CHIẾN LƯỢC GÂY CHIẾN CỦA TRUNG CỘNG
tka23 post
Năm 1962, Trung cộng đã dạy cho Ấn Độ một “bài học” có giá trị đến ngày hôm nay.
Ngày 20 tháng Mười năm 1962, ngay trước
lúc bình minh, Quân đôi Trung cộng bất ngờ xâm chiếm Ấn Độ. Các đơn vị
quân đội mạnh mẽ xung trận liên tục tấn công và vượt qua phần phía
đông và phía tây dãy Hy Mã Lạp Sơn, tiến sâu vào phần đông bắc của đất
nước Ấn độ.
Vào ngày thứ 32 của cuộc chiến tranh,
Bắc Kinh bỗng nhiên thông báo lệnh ngừng bắn đơn phương, và chiến tranh
kết thúc đột ngột như nó đã bắt đầu. Mười ngày sau đó, Trung cộng bắt
đầu rút quân khỏi phần phía Đông của Ấn Độ nằm giữa Bhutan và Miến
Điện,
nhưng giữ lại những vùng lãnh thổ đã chiếm được ở phía tây, khu vực trước đây là một phần của công quốc Jammu và Kashmir. Ấn Độ phải chịu thất bại hoàn toàn và vô cùng nhục nhã, còn uy tín quốc tế của Trung cộng thì tăng lên rõ rệt.
Cuộc xung đột này đã tiết lộ những yếu tố
chính trong chiến lược của Bắc Kinh, do đó nó chính là một bài học. Dưới
đây, chúng ta sẽ xem xét 6 nguyên tắc cơ bản mà Quân Trung cộng đã áp
dụng trong cuộc xâm lược Ấn Độ và chắc chắn là sẽ tiếp tục được sử dụng trong tương lai.
Đột ngột. Trung cộng rất coi trọng yếu tố bất ngờ, tấn
công đối phương một cách bất thình lình. Ý tưởng nằm ở chỗ dành chiến
thắng thật nhanh chóng trên chiến trường để bẻ gãy đối thủ cả về mặt chính trị lẫn tâm lý. Thật vậy, Trung cộng bắt đầu và kết thúc chiến tranh năm 1962 khi Ấn Độ ít mong đợi nhất. TC cũng đã hành động tương tự khi xâm lược Việt Nam vào năm 1979.
Tập trung toàn diện.
Các tướng lĩnh Trung cộng cho rằng, cần phải tấn công nhanh chóng và
mạnh mẽ hết sức . Đó chính là chiến thuật mà họ đã thể hiện qua cuộc
chiến tranh chớp nhoáng đánh Ấn Độ vào năm 1962. Mục tiêu ở đây là buộc
kẻ thù phải “giao chiến với kết cục nhanh”. Tập trung toàn diện vào mục
tiêu là điểm đặc biệt cho tất cả các hoạt động quân sự mà Trung cộng
đã thực hiện kể từ năm 1949.
Tấn công trước.
Bắc Kinh không bao giờ ngần ngại sử dụng vũ lực để giải quyết những vấn
đề chính trị. Ngược lại, Trung cộng đã nhiều lần chứng tỏ rằng họ luôn
sẵn sàng để “dạy một bài học” cho đối phương, nếu như có kẻ dám thách
thức Bắc Kinh trong tương lai. Thủ tướng Chính phủ Trung cộng Chu Ân Lai đã giải thích rằng chiến tranh năm 1962 nhằm mục đích "cho Ấn Độ một bài học ".Đặng
Tiểu Bình, người đầu tiên trong các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc
đến thăm Hoa Kỳ, đã sử dụng ngôn từ tương tự ,trong năm 1979 trong
chuyến thăm Washington, khi tuyên bố với Jimmy Carter, đương kim Tổng thống lúc đó rằng “Việt Nam, cũng như Ấn Độ, cần phải bị trừng trị”.
Chờ đợi. Trung cộng tin rằng phải chờ đợi thời điểm thích hợp. Cuộc chiến tranh 1962 là ví dụ điển hình của chiến thuật này. Vụ tấn công xảy ra đồng thời với cuộc khủng hoảng Caribe, đã đưa thế giới đến sát bên bờ vực của ngày tận thế hạt nhân. Tình hình này làm chuyển hướng sự chú ý của những quốc gia có thể hỗ trợ cho Ấn Độ. Đến khi Hoa Kỳ cho hay về việc đối đầu với Moscow đã chấm dứt, Trung cộng ngay lập tức tuyên bố ngừng bắn đơn phương.
Một cách hành động tương tự đã được sử dụng sau đó. Sau khi Mỹ chuẩn bị rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, Trung cộng đã nhanh chóng chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Năm
1988, khi Việt Nam mất đi sự ủng hộ của Moskow, và cuộc chiến tranh
Afghanistan làm cho Liên Xô từ bỏ niềm đam mê vào các cuộc phiêu lưu
quân sự nước ngoài, Trung cộng liền xâm chiếm rạn đá ngầm Johnson, một
phần của quần đảo Trường Sa. Năm 1995, với thực tế là Philippines không
được bảo vệ, người Mỹ đã buộc phải đóng cửa các căn cứ quân sự ở Vịnh
Subic Bay và các khu vực khác của quần đảo này, Trung cộng dành quyền
kiểm soát rạn san hô Mischif.
Biện minh cho hành động của mình.
Bắc Kinh thích ngụy trang những hành động xâm lược của mình bằng các
mục đích quốc phòng. Cuộc tấn công vào Ấn Độ năm 1962 được Bắc Kinh
chính thức gọi là “phản công để phòng thủ”,
và thuật ngữ này sau đó cũng được sử dụng để biện minh cho cuộc xâm
lược Việt Nam, cũng như cho việc xâm lược các quần đảo Hoàng Sa, rạn san
hô Johnson và rạn đá ngầm Mischif.
Sẵn sàng mạo hiểm.
Những hành động liều lĩnh , từ lâu đã là một phần không tách rời của
chiến lược quân sự Trung cộng. Việc các nhà lãnh đạo Trung cộng , sẵn
sàng cho các hoạt động quân sự là điều hiển nhiên cho tất cả, không chỉ
dưới thời đại của Mao Trạch Đông, thời kỳ đầy dẫy những thay đổi rắc rối
trong chính sách, mà cả khi người rất thực dụng như Đặng Tiểu Bình cũng quyết định xâm lược Việt Nam, bỏ qua khả năng can thiệp từ phía Liên Xô.
Tóm lại "Đánh mạnh rút nhanh" "chiếm đất" "điều đình " là sách lược của Trung cộng
TỔNG HỢP
__._,_.___
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic | Messages in this topic (1) |
No comments:
Post a Comment