TOÀN
CẢNH BỨC TRANH
“
ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN TÀU ĐỎ “ CỦA ĐẢNG CSVN
MƯỜNG GIANG
Trong lịch sử thế giới
và Việt sử, chưa có một quốc gia nào và thời đại nào của nước ta mà chính quyền
như CSVN (trừ Lê Duẩn vì theo lệnh Nga) lại ra lệnh cho quân đội và toàn dân cả
nước không được “ chống lại Tàu đỏ là kẻ
tử thù “ đã và đang từng giờ, từng ngày dùng đủ mọi cách để cưởng đoạt lãnh
thổ và đồng hóa dân tộc ta thành nô lệ.
Một chính khách phương
tây đã nói ‘ Nếu nước Nga không có kho
bom nguyên tử để hù dọa thiên hạ,
thì cũng chẳng qua là một Congo tại Âu Châu mà thôi ‘.Lời khinh miệt trên đối
với Nga không phải vô cớ mà có. Hãy nhìn Nga Sô từ sau năm 1989 thì hiểu rõ,
khi nước này đã gặp phải nhiều tai ương thảm khốc, hầu hết gần như bất lực
không giải quyết được. Ðầu tiên là vụ chiếc tàu ngầm nguyên tử Komsomolets bị
phát hỏa chìm dưới đáy biển Na Uy vào tháng 10/1994 làm thất thoát hàng ngàn tỷ
chất phóng xạ Becqueret trong vùng. Nội vụ chưa giải quyết xong thì ngày
12-8-2000, chiếc tàu ngầm nguyên tử được coi là tối tân nhất của Nga tên Kurst
trong lúc tập trận, đột nhiên bị chìm trong lòng biển Barent làm chết hoàn toàn
118 thủy thủ đoàn. Sau đó ngày 11-5-2001 bốn vệ tinh quân sự lại bị mất tích vì
căn cứ nguyên tử Serpukhov phát hỏa.
Nhưng đau đớn nhất là
lúc nước Mỹ công bố khắp thế giới về sự thành công của chương trình ‘ Lá Chắn chống Phi Ðạn ‘ thì cũng là lúc
tại phi trường Mạc Tư Khoa , một chiếc máy bay chở hành khách do Nga chế tạo loại
IL-76 rớt làm chết hết hành khách lẫn phi hành đoàn. Qua các sự kiện xảy ra trước
mắt, nhiều bình luận gia trên thế giới đã không ngần ngại tuyên bố là thời mạt
vận của Nga đã tới, cho dù Putin qua thời gian làm tổng thống hoặc mới đây là
thủ tướng rồi tổng thống, đã liên kết với Trung Cộng,Bắc Hàn, Ba Tư, Venezuela,
Syria.. tìm đủ trăm phuơng ngàn kế du thuyết và lũng đoạn thế giới qua một cuộc
chiến tranh năng lượng với Hoa Kỳ, Liên Âu và Nhật, chẳng những tại Trung Á,
Caspien, Trung Ðông mà ngay cả Phi Châu, Biển Ðông và Châu Mỹ La Tinh. Ở đâu
Nga và Tàu cũng đem sức mạnh quân sự và kho vũ khí nguyên tử ra để khiêu khích
và hù dọa nhân loại, làm như đế quốc Liên Xô và Trung Hoa đã sống lại.
Trung Cộng ngày nay còn
hung dữ, ngang ngược, tham tàn và hiếu sát gấp trăm ngàn lần Hitler, Stalin..Đức
quốc xã, phát xít Ý và quân phiệt Nhật ngày trước.Cứ nhìn cảnh TC dùng xe tăng,
đạn pháo đàn áp khủng bố đồng bào mình tại
quảng trường Thiên An Môn (Bắc Kinh) năm 1989 hay cảnh giết chóc dã man người
Tây Tạng, Hồi Giáo Tân Cương..thì biết rõ. Như Liên Xô thời nào, Trung Cộng giờ
cũng đem bom nguyên tử, máy bay, tàu chiến, súng đạn đủ loại và mớ đô la vét được
từ túi bọn lái buôn Mỹ, Âu Châu, Nhật.. ra để bóp chẹt, khuynh đảo và hù dọa khắp
thế giới, đặc biệt là những nước nhỏ quanh vùng. Tất cả chỉ với mục đích “ cướp mọi thứ của thiên hạ “ bằng hành
động và thái độ ngang ngược coi thường công pháp quốc tế kể cả cái gọi là Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc, mà Tàu đỏ và Nga là hai trong năm nước đang làm trùm
sinh sát nhân loại.
