tại Langley), và từ Thượng Viện (Select Committee to Study Governmental Operations).
Còn 5 tài liệu không có nguồn gốc từ chính phủ Mỹ là Phúc trình A/5630 của Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc; một đoạn trong Death of A Generation của Howard Jones vốn là một tác phẩm cũng sử dụng rất nhiều nguồn tài liệu của chính phủ Mỹ. Ngoài ra, còn có một trích đoạn trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng của Trung Tướng Trần Văn Đôn, kể lại đêm tổng tấn công chùa 20-8-1963 mà ông vừa là tác nhân vừa là chứng nhân khiến một tài liệu của CIA đã phải đặc biệt nhắc đến; và một bài viết kết luận tổng hợp của tác giả Tâm Diệu vềPhật giáo và cuộc Chính biến 1-11-1963 thông qua các tài liệu của chính phủ Mỹ.
Xin được có vài lời về lý do tại sao chúng tôi lại sử dụng đến hơn 57% tài liệu FRUS của Bộ Ngoại Giao Mỹ cho tập sách nầy.
FRUS, ký tự viết tắt của cụm từ Foreign Relations of the United States, là một tập hợp các tài liệu lịch sử chính thức liên hệ đến các quyết định quan trọng trong chính sách ngoại giao của Mỹ đã đƣợc giải mật và biên tập để công bố (The Foreign Relations of the United States series is the official documentary historical record of major U.S. foreign policy decisions that have been declassified and edited for publication). Những tài liệu nầy do Văn phòng Sử gia (Office of the Historian) thuộc Bộ Ngoại giao soạn thảo và chịu trách nhiệm xuất bản, và do Sở Ấn loát Chính phủ (Government Printing Office) in ấn phát hành. Tập hợp tài liệu đồ sộ nầy bắt đầu từ các biến cố ngoại giao từ thời chính quyền của Tổng thống Abraham Lincoln (1861) cho đến ngày nay.
Riêng tài liệu liên hệ đến Việt Nam duới nhiệm kỳ Tổng thống Kennedy thì gồm 4 Tập, phủ dài thời gian 3 năm từ 1961 đến 1963. Hai tập cuối cùng, Tập III và Tập IV, được phát hành vào năm 1991 và được phổ biến Online trong không gian Internet vào đầu thiên niên 2000.
Độc giả người Việt ở hải ngoại, ngay cả ở Mỹ, cũng ít nghe nói đến kho tài liệu đồ sộ và quý giá đã được giải mật khá đầy đủ và dễ dàng truy cập Online nầy. Chỉ một số nhà nghiên cứu nghiêm túc là biết từ rất sớm về FRUS và đã khai thác rất hiệu quả để tái khẳng định và/hoặc hiệu đính lại một số biến cố / luận điểm mà trong quá khứ đã không hoặc chưa đƣợc biểu đạt rõ ràng.
Xin đan cử trường hợp về hai bài viết có liên quan đến chế độ Ngô Đình Diệm chỉ vài năm sau khi FRUS được lên Online: Cách đây hơn 10 năm, trong bài viết Toàn Trị và Ngoại Thuộcvào tháng 5 năm 2003, giáo sư Cao Huy Thuần ở Pháp đã sử dụng 50 nguồn trích dẫn từ FRUS trong tổng số 53 cước chú của ông(1). ;Còn trong tiểu luận công phu Phiến Cọng trong Dinh Gia Long, hoàn thành vào tháng 8 cũng năm 2003, tiến sĩ Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu ở Mỹ đã sử dụng 49 tham chiếu từ FRUS trong tổng số 149 cước chú của ông(2).
Sở dĩ FRUS đạt được độ tin cậy khá cao, do đó mức sử dụng khá nhiều, trong các công trình nghiên cứu là vì ba lý do:
(i)   Nói chung, FRUS là những tài liệu mật hoặc tuyệt mật (TOP SECRET) được trao đổi giới hạn giữa một số ít giới chức hành pháp rất cao cấp của Mỹ. Nội dung của những tài liệu nầy thường được làm cơ sở hoặc công cụ để thiết lập chính sách hoặc kế hoạch hành động cấp quốc gia, nên độ trung thực và tính chính xác của tài liệu, dù có lợi hay có hại cho chính quyền Mỹ, đều luôn luôn đƣợc người soạn thảo tài liệu cố gắng giữ ở mức tối đa.
