AI THẮNG ? AI THUA ?
Trần Trung Chính
Bàn
luận về sắc đẹp của phụ nữ, chúng ta thường được nghe những mại viên
của ngành costemic cũng như các chuyên viên trang điểm cho phụ nữ cho
rằng :“ Không có phụ nữ nào xấu cả, chỉ có những người chưa được đẹp vì họ chưa biết trang điểm”.
Phản
bác một phần của nhận định này , cá nhân người viết bài này cho rằng : “
thực tế có một số phụ nữ thật sự xấu không phải vì họ không biết trang
điểm mà là vì họ đã trang điểm nhiều rồi mà nhan sắc của họ vẫn chưa thể
đẹp lên được chút nào cả. Thí dụ : Thị Nở -girl friend của Chí Phèo
trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao hay hoặc Chị Doãn được nhà văn Vũ
Trọng Phụng mô tả “ Chị Doãn có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp giai”.
Ông
bạn thân của tôi – nhà văn Trần Văn Giang – còn chua chát hơn khi cho
rằng : “ thực tế có một số phụ nữ thật sự xấu nhưng vẫn chưa chịu nhìn
nhận là mình xấu !!!”
Thời
gian gần đây, nhà báo Huy Đức đã phóng lên mạng phổ biến quyển sách với
tựa đề BÊN THẮNG CUỘC và “phe ta” đã lên tiếng đáp trả khá sôi động.
Tôi viết bài viết này để chứng minh BÊN THẮNG CUỘC không phải là phía
Việt Cộng mà nhà báo Huy Đức được các “bề trên “ của ông ủy thác tâm sự
hay nhà báo Huy Đức ghi nhận các sự kiện theo cách riêng của ông. Cũng
như các phụ nữ thật sự xấu nhưng vẫn chưa chịu nhìn nhận mình là xấu,
Việt Cộng chưa bao giờ nhìn nhận họ là BÊN THUA CUỘC. Sử Ký là ghi lại
những sự kiện (facts), không ai có quyền và không ai có tư cách để sửa
đổi sự kiện lịch sử, nhưng những thông tin tôi đưa vào bài viết này là
những facts mà không thấy “phe ta” nêu ra trên diễn đàn, và tôi tin chắc
rằng phía Việt Cộng sẽ thay đổi ý kiến (opinion) hoặc im lặng để ngậm
ngùi cho thân phận “con ếch mà cứ muốn to bằng con bò”.
1.-
Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953 , khi Thống Tướng Mac Arthur chỉ huy
280,000 quân Liên Hiệp Quốc (trong đó có 250,000 binh sĩ Hoa Kỳ) đổ bộ
Inchon bắt được hơn 130,000 quân Bắc Hàn và đẩy lui quân Bắc Hàn đến tận
sông Áp Lục, Mao Trạch Đông chỉ thị nguyên soái Bành Đức Hoài chỉ huy 1
triệu chí nguyên quân Trung Hoa tràn sang Triều Tiên đẩy lùi quân Liên
Hiệp Quốc xuống vĩ tuyên 38. Thống Tướng Mac Arthur trình kế hoạch tấn
công Trung Cộng vào sâu trong lục địa, Tổng Thống Harry Truman biết kế
hoạch của tướng Mac Arthur chỉ đúng về mặt quân sự, ông cất chức tướng
Mac Arthur triệu hồi về Mỹ và bổ nhiệm tướng Ridgway lên thay vì ông
không muốn sa lầy vào chiến trường Triều Tiên (kinh nghiệm 1 triệu quân
Quan Đông của Nhật Bản rải vào Trung Hoa chả thấm vào đâu mà chỉ giữ
được một số tỉnh ven biển) và khi sa lầy ở Trung Hoa thì Hoa Kỳ sẽ mất
Âu Châu vào tay Staline. Cù cưa mà chả bên nào lấn chiếm thêm được nữa
nên Hiệp Định ngưng chiến Bàn Môn Điếm ra đời. Cả 2 nước Nam – Bắc Triều
Tiên khi ngưng bắn vào năm 1953 vẫn còn trong tình trạng chiến tranh
cho đến tận bây giờ (2012). Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai cũng như Đảng
Cộng Sản Trung Hoa cảm thấy thất vọng vì Hoa Kỳ vẫn không công nhận Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Và cũng không thèm đối thoại với các lãnh tụ
Trung Cộng trên bình diện ngoại giao chính thống.