Hành động bá đạo trên,
chẳng những không làm bất cứ ai khiếp sợ (trừ CSVN) như tin mới nhất đã xãy ra
vào ngay 5-1-2013, phản lực cơ chiến đấu của Nhật đã chận máy bay Y-12 của TC gần
không phận thuộc khu vực quần đảo Senkaku, khiến chiếc máy bay trên phải quay đầu
bay về Tàu.Những hành động ngỗ ngáo bá đạo này, càng lúc càng khiến cho cả nhân
loại khinh ghét, phỉ nhổ nên khiến gần hết các nước lớn nhỏ hùa theo Mỹ, Ấn Độ..chực
cơ hội phanh thây Tàu đỏ như ngày trước đã từng làm cỏ đế quốc Liên Xô.
Để cuớp biển Đông hay
nói đúng hơn là cướp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn lãnh hải cũng
như thềm lục địa thuộc chủ quyền lâu đời của VN, Trung Cộng đã ngụy tạo ra bản
đồ hình lưỡi bò,xua hàng chục ngàn tàu thuyền đánh cá lớn nhỏ vào vơ vét hết
nguồn hải sản tại các khu vực đặc quyền kinh tế của ta, suốt từ Móng Cáy vào tận
Cà Mâu. Đồng thời lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để làm căn cứ hải
quân, đem HKMH và hạm đội xuống biển Đông, hầu khống chế hải lộ huyết mạch thông thương từ Ấn Độ Dương
lên Bắc Á.
Năm 2012 nhằm kiểm soát
Biển Đông cũng như phô trương lực lượng hải quân, để hù CSVN, Kampuchia và
Lào..TC lại tung ra tờ thông hành có in bản đồ chín đoạn, trong đó có ghi nhiều
lãnh thổ thuộc chủ quyền của Ấn Độ, VN, Phi Luật Tân, Đài Loan và Nhật Bổn. Nói
chung sự thua thiệt to lớn hiện nay tại Biển Đông vẫn là VN vì TC tuy có to mồm
và trình diễn trong cuộc tranh chấp với Nhật về quần đảo Senkaku trong biển Nhật
Bản, cũng như với Phi Luật Tân tại Bãi Đá Ngầm nhưng đố TC dám gây chiến với
hai nước này, vì họ đã có hiệp ước hậu thuẩn của Mỹ.Trái lại tại Đông Hải, TC
tha hồ tác quái vì CSVN sẽ chẳng bao giờ dám công khai đối mặt với kẻ thù, cho
dù chúng có tàn sát hết ngư phủ và chiếm hết lãnh hải VN, theo tuyên bố có hiệu
lực từ ngày 1-1-2013,
Ngày nay CSVN đã
không cần che dấu những hành động ‘ bán nước và đầu hàng giặc Tàu ‘ mà đảng
luôn gọi là ‘ bí mật quốc gia ‘, trong
đó có phần xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa kể cả biển Đông đã mất nên không cần nhắc
tới nữa, mặc dù Nguyễn tấn Dũng có nói “
Hoàng Sa, Trường Sa là của VN “ hay đảng cho biết ‘ bắt đầu ngày 1-1-2013, VN áp dụng luật biển mới (?)..’
Tất cả những cái gọi là
‘ bí mật quốc gia ‘, đã được Nguyễn
Đăng Thanh (Đại tá Công An) và Nguyễn Chí Vịnh (Thượng tướng, Thứ trưởng Quốc
phòng) công khai bạch hóa trong buổi nói chuyện cũng như cuộc phỏng vấn tại VN
vào những ngày áp Tết và đầu năm 2013. Theo đó cả hai đều thay đảng “ tố cáo tội ác Mỹ đã gây nên cuộc diễn biến
hòa bình tại VN và làm cho biển Đông dậy sóng khi, Hoa Kỳ quyết định trở lại
Châu Á và Thái Bình Dương “. Do đó cả hai cùng tuyên bố ‘ CSVN đời đời nhớ ơn TC ‘. Đặc biệt
Nguyễn Chí Vịnh còn công khai cấm cả nước ‘
biểu tình chống kẻ tử thù của Dân tộc Việt ‘. Đồng thời ra lệnh cho toàn
dân phải doàn kết với đảng và nhà nước ‘
cùng nhớ ơn TC’ để tạo cảnh ổn đinh bên cạnh thiên triều, bảo toàn lãnh thổ
theo châm ngôn ‘ bốn tốt, mười sáu chữ
vàng ‘ của Hồ Cẩm Đào ban tặng.
