tka23 post
Bom chống tàu ngầm
là một loại vũ khí dùng để chống tàu ngầm chúng đánh chìm mục tiêu bằng
sóng chấn động khi nổ. Hầu hết các loại bom kiểu này sử dụng thuốc nổ
và bộ phận kích nổ để có thể phát nổ ở độ sâu đã được định trước. Một số
chúng mang đầu đạn hạt nhân. Bom chống tàu ngầm có thể được mang bởi
máy bay hoặc tàu thủy.
|
Lịch sử phát triển
Quan
niệm về một loại "thủy lôi chìm" đã có từ năm 1910 và ý tưởng này đã
được thực hiện khi tổng tư lệnh của hải quân hoàng gia Anh của hạm đội
Home, Đô đốc Sir George Callaghan yêu cầu sản xuất chúng vào năm 1914.
Các thiết kế được thực hiện bởi Herbert Taylor tại trường dạy về ngư lôi
và thủy lôi HMS Vernon ở Portsmouth, Anh.
Mẫu đầu tiên
hoạt động hiệu quả trong loại bom chống tàu ngầm là "Type D" (Kiểu D) đã
trở nên thông dụng vào năm 1916. Với hình dáng trông như một chiếc
thùng phuy bên trong có chứa thuốc nổ thường là TNT hay Amatol. Có
hai kích cỡ ban đầu được sản xuất là 300 pound (140 kg) trang bị cho các
tàu chạy nhanh và 120 pound (55 kg) trang bị cho các tàu chạy quá chậm
để có thể ra khỏi tầm ảnh hưởng của những quả bom cỡ lớn.
Một pistol thủy
tinh được kích hoạt bởi sức ép của nước theo độ sâu tùy vào việc lựa
chọn độ sâu để kích nổ cho bom. Ban đầu độ sâu được chọn là từ 40 dến 80
feet (từ 12 đến 24 mét).
Các tàu chống
tàu ngầm lúc đầu được trang bị hai quả bom chống tàu ngầm và sẽ thả
xuống nước qua đường trược ở đôi tàu. Thành công đầu tiên của loại vũ
khí này là đánh chìm được tàu ngầm SM U-68 ngoài khơi Kerry, Ireland vào
ngày 22 tháng 03 năm 1916 bởi tàu buôn có trang bị vũ khí hạng nặng
(Q-ship) Farnborough. Đức đã cảnh giác với loại bom chống tàu ngầm sau
khi tiếp theo sự thất bại trong việc tấn công của chiếc U-67 vào
15/04/1916 và chiếc U-69 vào 20/04/1916. UC-19 và UB-29 là hai chiếc tàu
ngầm duy nhất bị đánh chìm thêm bởi bom chống tàu ngầm năm 1916.
Số lượng bom chống
tàu ngầm được trang bị cho mỗi tàu tăng lên 4 quả 06/1917, lên 6 quả vào
tháng 08, và 30 hay 40 quả vào năm 1918. Pistol đã được nâng cấp cho
phép chúng đạt được độ sâu từ 50 feet (15 mét) lên 200 feet (60 mét). Kể
cả các tàu có tốc độ chậm cũng có thể sử dụng loại bom 300 pound một
cách an toàn ở độ sâu cao, vì thế loại bom chống tàu ngầm 120 pound
tương đối không hiệu quả đã được hoàn toàn thay thế. Số lượng bom chống
tàu ngầm được dùng hàng tháng tăng từ 100 lên 300 năm 1917 và trung
bình 1745 quả mỗi tháng trong sáu tháng cuối của chiến tranh thế giới
thứ nhất. Bom "Kiểu D" có thể phát nổ ở độ sâu 300 feet (91,44 mét) ở
thời điểm đó.
Sự thành công của
bom chống tàu ngầm đã thu hút được sự chú ý của Hoa Kỳ, và đã yêu cầu vẽ
lại hoàn chỉnh toàn bộ bản thiết kế loại vũ khí này. Người đã tiếp nhận
việc đó là Trung tá Fullinwider của Văn phòng Đạn dược Hải quân Mỹ và
Kỹ sư Hải quân Minkler, loại vũ khí này đã được tinh chỉnh một số điểm
và sau đó đã xin cấp bằng sáng chế tại Hoa Kỳ việc này được thực hiện để
không phải trả chi phí cho những nhà phát minh đầu tiên của loại vũ khí
này khi nó được xem như một dòng hoàn toàn mới.