(ii)   Cơ chế vận hành Check and Balance (Kiểm soát và Quân bình) của chính phủ Mỹ [và sau nầy với việc ban hành Freedom of Information Act năm 1966 (Đạo luật về Quyền tự do tiếp cận Thông tin)] cho phép hai ngành Lập pháp và Tư pháp cũng như bất kỳ người dân nào, sớm hay muộn, cũng truy cứu được thông tin của chính phủ. Thậm chí nếu cần, có thể xin tòa án can thiệp (subpoena) để được tiếp cận tài liệu. Vì biết rõ và vì làm việc trong khung nguyên tắc đó từ lâu nên trong quá trình hình thành các tài liệu, giới chức chọn lựa và soạn thảo FRUS đã phải cố gắng tránh những sai lầm, sơ hở, tối nghĩa, lạc dẫn, suy đoán, thậm chí dối trá, … ở mức tối đa.
(iii)   Tinh thần và đạo đức học thuật của giới nghiên cứu Mỹ là khá cao, lãnh vực nghiên cứu là khá đa dạng, và tranh chấp học thuật thì gay gắt trên trường quốc tế. Do đó, những học giả luôn đòi hỏi các nguồn cung cấp tài liệu, dù trong hay ngoài chính phủ, dù lãnh vực an ninh quốc gia hay bất kỳ lãnh vực nào, cũng phải duy trì một mức độ chuyên nghiệp trong các tài liệu để họ có thể tin tưởng sử dụng. Trong lãnh vực bang giao quốc tế có liên hệ đến Mỹ, FRUS là công cụ làm việc của giới nghiên cứu nên cũng phải chuyên nghiệp ở mức tối đa.
Đó ít nhất là những lý do vì sao FRUS có độ khả tín khá cao. Do đó, một cách cụ thể, công trình nghiên cứu nghiêm túc nào về quan hệ Việt-Mỹ trong thập niên 1960‘ mà không tham chiếu FRUS thì cũng là điều thiếu sót. Nhưng dĩ nhiên chúng ta cũng không ngây thơ đến độ tin tưởng hoàn toàn bất kỳ thông tin nào của FRUS mà không đối chiếu với các nguồn thông tin khác và/hoặc đặt chúng trước quy trình phân tích chặt chẽ và chọn lọc khắt khe. Dù sao thì FRUS cũng đáng tin cậy và cần tham cứu để sử dụng, nhất là khi so sánh với những “nguồn tài liệu” khác rất đáng nghi ngờ, nhưng lại thường được đa số những “bình luận gia” người Việt cả trong lẫn ngoài nước, nhất là ở hải ngoại, sử dụng để “đầu độc chính trị” nhau nhiều hơn là để trình bày sự thật.
Một cách cụ thể, chúng tôi xin cung cấp hai đường link sau đây để độc giả có thể truy cập tất cả tài liệu FRUS liên quan đến quan hệ Việt-Mỹ trong năm 1963:
1- FRUS 1961-1963, Volume III: Vietnam January - August 1963:
2- FRUS 1961-1963, Volume IV: Vietnam August - December 1963:
-- o0o --
Năm 1963 là năm có đầy đủ triệu chứng của một chế độ toàn trị đang ở hồi cuối cùng của quy trình hủy diệt. Đại sứ Trần Văn Chương, thân phụ của bà Nhu, là ngƣời đầu tiên dùng cụm từ “toàn trị” để xác định đặc tính chính trị của chế độ Diệm(3).
Để hiểu rõ hơn về biến cố 1963, ta cần nắm bắt ba giai đoạn phân chia cuộc đời chính trị của ông Ngô Đình Diệm:
Trước 1954, ông là một chính khách trôi nổi trong cuộc chiến Pháp-Việt, bị kẹt giữa chính sách của Hội Truyền giáo Hải ngoại (MEP) và truyền thống phục vụ nền đô hộ Pháp của gia đình nên ông đã không xả thân chống Pháp quyết liệt như các nhà cách mạng đương thời. Khi thì làm quan Nam Triều nên Việt Minh ghét ông, khi thì theo Nhật nên Tây muốn bắt ông, khi thì ẩn mình trong tu viện, khi thì “bao năm từng lê gót nơi quê người”, không uy tín, không lực lượng ngoại trừ một nhóm tín đồ Thiên Chúa giáo bản địa ủng hộ. Quốc tế không biết đến ông, lại vốn không có gốc rễ trong quần chúng nên ông không có một hoạt động nào có tác động đáng kể vào cuộc vận động giải thực gian khổ của toàn dân.