2.-
Chiến tranh Việt Pháp từ năm 1946 đến 1954 đưa Trung Cộng đến Hội Nghị
Geneve , nhưng Trung Cộng vẫn không tiến triển thêm được bước nào trong
mục tiêu được Hoa Kỳ công nhận.. Tháng 5/1972 khi Tổng Thống Richard
Nixon đếnBắc Kinh, chính Thủ Tướng Chu Ân Lai tiết lộ chi tiết bị người
Mỹ coi thường vào năm 1954 ở Hội Nghị Geneve : Chu Ân Lai lúc đó là Thủ
Tướng kiêm Ngoai Trưởng của Trung Cộng đến phòng họp trước Ngoại Trưởng
Dulles của Hoa Kỳ, khi Dulles đến, Chu Ân Lai tươi cười dơ tay trước.
Ngoại Trưởng Dulles mặt nghiêm bước vào phòng họp mà không bắt tay Chu
Ân Lai, khi đi ngang Chu Ân Lai ông này quay mặt nhìn ngang sang Chu Ân
Lai rồi bước vào phòng họp nói chuyện với Ngoại Trưởng Liên Sô là
Molotov và Ngoại Trưởng Anh là Sir Anthony Eden : Chu Ân Lai thừa hiểu
là Dulles coi Trung Cộng là tay sai của Liên Sô nên Dulles chỉ nói
chuyên với boss của Chu Ân Lai là Molotov . 10 năm sau, Tổng Thống Pháp
là tướng Charles De Gaulle vì kèn cựa với Hoa Kỳ nên năm nào cũng đề
nghị cho Trung Cộng gia nhập Liên Hiệp Quốc (với sự đồng thuận và hỗ trợ
của Liên Sô) nhưng Hoa Kỳ vẫn nói KHÔNG. Và Trung Cộng cũng đành bó tay
không có cách nào khác.
3.-
Chiến tranh Việt Nam từ năm 1965 (tôi lấy thời điểm này làm mốc vì quân
đội Hoa Kỳ chính thức vào Việt Nam qua văn thư yêu cầu của Thủ Tướng
Phan Huy Quát) đã khiến Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn Hội Đồng An
Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger đến Bắc Kinh. Mao Trạch Đông ,
Chu Ân Lai và Đảng Cộng Sản Trung Hoa vui mừng “không còn chỗ nói”, vì
qua bản thông cáo Thượng Hải 1972 Trung Cộng đạt được 3 mục tiêu chiến
lược :
A
) Được Hoa Kỳ thừa nhận là một “thực thể quốc gia” (trước đó Hoa Kỳ chỉ
coi chính quyền Trung Cộng là một “thực tế” ) cho nên sẽ có thiết lập
bang giao với sứ thần đàng hoàng chứ không còn nhờ một quốc gia khác đại
diện bảo vệ quyền lợi .
B
) Hoa Kỳ đồng ý cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gia nhập Liên Hiệp Quốc
thay thế cho Trung Hoa Dân Quốc, có quyền phủ quyết như trong Hiến
Chương San Francisco quy định (mục tiêu này mãi tới 21 năm kể từ 1949,
Trung Cộng mới đạt được ) .
C
) Hoa Kỳ công nhận chỉ có một nước Trung Hoa duy nhất ( nhiều người
tưởng là Hoa Kỳ ngu dại khi công nhận điều khoản này, trong khi Hoa Kỳ
thừa biết là Trung Cộng muốn tiến đánh Đài Loan bằng vũ lực thì phải có
một hải lực cực mạnh, mặt khác vì Tổng Thống Tưởng Giới Thạch dù thực tế
chỉ giữ được Đài Loan nhưng ông vẫn có một Quốc Hội đại diện cho 18
tỉnh của Trung Hoa Lục Địa và ông cho rằng chiếc ghế của Trung Hoa Dân
Quốc đại diện cho nước Trung Hoa. – [nên nhớ rằng năm 1943, khi họp tại
Yalta, các lãnh tụ phe Đồng Minh bàn định về kế hoạch chấm dứt Thế Chiến
II và tương lai của thế giới sau khi chiến tranh chấm dứt, 4 lãnh tụ đó
là : Tổng Thống Roosevelt của Hoa Kỳ , Thủ Tướng Churchil của Anh Quốc,
Chủ Tịch Staline của Liên Sô và Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung
Hoa , nước Pháp không có đại diện vì không được mời họp ] ) Khi Tổng
Thống Lý Đăng Huy của Quốc Dân Đảng là người Đài Loan lên cầm quyền, thì
thế hệ của Tưởng Giới Thạch – Tưởng Kinh Quốc đã qua đời, nếu Trung
Cộng tiến đánh Đài Loan bằng vũ lực thì danh hiệu Trung Hoa Dân Quốc sẽ
không còn và sẽ trở thành Cộng Hòa Đài Loan đồng thời Cộng Hòa Đài Loan
sẽ chính thức xin gia nhập Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ sẽ can thiệp vì
Trung Cộng đã xâm lăng một quốc gia khác) .