Bom chống tàu
ngầm Kiểu D của Hải quân Hoàng gia Anh đã được thiết kế mới với tên Mark
VII năm 1939. Nó có tốc độ chìm 7 feet một giây (2,1 m/s) và vận tốc
tối đa là 9,9 feet một giây (3 m/s) ở độ sâu 250 feet (76 m) nếu được
thả xuống từ đuôi tàu hay được thả ra khi đang treo dưới mặt nước. Một
quả nặng bằng sắt trọng lương 150 pound (70 kg) được gắn vào Mark VII
vào cuối năm 1940 để tăng tốc độ chìm lên 16,8 feet một giây (5.1 m/s).
Một bộ phận kích nổ thủy tinh mới được thay vào để tăng độ sâu phát nổ
của bom lên 900 feet. Mark VII có 290 pound (130 kg) thuốc nổ Amatol ước
tính đủ để xét toạt vỏ tàu ngầm chịu lực dày 7 đến 8 inch (22 mm) với
khoảng cách 20 feet (6,1 m) và buộc tàu ngầm phải
nổi lên khi khoảng cách gấp đôi khoảng cách sát thương. Khi thay thế
thuốc nổ loại Torpex hay Minolvào cuối năm 1942 khoảng cách sát thương của nó tăng lên 26 feet hay 52 feet (7,9 m hay 15,8 m).
Bom chống tàu ngầm
của Anh loại Mark X có trọng lượng 3000 pound (1400 kg) và được phóng
trong ống phóng ngư lôi cỡ 21 inch (53 cm) của các khu trục hạm loại cũ
nó có tốc độ chìm 21 feet một giây (6.4 m/s). Tàu
phóng nó phải cố chạy với tốc độ 11 knot để có thể ra khỏi tầm sát
thương của loại bom này, loại bom này ít được sử dụng vì quá tốn kém
cũng như có thể hại đến chính tàu phóng chúng.
Các loại bom chống
tàu có hình giọt nước của Hoa Kỳ loại Mark 9 đã được đưa vào chiến đấu
mùa xuân năm 1943. Nó mang khoảng 200 pound (91 kg) thuốc nổ Torpex và
tốc độ chìm 14,4 feet một giây (4,4 m/s) và đạt độ sâu tối đa 600 feet
trước khi kích nổ. Loại sau này đạt độ sâu tối đa 1.000 feet (300 m) và
có tốc độ chìm 22,7 feet một giây (6,9 m/s) với việc tăng trọng lượng
cũng như hình dáng khí động học.
Cho dù sức nổ bình
trung bình của các loại bom chống tàu ngầm của Hoa Kỳ là 600 pound (270
kg) như loại Mark 4 hay Mark 7 được dùng trong thế chiến thứ hai nhưng
chỉ có thể dùng để "làm căng dây thần kinh" của mục tiêu vì nó không thể
làm bị thương vỏ tàu chịu lực của các chiếc U-boat thậm chí còn không
bị móp trừ khi chúng phát nổ cách mục tiêu chỉ năm mét trở xuống. Để thả
các quả bom xuống với độ chính xác như thế là đều không tưởng nhất là
khi các tàu ngầm di chuyển và né tránh các quả bom này. Hầu hết các
chiếc U-boat bị chìm do bom chống tàu ngầm vì chúng được thả xuống theo
kiểu rải thảm hơn là ngắm kỹ trước khi thả. Có rất nhiều chiếc đã vượt
qua được hàng trăm quả bom chống tàu ngầm
phát nổ xung quanh chúng trong nhiều giờ liền, chiếc tàu ngầm U-427
đã sống sót sau 678 quả bom chống tàu ngầm được ném vào nó trong tháng
tư 1945 dù vậy rất nhiều trong số chúng phát nổ với khoảng cách đáng kể
so với mục tiêu.