Đây là giai đoạn ông Diệm có thể có Tâm nhưng chắc chắn không có Tài, ai theo ông cũng được, không theo ông cũng chẳng sao. Ông chỉ là một “chính khách xa lông” như ta thường gọi.
Giai đoạn thứ nhì là từ 1954 đến 1959: Đó là lúc Mỹ thay Pháp tham dự vào thế cờ Đông Dương để xây dựng một tiền đồn chống lại chiến lược bành trướng của Cọng sản Quốc tế tại châu Á. Ông may mắn có hai yếu tố mà các chính khách Việt Nam đương thời không có: Mỹ Vatican. Ông cũng may mắn có ông anh Giám Mục quen biết với lãnh tụ số một của Công giáo Mỹ trong thời kỳ đó. Cho nên ông được cường quốc Mỹ hỗ trợ thay thế Bảo Đại của Pháp. Ba “bà mụ” chăm sóc để hóa thân ông thành “phép lạ” của Mỹ là Hồng y Francis Spellman, Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, và Ngoại trưởng John Foster Dulles(4). Với hai thế lực quốc tế và bảo chứng của vị vua triều Nguyễn, ông về nước, “phất cờ” và được hầu như toàn dân miền Nam ủng hộ để xây dựng miền Nam mà chống Cọng. Quân viện và kinh viện, nhân sự và văn hóa của Mỹ ào ạt đổ vào miền Nam, giúp ông vượt qua mọi trở ngại để thành lập nền Cọng hòa. Lãnh đạo miền Bắc vừa phải chờ gần hai năm để Tổng Tuyển cử, lại vừa bận lo chữa vết thương chiến tranh sau 9 năm đánh Pháp, nên miền Nam được tạm ổn, thanh bình và trù phú. Ông làm Tổng thống của một nền Cọng hòa non trẻ, là một lãnh tụ không giỏi nhưng gặp thời và được hai thế lực đỡ đầu hết lòng yểm trợ, nên thực hiện được nhiều thành tích tại miền Nam.
Trong giai đoạn 5 năm nầy, ông Diệm là người có thể vừa có Tâm vừa có Tài, nhưng quan trọng hơn cả là ông được thời thế, ai là người muốn xây dựng miền Nam để chống Cọng thì phải ủng hộ ông. Ông là một ông quan phụ mẫu chi dân tuyệt vời trong một chế độ dân chủ khập khiểng.
Giai đoạn cuối là từ năm 1960 với những bước ngoặt oan trái, hệ quả của nền cai trị độc tài của ông mấy năm trước và của bản chất phong kiến gia đình trị, tổng hợp chất Thiên Chúa giáo Trung cổ và quan lại Tống Nho của văn hóa gia tộc ông. Năm 1960, chánh sách nội trị của ông phạm nhiều sai lầm nên bị chính quân dân miền Nam chống đối. Từ đầu năm, nhóm trí thức Bắc di cư trong báo Tự Do công khai tố cáo hành động đục khoét miền Nam của gia đình họ Ngô với bức tranh 5 con chuột trên bìa báo Xuân Canh Tý. Tiếp theo là thảm bại của Sư đoàn 13 tại Trảng Sập (Tây Ninh) vào ngày 26/1 dù lực lượng chính phủ đông và mạnh hơn. Đến tháng 4, nhóm 17 nhân sĩ trí thức và một linh mục (trong đó có 11 người đã từng là chiến hữu hoặc cọng tác viên cũ của ông Diệm) thuộc nhóm Tự Do Tiến Bộ ra Tuyên ngôn (tại khách sạn Caravelle) tố cáo tình trạng độc tài, tham nhũng, kém hữu hiệu và đòi ông thay đổi nhân sự cũng như chính sách. Tháng 11, các sĩ quan chỉ huy binh chủng Nhảy Dù cùng nhiều nhân vật đảng phái quốc gia tập họp trong Liên Minh Dân Chủ và Mặt trận Quốc gia Đoàn kết đã phát động cuộc binh biến, đánh thẳng vào dinh Độc Lập, đòi ông Diệm cải tổ toàn diện cơ cấu lãnh đạo quốc gia để xây dựng lại chính nghĩa và nâng cao hiệu năng chiến đấu của quân dân miền Nam. Tháng 12, Hà Nội cho ra đời và công khai hóa Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, làm điểm tụ lực để thu hút quần chúng bất mãn hầu tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang, thách thức tính chính thống của Việt Nam Cọng Hòa trên cả hai mặt quốc tế và quốc nội. Nhưng 5 biến cố đó cũng không tác hại sâu sắc bằng tình trạng kể từ năm 1960, hai ông bà Ngô Đình Nhu bắt đầu khuynh loát rồi cuối cùng khống chế trung tâm quyền lực quốc gia ở Dinh Gia Long, từ từ đẩy ông Diệm vào vai trò thứ yếu trong công việc quản trị miền Nam. Ông làm Tổng thống như một vua Lê bù nhìn bên (ông bà) chúa Trịnh lộng quyền.