Tuy
tự công nhận là BÊN CHIẾN THẮNG trong chiến tranh Việt Nam, nhưng Trung
Cộng không ồn ào khoe rùm beng như phía Việt Cộng vì cả Mao Trạch Dông
và Chu Ân Lai đều hiểu rằng 2 kẻ chơi cờ đấu trí với nhau trên bàn cờ
thế giới lúc bấy giờ là Hoa Kỳ và Liên Sô. Việc Hoa Kỳ không phải tự
nhiên ban cho Trung Cộng nhiều đặc ân mà chính là Hoa Kỳ đã sử dụng
Trung Cộng như một con cờ nhằm “chiếu bí” Liên Sô và Mao Trạch Đông
+ Chu Ân Lai chấp nhận vai trò ấy trong tinh thần “đôi bên cùng có lợi”.
Phía
Việt Cộng do các đàn anh “phỉnh gạt” và cũng hay “nổ bậy để dương oai”
để lòe và lường gạt dân Việt nên lúc nào cũng rêu rao là “ Cách Mạng
Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” (khi xưa, thất bại
thì hô lên do Mỹ - Ngụyphá hoại , bây giờ thì nói bâng quơ là do “thế
lực thù địch” không dám nêu đích danh quốc gia hay chính phủ nào cả ).
Tôi liệt kê vào bài viết này những mất mát và thua thiệt của Việt Cộng
để chứng minh rằng Việt Cộng chỉ là những kẻ THUA CUỘC trên bàn cờ thế
giới. Dĩ nhiên phía Việt Cộng (trong đó có nhà báo Huy Đức) và cả “phe
ta” đều thắc mắc là chính phủ VNCH sụp đổ , quân nhân cán bộ và viên
chức chính quyền VNCH bị cầm tù đày đọa trong nhiều năm trời (trong đó
có cá nhân người viết bài này cũng bị cầm tù 8 năm), dân chúng của miền
Nam bị kỳ thị, bị xua đuổi ra khỏi thành phố và phải vượt thoát khỏi sự
cai trị hà khắc của Việt Cộng…thì không phải là PHÍA THUA CUỘC thì là
phía gì ?
Việt
Nam Cộng Hòa (bao gồm chính phủ và nhân dân VNCH) không phải là phía
“play game” trong chiến tranh Việt Nam 1954 – 1975, chúng ta bị buộc
phải tham chiến để bảo vệ lãnh thổ và sinh mạng người dân như Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trước lưỡng viện Quốc Hội VNCH khi ông từ
chối bước vào hòa đàm Paris năm 1968 dưới thời Tổng Thống Lyndon Johnson
: “chúng ta thà rằng chết bây giờ để hy vọng rằng con cháu chúng ta được sống…”.
Ba cuộc tấn công lớn trong những năm 1968 Tết Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa
trong năm 1972, cũng như cuộc Tổng Tấn Công vào đầu năm 1975 đều hoàn
toàn do Bắc Việt chủ trương với sự yểm trợ tối đa về vũ khí của khối
Cộng. Và biến cố 30 tháng 4 năm 1975 xảy ra vì Hoa Kỳ không muốn play
game nữa, trong khi quân dân VNCH đã chiến đấu tận tình trong khả năng
và ý chí của mình.
Những
ai trách móc Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và
Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm …phải có trách nhiệm để làm mất VNCH là nói
bậy, ăn theo bả tuyên truyền của Việt Cộng : vì muốn đem lại hòa bình
thật sự cho toàn cõi Việt Nam, thì phải tiêu diệt kẻ đi xâm lược là Bắc
Việt, các vị lãnh đạo VNCH không ai có khả năng tiêu diệt Việt Cộng (tức
là đánh gục Bắc Việt) cho nên tôi rất thương cảm các vị lãnh đạo của
VNCH. Người lãnh đạo giỏi thì chông cự quân xâm lăng được lâu, người
lãnh đạo dở thì chống cư với thời gian ngắn hơn. Đối với tôi,khi gặp
những kẻ chê trách các vị lãnh đạo VNCH, tôi chỉ hỏi cá nhân hay phe
nhóm của những kẻ đó hãy kể cho tôi nghe những nỗ lực giữ nước của họ,
thì những kẻ này bỏ đi vì họ và phe nhóm của họ NOTHING TO DO (ấy là
chưa kể họ và phe nhóm của họ dấu diếm và chứa chấp Việt Cộng trong nhà
như là một hình thức “đâm sau lưng chiến sĩ” ).
Sự thua thiệt thứ nhất :
Hồ chí Minh cướp chính quyền trong tay của chính phủ Trần Trọng Kim,
tuyên bố độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 nhưng không có một cường
quốc nào công nhận cả ( kể cả Liên Sô là nước khai sinh ra chế độ Cộng
Sản). Hồ chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam khoác lác tuyên truyền và
sửa lịch sử rằng họ cướp chính quyền từ tay thực dân Pháp trong khi thực
tế cho thấy rằng khi quân đội Nhật đảo chính quân Pháp tại Đông Dương
vào tháng 3 năm 1945 thì tất cả viên chính hành chánh và quân đội Pháp
đều bị bắt giam hết cả : thực dân Pháp đâu còn nắm chính quyền nữa thì
lấy đâu ra chính quyền trong tay thực dân Pháp để cho Hồ chí Minh và
Đảng Cộng Sản Việt Nam cướp !!!
Đối
với Anh Mỹ , qua cơ quan OSS và tài liệu của Sở Liêm Phóng Đông Dương,
họ biết Hồ chí Minh là một tên Cộng Sản đệ tam quốc tế. Còn Staline thì
cho rằng Hồ chí Minh là tay sai của Mao Trạch Đông nên Liên Sô không ủng
hộ ( Staline nhận định quá chính xác vì quả thực Hồ chí Minh là tay sai
của Mao Trạch Đông mặc dù mồm miệng vẫn ca tụng Staline ) . Vả lại hội
nghị Postdam xảy ra ngay sau khi Hitler tự sát và nước Đức Quốc Xã đầu
hàng vào tháng 5/1945 đã phân định trách nhiệm và địa phận của các nước
thắng trận trước khi nước Nhật đầu hàng vào tháng 8/1945.
Vì
Việt Nam không được các cường quốc công nhận sự độc lập vừa mới tự xưng
nên khi quân đội Trung Hoa của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch (do tướng Lư
Hán chỉ huy ) vào Việt Nam giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở
ra và quân đội Anh (do tướng Gracey chỉ huy) vào Việt Nam giải giới quân
đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào thì Hồ chí Minh không dám đưa ra bất kỳ
lời phản đối nào. Tướng Charles de Gaulle – thủ lãnh của nước Pháp Tự
Do – vận động riêng với Thủ Tướng Churchill của Anh cho phép quân Pháp
theo chân quân Anh vào Sài Gòn (quân Pháp do tướng Lecler chỉ huy). Tôi
không thấy Hồ chí Minh và Bộ Ngoại Giao của nước VNDCCH đưa ra được một
công hàm ngoại giao nào để lên tiếng phản đối về sự can thiệp của các
lực lượng ngoại nhập vào công việc nội bộ của một nước độc lập tự chủ ?
Như vậy chứng tỏ Hồ chí Minh và chính quyền của nước VNDCCH không hề có
một thể diện nào trên chính trường thế giới. Khi quân đội Anh làm xong
nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật, tướng Gracey rút quân Anh ra khỏi Việt
Nam thì quân đội Pháp do tướng Lecler chỉ huy vẫn ở lại miền Nam, thì
chiến tranh Việt – Pháp là điều không thể tránh được.
Sự thua thiệt thứ hai :
năm 1949, sau khi đuổi được phe Quốc Dân Đảng phải chạy ra Đài Loan,
Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản Trung Hoa tiến chiếm toàn bộ Trung Hoa
Lục Địa, Trung Cộng liền viện trợ ồ ạt cho binh đội của Việt Minh. Năm
1950, Tướng Võ Nguyên Giáp đã đủ sức mở các cuộc tấn công quân đội Pháp
dọc theo biên giới Hoa – Việt : quân khu Lạng Sơn của Pháp bị thất thủ
rơi vào tay quân đội Việt Minh và chính phủ Pháp phải đưa Thống Tướng De
Lattre Tassigni làm Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương
đồng thời tăng cường thêm viện binh như Thống Tướng De Lattre yêu
cầu (không kể lính tráng người Việt Nam, quân số quân đội viễn chinh
Pháp dưới thời Thống Tướng De Lattre chỉ huy lên tới 220,000 người).
Là
một tướng giỏi, Thống Tướng De Lattre đã đẩy lui quân đội Việt Minh
trên nhiều mặt trận kể cả trận Hòa Bình, người con trai duy nhất của ông
là Trung Úy Bernard De Lattre bị tử thương tại trận này. Nhưng ông biết
rằng nước Pháp không đủ sức để đối đầu với Trung Hoa vĩ đại , nên sau
khi biết Đại Tướng Eisenhower đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1952 –
1956, ông sang Hoa Kỳ vận động tân Tổng Thống Eisenhower trợ giúp nước
Pháp. Về mặt cầu viện Hoa Kỳ, chính phủ Pháp đã tỏ ra là một chính phủ
lãnh đạo kém : Ngoại Trưởng hay Thủ Tướng Chính Phủ sao không đi Hoa Kỳ
làm công việc ngoại giao mà phải để một ông tướng đương nhiệmTư Lệnh
chiến trường Đông Dương phải đi Washington D.C. trong lúc chiến trường
đang trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng cần sự có mặt liên tục của Thống
Tướng De Lattre ? Phải chăng chính phủ Pháp lợi dụng sự thân tình giữa
Đại Tướng Eisenhower và Thống Tướng De Lattre trong thời gian Đại Tướng
Eisenhower làm Tổng Tư Lệnh quân đội Đồng Minh đánh lại quân của Hitler
và Mussolini hồi trước năm 1945 ? Điều đó không sai khi Hoa Kỳ đồng ý
viện trợ vũ khi, quân trang, quân dụng cho quân đội Pháp tại chiến
trường Đông Dương.
Tổng
Thống Eisenhower gợi ý là nước Pháp nên trao trả độc lập cho Việt Nam
(dĩ nhiên trao cho người quốc gia chứ không phải trao cho cán bộ Cộng
Sản như Hồ chí Minh) và quân đội Pháp – do sự yêu cầu của chính quyền
độc lập tự chủ chiến đấu tại chiến trường Đông Dương để ngăn chặn Cộng
Sản như Hoa Kỳ đã làm tại chiến trường Cao Ly hồi 1950 – 1953. Thống
Tướng De Lattre ghi nhận ý kiến của Tổng Thống Eisenhower, ông cũng cho
Tổng Thống Mỹ biết là ông không có ảnh hưởng gì nhiều đến chính trường
Pháp, tuy nhiên ông hứa là ông sẽ vận động trong chính giới Pháp. Từ Hoa
Kỳ, Thống Tướng De Lattre trở lại Đông Dương ngay, và chỉ một thời gian
sau đó ông phải trở về Pháp để chữa bệnh ung thư rồi chết tại Pháp mà
chưa có kịp vận động hay thuyết phục chính giới Pháp gì hết !!!
Với
các thông tin này, chúng ta thấy rằng nếu Hồ chí Minh là người quốc gia
thì nước Việt Nam của chúng ta đã được Hoa Kỳ - Anh – Pháp ủng hộ từ
lâu và sẽ không có chiến tranh, đổ vỡ, tan nát và chia rẽ như hiện nay :
các nước Đông Nam Á cựu thuộc địa như Indonesia, Malaysia, Philippines
…vì không có Cộng Sản nên được trao trả độc lập, an hưởng thái bình và
xây dựng quốc gia phú cường. Do đó Đảng Cộng Sản Việt Nam và các đảng
viên Việt Cộng lúc nào cũng lớn lối về lòng tự hào “đánh thắng nhiều tên
đế quốc” mà không bao giờ tự hỏi “đánh thắng để được cái gì ” chứ ?
( Có lẽ để đạt danh hiệu “anh hùng Xã
Hội Chủ Nghĩa” hão huyền chăng, ký giả Huy Đức là người trưởng thành
trong XHCN có thể giải thích hiện tượng “thích làm anh hùng” để người
Việt tỵ nạn Cộng Sản hiểu thêm về con người Cộng Sản !!!”
Sự thua thiệt thứ ba : khi
cầm tù được tướng De Castries và khoảng hơn 10.000 binh sĩ Pháp tại
thung lũng Điện Biên Phủ, Đảng Cộng Sản Việt Nam tự ca lên rằng đã đánh
gục và đuổi được Đế Quốc Pháp để dành được độc lập cho Việt Nam. Tôi nói
quân đội Việt Minh cầm tù được tướng De Castries vì trong bức điện cuối
cùng gửi cho Bộ Tư Lênh Quân Đội Pháp đóng tại Hà Nội, tướng Castries
cho hay ông đã ra lệnh cho toàn thể binh sĩ dưới quyền trú đóng tại cứ
điểm Điện Biên Phủ “ngưng chiến đấu” . 2 bức hình – do phía Việt Cộng
chụp – đã minh chứng điều này : một bức hình chụp từ phía sau một cán
binh Việt Cộng cho thấy anh này đang cầm cờ trắng chạy lên cắm tại nóc
hầm chỉ huy của tướng De Castries chớ tướng De Castries không có cắm cờ
trắng trên hầm chỉ huy của ông. Bức hình thứ hai chụp tướng De Castries
từ trong hầm chỉ huy bước ra, ông không có dơ 2 tay lên cao khỏi đỉnh
đầu thì sao Việt Cộng dám bảo là tướng De Castries đầu hàng ?
Chiến
thắng Điện Biên Phủ của Việt Minh không phải là chiến thắng trọn vẹn vì
sự sụp đổ của căn cứ Điện Biện Phủ chỉ đánh sập được ý chí chiến đấu
của chính phủ Pháp và nhân dân Pháp chứ quân đội Pháp tại chiến trường
Đông Dương vẫn giữ vững được các cứ điểm trọng yếu khác. Nhà báo Huy Đức
cũng như các “bề trên” trong Đảng Cộng Sản Việt Nam chắc chắn không
biết câu châm ngôn danh tiếng của binh đoàn Lê Dương : “nước Pháp không hỏi bạn từ đâu đến, thì bạn cũng đừng bao giờ hỏi nước Pháp sẽ đưa bạn đi đâu”.
Một người chú họ xa của tôi, sau năm 1975, vào Sài Gòn có kể một câu
chuyện về tính liêm sỉ của một người Đức – nguyên là lính SS của chế độ
Quốc Xã sau năm 1945 tình nguyện vào binh đoàn Lê Dương – người lính Lê
Dương này dù quân số ít hơn vẫn không chịu đầu hàng, sau cùng bị thương
nặng ngất xỉu thì bị bắt làm tù binh. Sau khi được cứu chữa tỉnh dây, sĩ
quan quân báo của Việt Minh đến hỏi lý do tại sao không đầu hàng để
được sống, người lính Lê Dương gốc Đức này trả lời khiến mọi người ngạc
nhiên : “ tình nguyện vào binh đoàn Lê Dương tức là lính đánh thuê,
tao mà đầu hàng thì về sau ai mà thuê người Đức làm lính đánh thuê nữa”.
Việt
Cộng và Trung Cộng thì chê tướng Navarre (cha đẻ ra cứ điểm Điện Biên
Phủ) là dở vì 16,000 quân Pháp nằm dưới thung lũng sẽ ăn đạn pháo mà
chếtkhông thể phản pháo được. Khi thiết lập căn cứ Điện Biên Phủ, tướng
Navarre biết điều đó nhưng đây là chiến thuật “cục đường nhử đàn kiến”,
16,000 quân của Đại Tá De Castries nằm dưới thung lũng Điện Biên Phủ đã
quyến rũ được 40,000 quân Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp (không kể
số dân quân đi tải vật liệu và trnag cụ vũ khí). Quân của tướng Võ
Nguyên Giáp sẽ bị tiêu diệt bởi lực lượng Không Quân Chiến Lược của …Hoa
Kỳ (vì không lưc của Pháp tại Đông Dương yếu lằm) . Khi căn cứ Điện
Biên Phủ vừa bị tấn công, quân đội Pháp tại Đông Dương trông chờ tiếp
cứu từ Không Lực Hoa Kỳ nhưng vì chính phủ Pháp vẫn còn đầu óc thực dân
không chịu trao trả độc lập cho người quốc gia Việt Nam nên chính phủ
Hoa Kỳ không muốn ủng hộ Đế Quốc Pháp để duy trì tình trạng thuộc địa
tại Đông Dương.