Hiệu quả
Hiệu quả trong
việc sử dụng bom chống tàu ngầm đòi hỏi sự kết hợp của vật liệu chế tạo
bom và các kỹ năng của người sử dụng trong việc tấn công. Bộ phận khuếch
đại âm thanh, khả năng quản lý, đội sử dụng bom chống tàu ngầm và sự di
chuyển của các tàu khác phải được phối hơp nhịp nhàng. Việc sử chiến
thuật máy bay chống tàu ngầm tùy thuộc vào vị trí của tàu ngầm và còn
vào thời điểm ngày hay đêm, khi đó tấn công nhanh chóng sau xác định
được vị trí tàu ngầm, còn với tàu ngầm ngay sau khi nhận thấy bị tấn
công thông thường sẽ lặn sâu xuống để tránh các đòn tấn công.
Khi cuộc chiến Đại Tây Dương nổ ra, một đội săn tàu ngầm để có thể tìm và diệc các chiếc tàu ngầm U-boat của Đức.
Điểm yếu của bom
chống tàu ngầm lúc đó là nó không được xem như một loại vũ khí có độ
chính xác cao. Các tàu tấn công sẽ cố dò ra các tàu ngầm bằng bộ phận
khuếch đại âm thanh.
Dù vậy việc thả
bom chống tàu ngầm bằng cách lăn nó xuống tại phần đuôi tàu sẽ làm cho
bộ phận khuếch đại âm thanh bị nhiễu do chính tiếng động mà các quả bom
khi lăn cũng như do chính tiếng động cơ tàu hoạt động phía sau gây ra,
sau đó việc xác định lại vị trí tàu ngầm cũng gặp khó khăn do tiếng nổ
của các quả bom át tiếng động cơ tàu ngầm và các tàu săn tàu ngầm phải
tấn công một cách mù quáng do không biết vị trí của chiếc tàu ngầm. Các
thuyền trường giỏi của tàu ngầm thường có cơ hội dễ dàng né được các
cuộc tấn công. Để tránh tình trạng này tất cả bom chống tàu ngầm sau này
được gắn lên bệ phóng nhiều lớp, điều này cho phép bộ phận khuếch đại
âm thanh có được
khoảng cách hiệu quả để hoạt động tốt.
Mặt trận Thái Bình Dương
Tại Thái Bình Dương
các bom chống tàu ngầm của Nhật Bản không thành công lắm trong việc
chống lại các tàu ngầm của kHoa Kỳ và Anh. Ngoài trừ khi chúng bị tấn công ở vùng nước cạn còn bình thường chúng chỉ việc lặn sâu xuống để tránh các vụ nổ.
Các thiếu sót trong
chiến thuật sử dụng bom chống tàu ngầm của Nhật Bản đã bị mang ra bàn
thảo tại các hội nghị bởi một nghị sĩ quốc hội của Hoa kỳ Andrew J. May,
là thành viên của Ủy ban quân vụ Hoa kỳ người đã thị sát mặt trận Thái
Bình Dương và đã thu được nhiều thông tin tình báo và nhiều bản báo cáo
tóm tắt các hoạt động. Chúng đã chỉ ra các điểm rất nhạy cảm về việc tại
sao các tàu ngầm của Hoa Kỳ lại có khả năng sống sót cao là do các bom
chống tàu ngầm của Nhật Bản thường được kích nổ ở độ sâu quá nông.
Các hiệp hội báo
chí đã lấy các thông tin bị rò rỉ đăng trên toàn bộ đường dây của mình
làm tăng thêm sự nguy hiểm, rất nhiều tờ báo (kể cả các tờ tại Honolulu,
Hawaii) đã đăng chúng. Ngay lập tức quân đội Nhật Bản nắm được thông
tin này và đã cho sửa lại toàn bộ các bom chống tàu ngầm để chúng nổ ở
khoảng độ sâu hiệu quả hơn là 250 feet (75 m). Đô đốc trưởng Charles A.