Đây là giai đoạn chót, ông Diệm mất đi cả cái Tâm lẫn cái Tài, nhưng vẫn cùng gia đình cao ngạo bám vào ghế lãnh đạo quốc gia nên hại nước hại dân, vì vậy ai là người có trí và có lòng thì cũng phải chống ông. Từ người hùng của thời thế, ông Diệm trở thành tội nhân của lịch sử. Đó có phải là nhiệm ý Thiên Chúa chăng?
Vì cái năm bản lề 1960 nhiều biến động đó mà những năm sau, miền Nam bắt đầu suy thoái, chịu đựng hết cuộc khủng hoảng nầy đến cuộc khủng hoảng khác:
Thật vậy, năm 1961, trong lúc nền kinh tế quốc gia vẫn còn phụ thuộc nặng nề vào kinh viện Mỹ(5) thì tình hình an ninh hầu như bị suy sụp một cách đáng quan ngại, nhất là ở nông thôn, nơi Việt Cọng kiểm soát 80%(6) đến nỗi ngày 10-10-1961, ông Diệm phải ban bố “tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.”(7) Và hai tháng sau, ngày 7-12-1961, ông Diệm đã gửi thư cho Tổng thống Kennedy xin tăng thêm viện trợ vì “Việt Nam Cọng Hòa đang phải đối đầu với một thảm họa lớn nhất trong lịch sử(8). Qua năm 1962, sáng ngày 27 tháng 2, hơn một năm sau “Đảo chánh Nhảy dù”, hai sĩ quan của một binh chủng khác của quân đội lại hành động: Trung úy Phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử đã bay 2 chiếc Skyrider A-1 ném bom Napalm và bắn rocket vào dinh Độc Lập với mục đích tiêu diệt toàn bộ lãnh đạo đầu não của Đệ Nhất Cọng hòa. Trong khi đó thì ngoài chiến trường, các đơn vị vũ trang của Việt Cọng bắt đầu thách thức quân lực VNCH trên cả 4 Quân khu, đánh chiếm nhiều đồn bót, pháo kích vào các quận huyện ven thủ đô Sài Gòn. Đặc công của họ còn dám đặt chất nổ tại các thành thị và bắt cóc các viên chức của chế độ(9). Tình trạng an ninh khẩn trương đến nỗi ngày 31-3-1962, ông Diệm đã phải gửi thông điệp cho 92 quốc gia trên thế giới yêu cầu ủng hộ VNCH chống cuộc xâm lăng của Cọng sản(10). Như vậy, “Sau sáu năm trời làm một thứ Quốc trưởng không ai lay chuyển nổi, Diệm vẫn bất an. Sự ủng hộ của nhân dân phai lạt, quân đội không thể chiến đấu theo lối chiến tranh cách mạng của Việt Cộng, còn kinh tế quốc gia hầu hết hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ Mỹ(11). Và, cuối cùng, năm 1963 định mệnh cũng đến!
Trong năm 1963 đó, những biến cố dồn dập khuấy động một miền Nam hừng hực lửa. Những biến cố nầy là do hệ quả tích lũy từ các nguyên nhân các năm trước hoặc được khởi động đột biến ngay trong chính năm 1963: Từ thảm bại Ấp Bắc đến Phúc trình Mansfield (đặt câu hỏi căn bản rằng “Chúng ta có thể thắng Cọng sản với Diệm không?”); từ cuộc đấu tranh rồi bị đàn áp của Phật giáo đến hành động quyên sinh của văn hào Nhất Linh; từ rạn nứt quan hệ với Mỹ đến những tiếp xúc thỏa hiệp với Hà Nội; từ gần 10 âm mưu đảo chánh của các sĩ quan trung cấp ngay đầu năm 1963 đến chính ông Nhu cũng dự định đảo chánh ông Diệm trong kế hoạch Bravo I để thay ông Diệm… Tất cả như những ngọn sóng, trùng trùng điệp điệp đan bện vào nhau đổ ụp xuống chế độ ông Diệm vào ngày 1-11-1963. Và vào sinh mạng hai anh em ông ngày 2-11-1963.
