F/A-18 và các biến thể
tka23 post
F/A-18
là tiêm kích( khu trục , không chiến) trên hạm của Hải quân Mỹ, việc
nhận biết các biến thể của nó cũng dễ dàng hơn nhờ có các thay đổi lớn
về thiết kế khí động học.
F/A-18
Hornet là loại khu trục 2 động cơ, được chế tạo để hoạt động trên
hkmh, đây là phản lực cơ trên hạm chủ lực của Hải quân Mỹ. F/A-18 đã
tham gia vào rất nhiều chiến dịch quân sự của Mỹ và đã chứng minh được
năng lực của một trong những khu trục trên hạm tốt nhất thế giới.
F/A-18 là sản phẩm của Tập đoàn McDonnell Douglas, được phát triển từ mẫu thử nghiệm YF-17 của Northrop Grumman. Vào năm 1997, tập đoàn này đã sát nhập vào Boeing, nên kể từ đó trở đi, F/A-18 được coi là sản phẩm của Boeing.
Hornet bắt đầu trang bị trong Hải quân Mỹ từ năm 1983 nhằm bổ sung và thay thế dần cho phi đội
F-14 Tomcat. Hornet xuất trận lần đầu tiên vào tháng 4/1986,
trong nhiệm vụ yểm trợ cho cuộc không kích Libya trong chiến dịch
Benghazi.
F/A-18 được sản xuất với các biến thể A/B, C/D và gần đây nhất là biến thể nâng cấp sâu rộng E/F Super Hornet.F/A-18A/B
Đây là biến thể sản xuất loạt đầu tiên của F/A-18, trong đó
Đây là biến thể sản xuất loạt đầu tiên của F/A-18, trong đó
F/A-18A là biến thể 1 chỗ ngồi,
F/A-18B là biến thể 2 chỗ ngồi phục vụ cho nhiệm vụ huấn luyện .
Máy bay có điểm dễ nhận biết với 2 rìa cánh bắt đầu từ cánh
chính kéo dài cho đến tận buồng lái. Dưới đó, là cửa hút không khí hình
ovan nằm 2 bên hông phía dưới cánh chính.
Biến thể một chổ ngồi F/A-18A đặc biệt với cửa hút không khí hình ovan.
|
Biến thể sản xuất đầu tiên này được trang bị radar AN/APG-65, một
loại radar xung Doppler, băng tần I khả năng giám sát không đối không
và đối đất cùng lúc. Radar được thiết kế với công nghệ lock down/shoot
down, bộ xử lý có khả năng theo dõi trong khi đang scan. Radar có tầm
hoạt động tối đa ở chế độ không đối không là 110km. F/A-18A/B được trang
bị hệ thống fly-by-wire kỹ thuật số, hệ thống điện tử trên không tối
tân. Buồng lái được trang bị các màn hình LCD đa chức năng, màn hình
HUD hiện đại. Máy bay được trang bị hai động cơ GE F404 cung cấp lực đẩy
đốt lần 2 là 79kN/động cơ. Hornet là một trong số ít những máy bay có
tỷ lệ lực đẩy/trọng lượng lớn hơn 1, cùng với thiết kế
khí động học giúp cho máy bay có khả năng biểu diễn diễn tốt và hoạt
động rất hiệu quả trên
hàng không mẫu hạm .
F/A-18C/D
F/A-18C/D là biến thể đầu tiên của F/A-18, trong đó,
F/A-18C/D là biến thể đầu tiên của F/A-18, trong đó,
F/A-18C là biến thể 1 chỗ ngồi,
F/A-18D là biến thể 2 chỗ ngồi.
Máy bay trang bị từ tháng 9/1987. So với nguyên mẫu, hình dáng
bên ngoài của máy bay không có nhiều khác biệt, các thay đổi chính ở hệ
thống điện tử và vũ khí.
Biến thể một chổ ngồi F/A-18C đang cất cánh từ hàng không mẫu hạm
|
Máy bay được trang bị radar AN/APG-73, được xem là radar dành
cho khu trục hiện đại nhất lúc đó. Radar mới cung cấp khả năng giám sát
không đối không ở cự ly 160km, có khả năng lập bản đồ mặt đất độc lập,
cho phép tấn công mục tiêu mặt đất chính xác trong điều kiện thời tiết
. Radar mới phối hợp hỏa tiển không đối không tầm trung AIM-120
AMRAAM và hỏa tiển , không đối đất chiến thuật
AGM-65 Maverick. Máy bay được bổ sung máy tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu
gắn ngoài NAVFLIR AN/AAR-50 cùng với các máy nhìn đêm , tấn công chính
xác vào ban đêm. Bất lợi của thiết kế F/A-18C/D là khối lượng lớn,
buộc máy bay nhận được ít nhiên liệu hơn, do đó, tầm hoạt động giảm đáng
kể , nhưng thiếu các thiết bị làm mát cần thiết. Các biến thể
F/A-18A/B/C/D đã được cung cấp cho 8 quốc gia ngoài Hải quân Mỹ gồm có
Australia, Canada, Phần Lan, Kuwait, Malaysia, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và
Thái Lan.