Các
hồ sơ được giải mật sau này cho thấy là Tổng Thống Eisenhower đã nói
với đại diện chính phủ Pháp là Hoa Kỳ sẽ tham chiến nếu đồng minh Anh
Quốc cũng đồng ý như vậy, trong khi đó Thủ Tướng Churchill trả lời với
Thủ Tướng Daladier là : “nước Anh đã trao trả độc lập cho thuộc địa Ấn
Độ từ năm 1947, thì không có lý do gì lại đi giúp nước Pháp để duy trì
thuộc địa tại Đông Dương” . Như vậy sự sụp đổ của cứ điểm Điện Biên Phủ
là do chính phủ Pháp chứ không phải do tướng lãnh và quân đội Pháp. Sau
khi căn cứ Điện Biên Phủ sụp đổ, Thủ Tướng Daladier từ chức và chính
khách Mendes France lên thay thế với khẩu hiệu “phải ký cho được một
thỏa ước ngưng chiến với Việt Minh trong tháng 7/1954, nếu không được,
chính phủ của tôi sẽ ra đi”.
Sự thua thiệt thứ tư :
Tình hình căn cứ Điện Biên Phủ sắp tới hồi kết thúc, thì Thủ Tướng Bửu
Lộc của chính phủ Quốc Gia Việt Nam từ chức, ông Ngô Đình Diệm lên thay
thế. Tại hội nghị Geneve 1954, trưởng phái đoàn của chính phủ Quốc Gia
Việt Nam lúc bấy giờ là luật sư Nguyễn Quốc Định được thay thế bởi ngoại
trưởng Trần Văn Đỗ ( bác sĩ Trần Văn Đỗ là em trai của Luật Sư Trần Văn
Chương, là chú ruột của bà Ngô Đình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân). Khi mới
sang Geneve, ông Phạm Văn Đồng có hỏi ngoại trưởng Trần Văn Đỗ là có
nhận chỉ thị gì của chính phủ Sài Gòn về việc chia cắt đất nước Việt Nam
hay không ? Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ trả lời là ông không có chỉ thị
nào về việc này và cũng không nghe dư luận bên ngoài chính phủ bàn tán
gì về việc chia cắt đất nước.
Thời
gian sau đó, ngoại trưởng Trần Văn Đỗ mới biết là các đại cường đồng ý
với việc chia cắt Việt Nam ra làm 2 , chỉ còn bàn cãi là cắt ở đoạn nào
mà thôi. Phía Việt Cộng muốn lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới ( tức là toàn
thể tỉnh Thừa Thiên tới sát Đèo Hải Vân), phía Pháp muốn lấy vĩ tuyến
17 làm ranh giới hoặc nếu Việt Minh muốn lấy tới vĩ tuyến 16 thì phải
nhường hành lang Bùi Chu – Phát Diệm – Nam Định cho Pháp. Molotov cho
Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng hay rằng Liên Sô có kinh nghiệm cay đắng về
hành lang Tây Đức nối với Tây Bá Linh nên phía Liên Sô cảnh báo là không
nên nhận giải pháp này vì “lợi bất cập hại”. Phía Mỹ thì
không có ý kiến vì phái đoàn Mỹ đến Geneve trong vai trò giám sát và bảo
chứng cho việc ký kết một hiệp định ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh.
Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ điện về Sài Gòn báo cáo tình hình hình cho Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm và xin chỉ thị về việc chia cắt đất nước. Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm chỉ thị cho ngoại trưởng Trần Văn Đỗ phản đối việc chia
cắt đất nước Việt Nam và phía chính phủ của Quốc Gia Việt Nam sẽ không
ký vào hiệp định Geneve 1954 .
Sau
khi Đặng Tiểu Bình dạy cho Việt Cộng một bài học vào năm 1979, Ban Lãnh
Đạo của Đảng CSVN mới công bố Sách Trắng về Trung Quốc, thì nhân dân
miền Bắc và các đảng viên cấp dưới mới biết rằng chính Chu Ân Lai thúc
ép Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng phải nhận Bắc Việt ( nói theo kiểu dân
chơi trong giới giang hồ : “thế là mất mẹ miền Nam cho bọn Mỹ - Ngụy).
Ông Huy Đức và những người có ăn học hiểu biết trong XHCN có bao giờ
thắc mắc đặt câu hỏi là : tại sao đang thắng lớn mà lại không tiếp cuộc
chiến để dành hoàn toàn độc lập cho VN ? Tại sao lại chịu nhận làm chủ
chỉ có một nửa nước để rồi 6 năm sau phải thành lập MTGPMN và phải đợi
tới 15 năm sau mới “giải phóng” toàn bộ VN với tổn thất riêng miền Bắc
không thôi cũng đã lên tới con số suýt soát 3 triệu người ? Câu trả lời
chắc chắn chỉ có Đảng CSVN mới đủ kích thước và tư cách để trả lời.