Phật giáo hay không Phật giáo, Quân đội hay không Quân đội, Mỹ hay không Mỹ, cuối cùng thì nhân nào quả nấy. Và lịch sử sang trang. Phải sang trang…
-- o0o --
Nhiều tài liệu đã đề cập đến những ngày xao động của năm 1963. Trong tập sách nầy, thông qua các nguồn tài liệu Mỹ mà chủ yếu là từ FRUS, chúng tôi chỉ muốn cung cấp thêm một số dữ kiện do người Mỹ phát hiện nhưng không được đông đảo người Việt Nam biết đến. Sau đây là vài ví dụ:
- Trong vụ nổ súng tại Đài Phát thanh Huế ngày 8-5-1963, lúc đầu, binh sĩ chính quy được lệnh đàn áp đám đông Phật tử nhưng họ từ chối. Do đó, cuối cùng, chính địa phương quân của Thiếu tá Đặng Sỹ đã nổ súng và ném lựu đạn. (FRUS 1961-1963, Vol. III, Doc. 116).
- Ngày 3/6/1963 tại Huế, sinh viên và đồng bào tại Huế biểu tình và đã bị quân đội phun hóa chất để giải tán (FRUS 1961-1963, Vol. III, Doc. 146 và 147).
- Tướng Lê Văn Kim là tướng lãnh đầu tiên đề cập với ngƣời Mỹ, ông Rufus Phillips của USOM, về ý định của quân đội sẽ loại bỏ ông Nhu nếu Mỹ có cùng một thái độ cứng rắn như thế. Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Đình Thuần và Chánh Văn phòng Phủ Tổng thống Võ Văn Hải cũng muốn Mỹ tỏ thái độ muốn loại bỏ ông Nhu. (Pentagon Papers trích dẫn FRUS 1961-1963, Vol III, Doc. 274).
 - Tướng Trần Văn Đôn cho người Mỹ biết giữa ông Diệm và bà Nhu không có quan hệ xác thịt nhưng ông Diệm xem bà Nhu như một người vợ lý tưởng thuần khiết (platonic wife) như Hitler đối với Eva Braun, và ông Diệm đã từng thăng chức cho một người làm vườn tại Đà Lạt từ Trung sĩ lên Trung tá chỉ vì người nầy trắng trẻo đẹp trai (FRUS 1961-1963, Vol I I I, Doc. 275).
 - Việc ông Nhu lừa dối các tướng lãnh khi cho Lực Lượng Đặc Biệt giả danh quân đội tấn công các chùa tại Sài Gòn đêm 20/8/1963 khiến cả Mỹ lẫn dân chúng Việt Nam lên án quân đội, đã là một bước ngoặt mạnh mẽ khiến Quân đội dứt khoát muốn loại bỏ ông Nhu hơn. (FRUS 1961-1963, Vol III, Doc. 274).
 - Từ năm 1962, sau cuộc đảo chánh của Nhảy Dù và vụ oanh kích của 2 Phi công, và trước khi xảy ra vụ Phật giáo, Mỹ đã đánh giá là miền Nam sẽ bị nhuộm đỏ vì gia đình họ Ngô đa nghi, kém hiệu quả và mất lòng dân (FRUS 1961-1963, Vol II, 1962, Doc. 268).
- Sau cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, ngày 25/6, ông Nhu đã nói thẳng với người Mỹ rằng ông chống đối ông Diệm, và chính phủ hiện tại phải bị loại bỏ. Ông Nhu trình bày điều nầy trong một tình trạng xúc động cao độ (FRUS 1961-1963, Vol III, Doc. 256).
- Một đội cảnh sát đặc biệt của bà Nhu được thành lập và do ngƣời em của bà là Trần Văn Khiêm chỉ huy. Ông Khiêm đã cho một ký giả người Úc xem một danh sách các viên chức Mỹ tại Sài Gòn mà ông đang lên kế hoạch ám sát (FRUS 1961-1963, Vol IV, Doc. 68).