F/A-18E/F Super Hornet
Đây là biến thể hiện đại hóa sâu rộng của gia đình F/A-18, trong đó
Đây là biến thể hiện đại hóa sâu rộng của gia đình F/A-18, trong đó
F/A-18E là biến thể 1 chỗ ngồi và
F/A-18F là biến thể 2 chỗ ngồi, chính thức phục
vụ từ tháng 12/1998. Thiết kế của Super Hornet chỉ giống nguyên mẫu 42%
với khá nhiều thay đổi về kiểu dáng khí động học, động cơ và hệ thống
điện tử.
Biến thể một chổ ngồi F/A-18E phần cửa hút không khí của động cơ đã được sửa đổi so với biến thể trước đó.
|
Điểm khác biệt lớn nhất của Super Hornet so với các biến thể trước đó là cửa hút không hình hình chữ nhật thay cho hình ovan nhằm đáp ứng lượng không khí lớn hơn cho động cơ mới.
Diện tích cánh của Super Hornet lớn hơn 25% so với các biến thể trước
đó, thân máy bay được kéo dài thêm 860mm cho nhiên liệu và các thiết bị
điện tử mới. Super Hornet trọng tải vũ khí và tầm hoạt động lớn hơn,
động cơ mới mạnh hơn, các hệ thống điện tử mới cung cấp khả năng an toàn
cao hơn. Nhiệm vụ chính của Super Hornet là các phi vụ SEAD/DEAD, yểm
trợ cho phi đội F-15 ném bom các mục tiêu mặt đất. Super Hornet được
trang bị các phương tiện điện tử rất tối tân , trong đó nổi
bật là radar mạng điện tử, radar AESA AN/APG-79. Radar được trang bị
bộ vi xử lý “back-end” cung cấp khả năng không đối không, đối đất, đối
hải cùng lúc. kỹ thuật AESA giúp Super Hornet đối phó hiệu quả với nhiều
mối đe dọa khác nhau trong bất kể ngày đêm. Buồng lái của Super Hornet
được trang bị một màn hình cảm ứng đa chức năng hiển thị các thông tin
chiến thuật, 2 màn hình LCD đơn sắc hiển thị các thông số về nhiên liệu
và động cơ, bản đồ kỹ thuật số, máy nhìn đêm tích hợp.
Biến thể hai chổ ngồi F/A-18F của Không quân Hoàng gia Australia.
|
Máy bay được thêm hệ thống tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu gắn ngoài
AN/ASQ-228, phạm vi hoạt động 48 km từ độ cao 15,2km, hệ thống chiến
tranh điện tử và phòng vệ toàn diện IDECM AN/ALQ-124. Hệ thống IDECM có
khả năng tự động nhận biết các mối đe dọa và đưa ra biện pháp đối phó
thích hợp.
Super Hornet có 11 điểm treo vũ khí có khả năng sử dụng tất cả
các loại vũ khí tối tân nhất trong kho của Hải quân Mỹ. Super Hornet
được trang bị 2 động cơ GE-F414 với solftware điều khiển số. Động cơ
mới có công suất tăng thêm 35% so với động cơ GE-F404, tầm hoạt động của
máy bay tăng thêm 40% so với biến thể C/D. Khả năng mang nhiên liệu
lớn hơn cũng cho phép Super Hornet có thể hoạt động như một máy bay tiếp
nhiên liệu trên không mini. Hiện tại, Super Hornet mới cung cấp cho
Không quân Hoàng gia Australia, một số khách hàng khác như Anh và UAE
cũng đang xem xét lựa chọn Super Hornet cho các chương trình mua sắm của
họ.E/A-18G Growler
Biến thể tác chiến điện tử của Hải quân Mỹ được phát triển trên F/A-18 F Super Hornet. Hình dáng bên ngoài của E/A-18G không có nhiều khác biệt so với F/A-18 F Super Hornet.
Biến thể tác chiến điện tử của Hải quân Mỹ được phát triển trên F/A-18 F Super Hornet. Hình dáng bên ngoài của E/A-18G không có nhiều khác biệt so với F/A-18 F Super Hornet.
Biến thể E/A-18G Growler với các phương tiện tác chiến điện tử chuyên dụng.
|
Growler giống Super
Hornet tới 90% ở thiết kế khung thân, radar AN/APG-79 và các hệ thống
vũ khí. Để nhận biết Growler dựa vào các thiết bị tác chiến điện tử mà
nó mang theo. Trang bị tiêu chuẩn cho E/A-18G Growler gồm có 5 hệ thống gây nhiễu điện tử AN/ALQ-99 cùng với hai hỏa tiển không đối không tầm trung AIM-120 AMRAAM, hoặc 2 hỏa tiển chống radar AGM-88 HARM.
E/A-18G Growler cùng với
E/A-6B Prowler là những máy bay tác chiến điện tử duy nhất trên thế giới.
__._,_.___
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic | Messages in this topic (1) |
No comments:
Post a Comment