Hậu quả của những bí mật
quốc gia vừa được đảng công bố trên, đã
đưa đất nước và dân tộc Việt đến tận bờ vực thẳm của sự hủy diệt và làm nô lệ
giặc Tàu. Đảng coi như đã xóa bỏ hết những trang Việt Sử hào hùng và bi tráng của
dòng giống Lạc Hồng suốt mấy ngàn năm qua, trong cuộc tử chiến với Hán tộc để
sinh tồn và giữ nước.
Năm 111 trước Tây Lịch,
người Hán xâm lăng và cưởng chiếm non sông Hồng-Lạc, lúc đó có quốc hiệu là Nam
Việt, bao gồm lãnh thổ của Âu Lạc và Giao Chỉ. Dân tộc Việt bắt đầu sống trong một thời bị Tàu đô hộ cả ngàn năm, còn
đất đai của tiên tổ thì bị giặc cướp phanh thây thành chín mảnh. Ðó là Nam Hải va Hợp Phố (Quảng Ðông), Thượng Ngô
và Uất Lâm (Quảng Tây), Châu Nhai và Nam Nhĩ (Hải Nam), Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu
Chân (Thanh Hóa), Nhật Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh).
‘ Quê hương nay đã mỏi mòn,
Ngàn năm nô lệ, vẫn còn còn
đây .. ’ ’ ’
(Ca dao)
Từ đó Dân tộc Việt sống trong một thời
kỳ lầm than, nhục hận và đen tối dưới cùm gông nô lệ, dưới đồng hóa xích xiềng
cùng với sự áp bức dã man tàn độc của giặc Tàu phương Bắc. Nhưng người Việt vốn
là một dân tộc anh hùng tuyệt luân, phi thường dũng liệt, can đãm bất khuất. Vì
vậy suốt trong thời gian bị nô lệ, đã không ngừng quật khởi chiến đấu, quyết
tâm đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi cẩm tú ngàn đời của dòng
giống Tiên Rồng, được tạo dựng từ thời các Tổ Hùng dựng nước Văn Lang, cách đây
gần 5000 năm lịch sử.
Trong tình cảnh nước mất nhà tan,
thương đau và tủi nhục, cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc thoái khỏi ách
nô lệ của giặc Tàu, vẫn liên tục sôi sục trong tâm khảm mọi người. Năm 40 sau Tây lịch, hai phụ nữ đầu tiên của nước Việt là Trưng Trắc và Trưng Nhị, đã thắp
sáng lịch sữ bằng ngọn lửa yêu nước, đánh đuổi tên thái thú tàn ác Tô Ðịnh chạy
về Hán, dành lại được một phần non sông cẩm tú của dân tộc, dù chỉ giữ được một
thời gian ngắn. Cuộc khởi nghĩa trên đã
làm cho đồng bào vô cùng phấn khởi và càng thêm ngưỡng kính Hai Bà tuy là phận
nữ nhi nhưng đã dám đứng lên chống lại giặc thù của dân tộc, trả thù nhà nợ nước.
Thật là một tấm gương để cho con
cháu ngàn đời soi chung noi dấu. Ngày nay :
‘ Cột đồng Mã Viện tìm đấu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ, bóng nước gương ‘
(Thái
Xuyên)
Nên đọc lịch sử VN qua hằng ngàn năm
trước tới thời cận sử không xa, con cháu ngày nay chỉ thấy đẳm đầy trên những
trang sách cũ-mới, toàn là máu lệ và nước mắt anh hùng của tiền nhân, qua công
cuộc bảo vệ và dành lại lãnh thổ cũng như nền tự chủ độc lập của Ðại Việt. Còn gì đau đớn và tủi nhục cho bằng thân phận
của người dân mất nước, kể từ năm 43 sau TL , Mã Viện lập lại chế độ cai trị vô
cùng hà khắc, mục đích duy nhất cũng chỉ là muốn biến Giao Châu thành một quận
huyện của Tàu, đồng thời Hán hóa người Việt và bành trướng lãnh thổ xuống
phương Nam.