- Nhiều quan chức Việt Nam cho biết quyền lực thực sự nằm trong tay ông Nhu, ông Diệm chỉ là “búp bê” của ông Nhu. Cả hai ông Nguyền Đình Thuần và Võ Văn Hải đều xác nhận ông Nhu hút thuốc phiện từ hai năm rồi. Trạng thái tâm thần hoảng loạn của ông Nhu hiện rõ khi ông tuyên bố chỉ có ông mới cứu được Việt Nam. (FRUS 1961-1963, Vol IV, Doc.110).
- Bà Trần Văn Chương, thân mẫu của bà Nhu, gọi bà Nhu là “đồ quỷ” (monster), ông Nhu là “hung nô” (barbare), ông Diệm là “kẻ bất tài” (incompetent). Còn ông Trần Văn Chương, Đại sứ VNCH tại Mỹ, thì bàn thảo với các nhà hoạt động để thành lập một chính phủ lưu vong để lật đổ nhà Ngô (FRUS 1961-1963, Vol IV, Doc.118).
- Khoản tiền 42,000 Mỹ Kim đã do CIA trao trước đó để dùng mua thực phẩm cho chiến binh VNCH và dùng làm tiền tử tuất cho gia đình tử sĩ trong cuộc binh biến 1-11-1963. Tướng Dương Văn Minh hai lần điện thoại tới ông Diệm, đề nghị hai anh em Diệm-Nhu đầu hàng sẽ được an toàn xuất ngoại. Ông Diệm hai lần từ chối. (Phúc Trình Thượng Viện Hoa Kỳ Số 94-465).
- Vân vân…
Đó chỉ là vài ví dụ. Xin bạn đọc từ từ đọc hết 26 tài liệu…
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Chính biến 1-11-1963, chúng tôi hy vọng tập sách nầy sẽ là một nhắc nhở đến những độc giả muốn tìm hiểu lịch sử Việt Nam thời cận đại một điều ai cũng đã biết, rằng trong tình trạng nhiễu loạn thông tin và nhiễu nhương thế sự hiện nay, hiểu được và đánh giá đúng một sự kiện thì thật là khó khăn.
Trân trọng,
Nhà Xuất bản Thien Tri Thuc Publications
P.O. Box 4805
Garden Grove, CA.92842-4805
U.S.A.
________________
CƯỚC CHÚ:
(1) Bài được đăng trên Diễn Đàn Forum số 129, xuất bản tại Paris vào tháng 5 năm 2003 và được Thư Viện Hoa Sen đăng lại: http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-135_4-17521_5-50_6-1_17-55_14-1_15-1/  
(2) Bài được đăng trên Tạp chí Hợp Lưu tại California vào tháng 8 năm 2003 và đượcViệt-Studies đăng lại: http://www.viet-studies.info/kinhte/PhienCongDinhGiaLong_HopLuu.pdf  
(3) FRUS 1961-1963, Tập III, Memo của Forrestal gửi Harriman ngày 8-3-1963.
(4) Joseph Buttinger, Vietnam: A Political History. New York: Frederick A. Praeger, 1968.
(5) Bernard C. Nalty, Rival Ideologies in Divided Nations (Vietnam War), tr. 62; và Frances Fitzgerald, Fire in the Lake, tr. 101-104.
(6) Robert Scigliano, Vietnam, A Country At War.
(7) Sắc lệnh số 209-TTP của Tổng Thống Phủ - Đoàn Thêm, Những ngày Chưa quênĐại Nam, 1967 – Nam Chi Tùng Thư tái bản.
(8) Marvin E, Gettlemen, Vietnam History, Documents and Opinionsm và Đoàn Thêm,Những ngày Chưa quên, Đại Nam, 1967 – Nam Chi Tùng Thư tái bản.
(9) Stanley Karnow, Vietnam, A History, New York: King Presss, 1983.
(10) Đoàn Thêm, Những ngày Chưa quên, Đại Nam, 1967 – Nam Chi Tùng Thư tái bản.
(11) Bernard C. Nalty, Rival Ideologies in Divided Nations (Vietnam War), tr. 62.