Sự thua thiệt thứ năm :
từ năm 1969, phái đoàn Bắc Việt cãi chầy cãi cối, cãi lòng vòng rất mất
thì giờ về bàn vuông, bàn tròn, bàn hình chữ nhật… với mục đích là để
được nói chuyện tay đôi với Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh tại Việt
Nam .
Nhưng
tới năm 1972, Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn của Hội Đồng An Ninh
Quốc Gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger đi thăm Liên Sô và Trung Cộng,, thì
không một ai trong hàng ngũ lãnh đạo của Bắc Việt lại chịu hiểu rằng số
phận cả nước Việt Nam được định đọat tại điện Kremlin và khu biệt thự có
tên gọi là Trung Nam Hải., chứ không phải được định đoạt tại hòa đàm
Paris. Hiệp Định Paris năm 1973 là một “bẫy rập”, nhằm giúp Hoa Kỳ rút
chân ra khỏi Đông Dương, miếng mồi béo bở mà Hoa Kỳ đặt trong bẫy này là
điều 21B trong bản Hiệp Định : “ Hoa Kỳ sẽ viện trợ 3 tỷ dollars cho
Việt Nam nếu các bên tuân thủ các điều ký kết. Quyền tự quyết của nhân
dân phải do nhân dân Việt Nam quyết định bằng lá phiếu bầu cử…” (hay đại
loại gần giống như thế vì tôi không trích nguyên văn điều khoản này )
Khi Việt
Cộng dứt điểm VNCH bằng vũ lực, tức là phía Việt Cộng ngang nhiên xé bỏ
bản Hiệp Định Paris 1973 do chính họ đặt bút ký thì Hoa Kỳ đã có lý do
để “xù nợ” tức là không viện trợ cho Việt Nam một xu nào hết mà bọn lãnh
tụ Việt Cộng không thể kiện cáo vào đâu được. Nên nhớ là vào năm 1976,
sau khi thống nhất 2 miến, chính quyền Việt Cộng kiểm kê dân số Việt Nam
được 45 triệu người và tổng sản lượng quốc gia là 4 tỷ dollars, do vậy
số tiền 3 tỷ dollars đối với chính quyền Việt Cộng là một số tiền rất
lớn ( Cũng qua tờ báo Nhân Dân in tại Hà Nội, trong trại tù chúng tôi
được biết rằng dòng họ Morgan có tích sản 170 tỷ dollars, được xếp hạng
nhất tại Hoa Kỳ, dòng họ Rockefeller có tích sản 127 tỷ dollars được xếp
hạng nhì, trong khi tồng sản lượng quốc gia GNP của Hoa Kỳ là 2,000 tỷ
dollars. Nêu ra chi tiết để ký giả Huy Đức và các “bề trên” trong Đãng
CSVN thấy rằng, tổng sản lượng quốc gia của Việt Nam không bằng số lẻ
của tích sản dòng họ Rockefeller)
Nếu
ký giả Huy Đức và các đảng viên Đảng CSVN cứ ngoan cố cho rằng Việt
Cộng là BÊN THẮNG TRẬN thi tôi yêu cầu ký giả Huy Đức hãy đưa ra những
thành quả cụ thể mà phía Việt Cộng thủ đắc được sau khi cướp đoạt được
miền Nam bằng vũ lực, dĩ nhiên thành quả cụ thể phải tính bằng tiền chứ
nói thành quả chung chung như Việt Cộng đã nói từ hơn 50 năm qua, là
điều người đọc không chấp nhận được.
Trung
Cộng sẽ xâm chiếm Việt Nam và nếu họ chiến thắng Việt Cộng và cai trị
toàn cõi Việt Nam, liệu ký giả Huy Đức và những “bề trên” cao cấp trong
Đảng CSVN có đủ liêm sỉ để ca ngợi mấy anh Ba Tàu Đỏ là BÊN THẮNG
CUỘC hay không ? Nếu có thì tiếp tục giữ tựa đề quyển sách này, nếu
không thì có lẽ tựa đề VIỆT NAM ƠI ! HÃY KHÓC LÊN ĐI QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU
là thích hợp nhất.
Trần Trung Chính
San Jose ngày 25 tháng 12 năm 2012
__._,_.___
2012/12/29 Hieunghia Nhan <nhanhieunghia38@aol.com>
LacRongVietTran
--
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++
No comments:
Post a Comment