Lockwood chỉ huy của hạm đội tàu ngầm Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương đã báo
cáo rằng chỉ đến tháng 05 sau khi thông tin bị rò rỉ đã có hơn mười tàu
ngầm của Hải quân Hoa Kỳ bị đánh chìm và hơn 800 thủy thủ hi sinh khi
đang chiến đấu.
Các phát triển sau này
Vì một lý do nào
đó cách gọi bom chống tàu ngầm nói chung đã được thay bằng vũ khí chống
tàu ngầm. Có thể là do việc chúng được phóng từ phía đầu của các chiếc
tàu bởi bệ phóng nhiều tầng chứ không còn được thả nữa,
như hệ thống phóng Hedgehog của Anh và sau đó là hệ thống Squid. Các vũ
khí này phóng các quả bom như phóng các đầu đạn súng cối lên phía trước
của tàu dàn trên một khu vực lớn để tăng khả năng đáng trúng các tàu
ngầm.
Hệ thống Hedgehog sử dụng bộ phận kích nổ khi va chạm còn hệ
thống Squid thì bắn các bom chống tàu ngầm có khả năng ngắm tự động dẫn
đường như các ngư lôi. Sau này các thiết kế tính luôn loại Mark 24
"Fido" đã trở thành các ngư lôi tìm tiếng động hay loại SUBROC là loại
bom chống tàu ngầm có trang bị đầu đạn hạt nhân. Liên Xô, Hoa Kỳ, và Anh
đã chế tạo các loại vũ khí chống tàu ngầm mang đầu đạn hạt nhân và loại
vũ khí nay đôi khi được coi là thủy lôi hạt nhâm chìm.
Cách nổ dưới nước
Để có một sức nổ mạnh bom chống tàu ngầm phải qua rất nhiều phản ứng hóa học để có thể tạo ra sóng chấn động có tốc độ 8.000 m/s
(25.000 ft/s). Các khí nén được tạo ra bởi phản ứng trong một thời gian
rất ngắn khi kích khối thuốc nổ rắn tạo ra một áp lực rất cao. Chính
áp lực này là nguồn cho mọi sự công phá nó tỉ lệ thuận với sức nổ và tầm
ảnh hưởng của tốc độ sóng chấn động nổ. Các khí nén mà bom
chống tàu ngầm tạo ra chiếm chỗ của nước rất nhanh làm tăng áp lực nước ở
xung quanh nó và tạo ra một sóng chấn động truyền trong nước.
Sự khác biệt về độ hòa tan của không khí trong nước sẽ ảnh hưởng
đến sức nổ khi các khí nén được giải thoát có thể sẽ tan vào trong nước
không tạo ra sóng chấn động mạnh như mong muốn phần còn lại sẽ nổi lên
mặt nước. Trừ khi các bom chống tàu ngầm phát nổ ở độ sâu thích hợp khi
vụ nổ mà nó tạo ra hoàn toàn cách ly với không khí, các khí nén đẩy nước
ra khỏi một vùng mà chúng chiếm khi nổ , khiến cho vùng đó có áp suất
thấp hơn xung quanh nếu nó chạm vào không khí , thì ngay lập tức sức ép
của nước sẽ đẩy toàn bộ sức nổ lên phía trên mặt nước chứ không tạo ra
sóng chấn động mạnh, dù vậy sẽ hiệu quả nếu tạo các hiệu ứng nổ cho
phim ảnh với cảnh một cột nước cao tung lên từ dưới
nước. Còn trên thực tế khi bom chống tàu ngầm phát nổ nó chỉ có
thể làm cho mặt nước gồ lên một tí rồi phẳng trở lại và sau đó là các
bong bóng nổi lên. Còn khi các khí nén hoàn toàn không thể chạm
vào không khí thì áp suất nước xung quanh sẽ đẩy nước trở về chỗ cũ vì
một phần hay hầu hết khí nén sẽ tan vào nước tạo nên một sóng chấn động
thứ hai tuy yếu hơn sóng chấn động chính nhưng vẫn hiệu quả.
Các bom chống tàu
ngầm rất lớn , tính luôn các vũ khí hạt nhân nếu nổ ở độ sâu đủ có thể
tạo ra nhiều sóng chấn động rất mạnh. Bom chống tàu ngầm có sức nổ lớn
có thể tạo ra sóng chấn động rất xa có thể dội lại từ đáy biển lên
và/hay từ trên mặt nước xuống có thể tạo thành hội tụ khuếch đại sóng
chấn động rất nguy hiểm cho bất cứ thứ gì nằm trong nó.
Tất cả các tàu ngầm hay tàu nổi có thể bị đánh chìm nếu nó nằm trong
phạm vi ảnh hưởng của loại bom này, kể cả chính tàu đã phóng bom nếu nó
không kịp chạy ra khỏi vùng nguy hiểm cũng sẽ bị đánh chìm bởi chính quả
bom mà nó phóng đi.
Các thiệt hại do những vụ nổ dưới nước xảy ra cho các tàu ngầm tạo ra bởi hai loại sóng chấn động chính và phụ.
Sóng chấn động chính sẽ xảy ra khi bom chống tàu ngầm phát nổ,
nó cũng có thể ảnh hưởng đến người và các thiết bị của tàu ngầm nếu nó
nổ ở khoảng cách đủ gần.
Sóng cấn động thứ hai là do sức ép của nước đẩy nước trở về chỗ
cũ kéo mọi thứ xung quanh vào nó , cũng có áp suất đáng kể và khi khoảng
không đó đầy , thì nước trong đó theo quán tính sẽ va vào nhau và bị
đẩy ra tạo ra thêm một sóng chấn động nữa nhưng yếu hơn, cũng như áp
suất trong vùng đó giảm xuống và cứ thế cho đến khi các sóng chấn động
yếu dần , đến mất hẳn .Chính hàng loạt sóng chấn động này sẽ gây ra thảm
họa cho vỏ tàu của tàu ngầm. Đã có các cuộc thử nghiệm cho thấy trung
bình có đến mười sáu sóng chấn động được tạo ra bởi một quả bom chống
tàu ngầm , và số lượng còn tùy vào sức nổ của bom. Các sóng chấn động
phụ này còn được gia tăng bởi những vụ nổ của các bom chống
tàu ngầm được thả xuống sau, nó gây ra hàng loạt chấn động xung quanh
thân tàu ngầm. Đó là lý do tại sao các bom chống tàu ngầm luôn được thả ít nhất là một cặp và theo các độ sâu khác nhau.
Tầm sát thương của
bom chống tàu ngầm tủy thuộc vào khối lượng thuốc nổ mà nó được nhét
vào và sức chịu đựng của vỏ tàu ngầm. Với một quả bom chống tàu ngầm nạp
100 kg thuốc nổ TNT (4 MJ) , bình thường chỉ có tầm sát thương 3-4 m
(10–13 ft) với tàu ngầm có trọng tải trung bình 1000 tấn, khi sóng chấn
động gây thiệt hại nhẹ (tàu ngầm không thể bị đánh chìm nhưng có thể bị
đẩy ra khỏi đường đi) là 8–10 m (26–33 ft).
Với một quả nhét
đẩy thuốc nổ mạnh, cũng chỉ có thể tăng tầm sát thương lên thêm vài
mét vì tính chất tỏa sóng chấn động trong nước sẽ đi theo tất cả mọi
hướng , chứ không như trên mặt đất sóng chấn động sẽ bị dội bởi đất cứng
, làm tập trung chấn động thẳng lên trên gây sát thương rất lớn còn
dưới nước thì không. Các bom chống tàu ngầm có hiệu quả càng cao với tàu
ngầm càng lớn và càng thấp với tàu ngầm càng nhỏ, vì tính khí động học
của chúng sẽ cho các sóng chấn động đi qua mà chằng gây thiệt hại gì.
Lấy ví dụ nếu tàu
ngầm loại nhỏ có vỏ tàu làm bằng Titanium ,thì chỉ có thể đánh chìm nó
nếu một quả bom chống tàu ngầm đánh trúng thẳng vào nó ,còn nếu không
chỉ có thể khiến nó bị chấn động làm chết máy (và có thể tự khởi động
lại được).
BKTT
__._,_.___
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic | Messages in this topic (1) |
No comments:
Post a Comment