 
MỤC LỤC
● LỜI GIỚI THIỆU (trang 7)
● PHẦN I - CUỘC VẬN ĐỘNG BÌNH ĐẲNG TÔN GIÁO NĂM 1963 CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
1- FRUS III (9-5-1963): Các điện văn trao đổi giữa Huế, Sài Gòn và Washington (trang 21)
2- CIA (11-5-1963): Báo cáo cho Tổng thống Mỹ về cuộc thảm sát tại Huế năm 1963 (trang 39)
3- FRUS III (1-8-1963): Tấn công Hóa học ở Huế (trang 43)
4- Pentagon Papers (20-8-1963): Chiến dịch Tổng tấn công chùa đêm 20-8-1963 và các hệ quả(trang 49)
5- Trần Văn Đôn / Việt Nam Nhân Chứng (20-8-1963): Cuộc tấn công các Chùa đêm 20-8-1963(trang 70)
6- FRUS III (24-8-1963): CIA - Cuộc nói chuyện bí mật của Tướng Trần Văn Đôn (trang 76)
7- Bộ Ngoại giao (24-8-1963): Điện văn tối mật số 243 ngày 24-8-1963 (trang 92)
8- FRUS III (24-8-1963): Điện văn 274, Chiến dịch tấn công chùa (trang 99)
9- Liên Hiệp Quốc (7-12-1963): Bản Phúc trình của Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc (trang 105)
10- Liên Hiệp Quốc (7-12-1963): Phúc trình Liên Hiệp Quốc A/5630 đã kết luận như thế nào?(trang 109)
● PHẦN II – TÌNH HÌNH CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM TRONG NĂM 1963
1- FRUS II (1/1962): Nhiều ngàn Sĩ quan VNCH cải đạo để tiến thân (trang 125)
2- CIA (10-7-1963): Bản đánh giá Tình báo Quốc gia đặc biệt (trang 132)
3- FRUS II (16-8-1962): Năm 1962, Mỹ đã thấy mất Việt Nam (trang 153)
4- FRUS III (16-8-1963): Ngô Đình Nhu muốn thay thế ông Diệm làm Tổng thống (trang 170)
5- Howard Jones / Death of A Generation: Ngô Đình Nhu thương thuyết với Hà Nội (trang 181)
6- FRUS IV (6-9-1963): Điện văn 68 ngày 6-9-1963, Nhu thiết lập danh sách nhân viên Mỹ sẽ bị ám sát (trang 204)
7- FRUS IV (15-9-1963): Mỹ thấy lính và dân Việt Nam phẩn nộ (trang 210)
8- FRUS IV (16-9-1963): Điện văn 118 – Thân phụ và thân mẫu bà Nhu kêu gọi lật đổ nhà Ngô(trang 219)
9- FRUS IV (26-9-1963): Bộ trưởng Quốc phòng McNamara viết từ Sài Gòn: Diệm Nhu đàn áp toàn dân (trang 224)
10- FRUS IV (7-10-1963): Vua Lê Ngô Đình Diệm và Chúa Trịnh Ngô Đình Nhu (trang 232)
11- Tòa Bạch Ốc / Cục An Ninh Quốc Gia (11-10-1963): Mỹ đã thấy mất Việt Nam từ cuối năm 1961 (trang 244)
12- Thượng Viện Hoa Kỳ (30-10-1963): Áp lực giờ chót của Mỹ đòi hủy bỏ cuộc lật đổ nhà Ngô(trang 261)
● PHẦN III – VÀI TÀI LIỆU TỔNG HỢP
1- CIA (4/1966): Thích Trí Quang và Mục tiêu Chính trị của Phật giáo tại Nam Việt Nam (trang 271)
2- CIA (7/1966): Chính quyền Johnson nhìn lại biến cố 1963 (trang 310)
3- The Pentagon Papers (1/1969): Biến động Phật giáo từ 8-5 đến 21-8 năm 1963 (trang 314)
4- Tâm Diệu (10/2013): Phật giáo và cuộc Chính biến 1-11-1963 (trang 328)
Xin các nhà nghiên cứu liên lạc với Nhà Xuất bản Thien Tri Thuc Publications, PO Box 4805,Garden Grove, CA.92842-4805 để nhận ấn bản giấy.
Để đọc phiên bản điện tử, xin truy cập vào đường link:
 
Nguồn http://hoangnamgiao.blogspot.com/2013/12/ho-so-mat-1963-tu-cac-nguon-tai-lieu.html

__._,_.___
Attachment(s) from TCLAHAULA
2 of 2 Photo(s)
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (3)
Recent Activity: