Thursday, December 27, 2012

 
Kỹ thuật vô hiệu phòng không của Mỹ
tka23 post
  Với sự phát triển của các hệ thống phòng không trong chiến tranh hiện nay, kỹ thuật vô hiệu  phòng không cũng có những tiến bộ vượt bậc nhằm  làm  " sạch bầu trời " cho lực lượng không quân tác chiến.
Các cuộc chiến tranh gần đây trên thế giới là minh chứng rõ ràng nhất cho ưu thế  tác chiến trên không , trong chiến tranh hiện đại.
   Việc sử dụng các máy bay chiến đấu với nhiều tính năng cao,  mang lại khả năng kỳ diệu cho các quốc gia tấn công: có thể  khai triển lực lượng quân sự, gồm cả phương tiện cơ giới vào chiến trường trong thời gian tính bằng giờ; hoặc  tấn công chính xác các mục tiêu trọng yếu từ tầm xa trong thời gian ngắn hoặc hỗ trợ hữu hiệu cho lục quân từ trên không...
   Theo thời gian, hệ thống phòng không ngày càng phát triển với nhiều chủng loại: các hệ thống phòng không tầm xa, tầm trung, hệ thống phản ứng nhanh tầm gần... với khả năng tiêu diệt mục tiêu trên  không rất  lớn, đặc biệt khi chúng được sử dụng kết hợp với nhau qua mạng lưới truyền  tin.
  Vì lẽ đó, nhiệm vụ quan trọng của  không quân là vô hiệu  các tổ hợp phòng không của đối phương, tạo hành lang an toàn để thực hiện nhiệm vụ tiếp theo , thường được gọi là S/DEAD (Supression/ Destruction of Enemy Air Defense).
Thời kỳ đầu phát triển
Các chiến thuật S/DEAD manh nha hình thành từ Thế chiến thứ hai,  khi các loại máy bay chiến đấu được sử dụng thường xuyên . Thời kỳ đó, hệ thống phòng không trong giai đoạn sơ khai, chủ yếu bằng các loại đại bác , súng máy phòng không ngắm bắn bằng mắt thường nên SEAD/DEAD chưa hình thành rõ rệt,  phụ thuộc vào kỹ năng ném bom rơi tự do của những phi công giỏi.
  Cuộc chiến thật sự giữa máy bay tấn công trên  không và hệ thống phòng không chính thức bắt đầu   trong chiến tranh Việt Nam, giữa các phi công Mỹ và Bắc  Việt Nam (người Mỹ gọi là NVA - North Vietnamese Army). Cuộc chiến khốc liệt giữa hệ thống hỏa tiển  phòng không SAM-2 (S-75 Dvina), máy bay F-105, A-4, A-6  và hỏa tiển  chống ra đa phòng không AGM-45 Shrike - là loại hỏa tiển  diệt radar bị động.
  Khi phát giác  ra sóng ra đa phòng không đối phương, phi công sẽ "khóa" mục tiêu và phóng hỏa tiển . Khoảng cách từ tầm phóng xa nhất (25km) đến mục tiêu (ra đa phòng không) là 50 giây, trong suốt khoảng thời gian đó, để hỏa tiển trúng đích, ra đa phải liên tục phát sóng. Kinh nghiệm thu được từ cuộc chiến đã giúp giới quân sự phát triển nhiều kỹ thuật phòng không và vô hiệu trên  không sau này.

Hỏa tiển chống ra đa AGM-45 Shrike được phóng từ máy bay A-4 Skyhawk.

hỏa tiển SA-2 (S-75 Dvina), của Nga
Kỹ thuật vô hiệu phòng không hiện tại.
Vào tháng 11/2009, không lực hải quân Mỹ chính thức bước được một bước tiến dài,  trong năng lực vô hiệu hoá trên  không: Bộ Quốc phòng Mỹ ký quyết định sản xuất hàng loạt máy bay  điện tử EA-18G Growler. Hiện, không quân hải quân Mỹ đã nhận được 17 máy bay loại này và sẽ nhận tiếp 85 chiếc trong tương lai.

Máy bay  điện tử EA-18G Growler hứa hẹn sẽ đem lại sức  mạnh mới cho khả năng vô hiệu hoá phòng không của hải quân Mỹ 
Mỹ hy vọng, với loại máy bay mới, họ sẽ đối phó được với các chiến thuật mới của hệ thống phòng không hiện nay  là kỹ thuật “tắt” và “kết nối”.
Kỹ thuật S/DEAD tiêu diệt “mềm” (gây nhiễu) hay cứng (chủ động tiêu diệt ra đa) đều kém hiệu quả khi gặp phải chiến thuật “tắt” của trắc thủ ra đa đối phương.

Những radar dẫn bắn chỉ được bật lên trong một thời gian ngắn khi nhận được thông tin về mục tiêu và được tắt đi ngay sau khi hỏa tiển phòng không nhận dạng mục tiêu.

Kỹ thuật này khiến hỏa tiển chống ra đa mất khả năng “khóa” mục tiêu và công kích trượt. Đây không phải kỹ thuật cũ và không phức tạp, nhưng đã phát huy hiệu quả trong chiến tranh Việt Nam, Iraq hay Balkan.Chèn nội dung box vào đây
Ngày nay, các hệ thống phòng không hiện đại được xây dựng dưới dạng mạng lưới. Qua đó, thông tin thu thập được qua ra đa hay trinh sát quang học thông thường đều có thể chia sẻ cho khẩu đội phòng không với tốc độ cao qua mạng lưới datalink. Điều này cho thấy, việc tiêu diệt một vài hệ thống ra đa để đánh quỵ khả năng phòng không của quân địch ngay từ loạt đạn đầu gần như không thể thực hiện. Nhất là hỏa tiển  phòng không có thể được dẫn bắn từ một hay nhiều ra đa đặt cách xa nó.
Sự kết hợp của chiến thuật bật tắt ra đa hợp lý, những hệ thống phòng không được kết nối với nhau sử dụng tín hiệu kép cùng những dàn hỏa tiển phòng không tầm xa cơ động (như S-300 PMU (SA-10 “Grumble”), S-300V (SA-12 Giant)  hay S-400 Triumf (SA-21 Gargoyle)) và chiến thuật “Shoot and scoot” - bắn và chạy đã biến nhiệm vụ S/DEAD thành cơn ác mộng cho các phi công.

Hệ thống hỏa tiển phòng không tầm xa S-300 PMU với tầm bắn xa, độ chính xác cao và sức cơ động lớn là cơn ác mộng của mọi phi công thực hiện nhiệm vụ S/DEAD.
Để đối phó với những khó khăn này, hệ thống AN/ASQ-213 R7 HARM (High speed Anti Radiation Missile - hỏa tiển chống bức xạ tốc độ cao) Targeting System (HTS - Hệ thống định vị mục tiêu cho HARM) có khả năng chống lại chiến thuật “bật - tắt” ra đa bằng cách xác định và ghi nhớ vị trí các dàn ra đa ngay khi chúng được bật và chuyển sang chế độ tác chiến bằng định vị GPS khi mất tín hiệu.
  Loại hỏa tiển được sử dụng chính cho hệ thống AN/ASQ-213 R7 là hỏa tiển AGM-88 HARM. Từ khi được giới thiệu vào thời điểm giữa những năm 1980, AGM-88 đã rất nhiều lần ghi điểm. AGM-88 HARM là loại hỏa tiển chống ra đa hàng đầu thế giới nhưng giá thành lại rất đắt đỏ.

Hỏa tiển diệt radar AGM-88 HARM, mặc dù có hiệu suất khá cao nhưng giá thành của chúng khiến không phải ai cũng chấp nhận được.
Trong chiến dịch “Bão táp sa mạc”,Mỹ đã dùng 500 quả hỏa tiển AGM-88 HARM (chiếm 1/10 tổng số được trang bị). Với giá thành lên tới 200.000 USD/quả; chiến thuật này nhanh chóng vét sạch kho dự trữ hỏa tiển. Do đó, trong tương lai, nó sẽ được thay thế bằng chiến thuật khác hiệu quả hơn.
  Khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc là tiền đề không thể thiếu để các nhiệm vụ vô hiệu phòng không ngày càng chính xác và hiệu quả hơn. Trong tương lai, người ta không phải mạo hiểm mạng sống phi công cho những nhiệm vụ nguy hiểm này.
Tính chính xác là ưu tiên hàng đầu
Một trong những điểm yếu của thiết kế hỏa tiển AGM-88 ở chỗ: một khi ra đa đối phương tắt tín hiệu và hỏa tiển  không phát giác được ra đa và trở nên mất  kiểm soát, biến thành thành nguy cơ lớn cho bất kỳ mục tiêu nào dưới mặt đất không phân biệt địch, ta hay dân thường.        
   Trong chiến dịch không kích của quân đồng minh vào Nam Tư năm 1999, một hỏa tiển AGM-88 HARM đã mất mục tiêu và đánh trúng vào một ngôi nhà tại Sofia, Bulgaria cách đó 80 km. Sau sự kiện đó, nhà sản xuất loại hỏa tiển này đã phát triển một loại  mới có tên HDAM (HARM Destruction of Enemy Air Defence Attack Module - Loạihình  phá hoại tấn công phòng không của đối phương dành cho hỏa tiển  chống bức xạ tốc độ cao).

Thông số kỹ thuật hỏa tiển AGM-88 HARM và cấu tạo chi tiết của hệ thống dẫn đường HDAM.
“Trái tim” của loại hình  này chính là hệ thống định vị GPS tích hợp , giúp hỏa tiển không phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn phát sóng của ra đa để định vị mục tiêu. Nó giúp AGM-88 đối phó được với chiến thuật bật/tắt ra đa thường thấy và không gây nguy hại cho những vùng xung quanh. Kể từ khi phát triển, AGM-88 HARM được nâng cấp qua rất nhiều phiên bản như AGM-88 bản A,B nâng cấp đầu dò nhạy hơn, AGM-88C được thêm chức năng chống nhiễu và mới nhất là phiên bản AGM-88E AARGM, được trang bị cả đầu dò bị động và chủ động, hoạt động trên dải sóng milimét. Loại hỏa tiển diệt radar mới nhất này đã  được trang bị trong không quân Mỹ từ tháng 11/2010.
hỏa tiểnALARM
Ngoài AGM-88 HARM, trong chiến dịch “Bão táp sa mạc” tại Iraq, NATO còn sử dụng một loại hỏa tiển diệt ra đa khác là ALARM. Trên chiến trường, ALARM thường được trang bị cho các máy bay Panavia Tornado. Tuy nhiên, Tornado chỉ mang ALARM khi thực hiện nhiệm vụ hỗn hợp, chứ không chuyên biệt như máy bay EA-18G Growler của Mỹ.

Máy bay chiến đấu Panavia Tornado trang bị hỏa tiển diệt radar ALARM.
Hỗ trợ cùng các loại vũ khí trên là những thiết bị trinh sát hiện đại như bộ thu sóng AN/ALQ-218 trang bị trên máy bay EA-18G Growler có khả năng nhận biết, thu thập và phân tích các loại sóng radar ở các bước sóng khác nhau, từ đó đưa ra phương án gây nhiễu thích hợp. Với khả năng phân tích và gây nhiễu rất nhiều băng tần, sự kết hợp của bộ thu sóng AN/ALQ-218, bộ gây nhiễu sóng ra đa AN/ALQ-99, thiết bị phá sóng liên lạc Raytheon ALQ-227(V)1, cùng hệ thống thông tin liên lạc INCANS cho phép phi công có thể  liên lạc trong tình trạng môi trường xung quanh bị nhiễu nặng, khiến phi cơ này trở thành bá chủ trong nhiệm vụ phá rối điện tử, nhiệm vụ quan trọng bậc nhất trong chiến tranh công nghệ cao ngày nay.

Trang bị tiêu chuẩn của máy bay phá rối  điện tử EA-18G Growler với các thiết bị thu phát, gây nhiễu sóng radar, thiết bị liên lạc hiện đại cùng hỏa tiển không đối không AIM-120C và tên lửa diệt radar AGM-88.

Máy bay  không người lái
Hiện tại, nhiệm vụ S/DEAD thuộc về máy bay có người lái. Tuy nhiên, vì tính chất đặc biệt nguy hiểm, các loại máy bay vô hiêu hoá phòng không là mục tiêu số một của các phòng không và không quân đối phương. Vì vậy, ý tưởng sử dụng phương tiện bay tác chiến không người lái UAV/UCAV ngày càng được để mắt tới. Chiến thuật này đã được thử nghiệm trong các cuộc chiến nhỏ, đối phó với những hệ thống phòng không yếu cả về phẩm chất  và số lượng như chiến dịch “Hòa bình cho Galile” của Israel chống lại Lebanon năm 1982 và lực lượng hỗn hợp Mỹ sử dụng trong chiến dịch “Bão táp sa mạc”.
Loại UAV sử dụng trong chiến dịch “Hòa bình cho Galile” có tên Harpy, do Israel sản xuất; có cấu tạo cánh tam giác (delta), có khả năng bay liên tục hai giờ và tầm hoạt động 500 km. Được trang bị đầu dò sóng ra đa bị động, có thể lần theo đài phát ra đa đối phương và lao thẳng vào phá hủy chúng với lượng thuốc nổ 32 kg mang theo trong thân. Hiện, Harpy trở lên khá lỗi thời và đã được Israel xuất cảng  rộng rãi sang Trung cộng, Ấn Độ và Hàn Quốc.

Máy bay không người lái (UAV) Harpy trang bị trong quân đội Hàn Quốc do Israel sản xuất, có tầm hoạt động 500 km và thời gian bay hai giờ liên tục.
Tương tự, quân đội Mỹ cũng sử dụng UCAV (UAV mang vũ khí) MQ-9 Reaper để chống lại các mục tiêu tại Afghanistan, trong đó có sử dụng hạn chế trong các nhiệm vụ S/DEAD.

UCAV MQ-9 Reaper và kho vũ khí của nó (bốn hỏa tiển Hellfire và hai bom thông minh).
UAVs cũng được sử dụng rộng rãi để thu thập các thông tin tình báo phục vụ cho các nhiệm vụ S/DEAD. Những thông tin tình báo điện tử (ELINT-Electronic Intelligent) bao gồm tính năng, số lượng của ra đa cũng như thói quen hoạt động của trắc thủ. Trong tương lai, UAV sẽ được chuyên biệt hóa để thực hiện cả các nhiệm vụ ELINT và S/DEAD. Để phục vụ mục tiêu này, cả châu Âu và Mỹ đã đầu tư hàng tỷ USD vào những chương trình phát triển UAV/UCAV hiện đại. Trong đó, có gói thầu 1,1 tỷ USD của không quân Đức nhằm mua 5 UCAV Eurohawk. Thiết bị này có thể tuần tiễu quanh mục tiêu trong suốt 35 giờ liên tục và trang bị các loại hỏa tiển đối đất như Hellfire, Brimstone để tiêu diệt chúng.

UAV loại Eurohawk của Đức. Trong tương lai, nó sẽ đảm nhận cả nhiệm vụ trinh sát và tác chiến đường không.
Trong cuộc tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc trên thế giới, những cuộc không  kích  mang lại thành công lớn, vì thế những chiến thuật vô hiệu  phòng không luôn được tập luyện, cải tiến ở các cường quốc giàu kinh nghiệm và tìm mọi cách học tập ở những cường quốc mới, ít kinh nghiệm hơn, nhưng không kém tham vọng giành ngôi bá chủ.
An Thái
 
__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)

No comments:

Post a Comment