Tuy cách nay gần hai ngàn năm nhưng
chính sách xâm lăng đồng hóa các dân tộc yếu kém láng giềng của Hán Tộc vẫn
không hề thay đổi, dù cho trong cuộc phong trần vinh nhục, Tàu cũng đã nhiều lần
bị các nước khác đô hộ, hạ nhục, thảm thê không có bút mực nào diễn tả cho hết.
Mã Viện dựng cột đồng với lời hăm dọa ‘ đồng
trụ chiết, Giao Chỉ diệt ‘ nhưng cột
đồng thì mất tích, còn nổi căm hận nhớ đến âm mưu diệt chũng của người Tàu đối
với dân Việt thì muôn đời mãn kiếp
không bao giờ quên được. Ðó là lý do mà suốt ngàn năm bị áp bức bóc lột đến
cùng tận, dân Việt luôn luôn vùng dậy chống quân Tàu. Năm 248 Bà Triệu khởi
binh chống quân Ngô ở Cửu Chân (Thanh Hóa). Tiếp theo có Lý Nam Ðế, Triệu Quang
Phục, Mai Hắc Ðế, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ.. và cuối cùng là Ngô Vương Quyền
vào năm 939 sau TL, chém đầu thái tử Hoàng Tháo trên sông Bạch Ðằng, đuổi đánh
quân Nam Hán chạy về Tàu, kết thúc 1000 Bắc thuộc, dành
lại độc lập tự chủ cho dân tộc Việt.
‘ Dồng trụ chí kim đài dĩ lục (cột đồng
đến nay, rêu còn xanh ?)
Ðằng giang tự cổ
huyết do hồng (Sông Ðằng tự xưa, máu vẫn đỏ).
Và từ đó cuộc chiến đấu trường kỳ của
dân tộc Việt đối với dã tâm xâm lăng thống trị của giặc Tàu phương Bắc, tạo
thành một bản chất quật cường trong tâm khảm của mọi người. Ðó cũng là chủ nghĩa yêu nước, một tôn giáo
đặc dị VN chỉ biết tôn sùng những vị anh hùng liệt nữ tận trung báo quốc, mà họ coi ngang với Trời Phật, thần Ðất.. như Ðức
Thánh Trần Hưng Ðạo, đã hai lần đại thắng đế quốc Nguyên-Mông trong thế kỷ XIII
khi xăm lăng Ðại Việt.
Nói chung, trong khi chiến đấu để bảo
vệ tổ quốc và nền độc lập tự do cho xứ sở, các nhà lãnh
đạo Ðại Việt lúc nào cũng cứng rắn với giặc Tàu khi chiến
đấu
và mềm mỏng trong ngoại giao. Tổ tiên ta từ buổi bình minh lịch sử, cũng chỉ nhờ
vào chủ nghĩa anh hùng và chiến lược khôn ngoan, mà đánh bại được tất cả các cuộc
xâm lăng của Tống, Mông Cổ, Minh và Mản Thanh. Còn việc triều cống giặc Tàu,
sau những lần chiến thắng quân xâm lăng, thực chất không phải vì nước ta sợ
chúng, mà là tránh không để cho chiến tranh tiếp diễn, gây thêm cảnh sanh linh
đồ thán, để khổ cho muôn người.
Năm 1077 ba chục vạn quân Tống xâm
lăng Ðại Việt. Ðại tướng Lý Thường Kiệt trong khi ngăn giặc Tàu tại phòng tuyến
Sông Cầu (Bắc Việt), đã sáng tác bốn câu thơ thần, để cổ võ cho tình thần chiến
sĩ nơi biên tái :
‘ Nam quốc sơn hà , Nam đế cư (Sông núi
nước Nam vua Nam ở )
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Rành
rành định phận ở sách trời)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm (Cớ sao lũ
giặc sang xâm phạm)
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng bây
sẽ bị đánh tơi bời).
Bài thơ như một bản tuyên ngôn độc lập
của nước Nam, đồng thời đanh thép cảnh cáo giặc Tàu đừng bao giờ ỷ mạnh hiếp yếu,
luôn nuôi dã tâm cưởng chiếm nước người, không sớm thì muộn cũng có ngày bại
vong. Tất cả là sự gắn bó mãnh liệt vào mãnh đất quê hương, vào di sản dân tộc
tuy đẳm đầy máu lệ nhưng đâu có thiếu chất lãng mạng kiêu hùng, được tiếp nối thời nhà Trần, qua ba lần chống cuộc xâm lăng của
Nguyên-Mông :
‘ Ðoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái Bình nghi nổ lực
Vạn cổ thử giang san ‘
(Trần Quang Khải).
Vào cuối năm Ðinh Mùi (1428), Bình Ðịnh
Vương Lê Lợi sau 10 năm chiến đấu gian khổ, đã đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi
non sông đất Việt. Nguyễn Trãi thay ông viết ‘ Bình Ngô Ðại Cáo ‘ công bố trước quốc dân về công cuộc phục quốc đã
thắng lợi, nước nhà lại độc lập tự chủ như thuở nào. Ðồng thời bày tỏ
lòng thương xót đối với đồng bào vô tội đã bị giặc Minh tàn sát dã man, trong
thời gian chúng tạm chiếm được nước ta :
‘ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ trăm ngàn kế
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc,
ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, dãi cát tìm vàng, khốn
nổi rừng sâu nước độc
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.. ’
’ ’
Ba trăm năm sau Mãn Thanh lại bắt đầu
dòm ngó non sông Việt, qua cái cớ giúp Lê Chiêu Thống dành lại ngôi vua. Vì vậy
nữa đêm mùng năm tháng giêng Tết Kỹ Dậu (1789), Ðại Ðế Quang Trung (Nguyễn Huệ)
kéo quân ra Bắc và chỉ trong một hồi trống đã đại thắng giặc Thanh, bắt Sầm
Nghi Ðống thắt cổ tự tử, khiến Tôn Sĩ Nghị phải ôm đầu máu, trốn vào ống đồng
chạy về Tàu
Như Lê Thánh Tôn (1460-1497) vị anh
quân tài giỏi của Ðại Việt vào cuối thế kỷ XV đã nói ‘ Ta phải gìn giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một
tấc sông của dất núi ‘ Câu chuyện thần thoại về Phù Ðổng Thiên Vương cởi ngựa
sắt đánh đuổi giặc Ân xâm lăng nước ta vào thời Hùng Vương thứ VI, là một triết
lý lịch sử dựng và giữ nước của Ðại Việt, tuy là một nước nhỏ nhưng luôn chiến
thắng kẻ thù to lớn phương Bắc, được văn chương bình dân ca tụng đầy tự tin và
ngạo nghễ :
‘ Nực cười châu chấu đá xe
tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm ‘.
Tóm lại bài học lịch sử Việt ngàn đời
vẫn còn đó : Giặc Tàu chỉ có thể xâm lăng
cưởng chiếm đất đai của ta mỗi khi thế nước suy hèn, chia rẽ và nội loạn nên Hổ
Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh đã dâng nạp cho kẻ thù phương Bắc nhiều đất
đai ở biên giới Hoa Việt.
Cuối đời Trần vua quan hèn yếu, Hồ
Quý Ly tiếm vị xưng vương vào năm 1401. Trần Khang tự là Thiểm Bình, xưng là
con cháu nhà Trần đến Yên Kinh xin Tàu đánh nước Nam đề giựt lại ngai vàng cho
mình. Nhà Minh lợi dụng cơ hội đó sang đánh chiếm nước ta, đặt nên đô từ
1413-1428 mới chấm dứt vì bị Bình Ðinh Vương Lê Lợi đánh đuổi chạy về Tàu. Thế mới biết, Nhà Hồ dù có trăm vạn quân thiện
chiến và tinh nhuệ nhưng vẫn thua giặc
Minh vì mất lòng dân. Trong lúc Kháng Chiến Quân Lam Sơn chỉ có vài chục vạn
nhưng quân dân trên dưới một lòng, vì vậy đã đánh đuổi được giặc Tàu xâm lăng
ra khỏi bờ cõi, dành lại độc lập cho nước nhà.
Năm 1786, Duy Kỳ hay Duy Khiêm lên nối
ngôi vua Hậu Lê tức là Mẫn Ðế niên hiệu Chiêu Thống. Năm 1788 vì thù hận Tây Sơn
và Chúa Trịnh, đồng thời muốn giựt lại chiếc ngai vàng cho nhà Lê, nên Chiêu Thống
chạy sang cầu viện Mãn Thanh sang chiếm nước ta nhưng bị Ðại Ðế Quang Trung đuổi
đánh phải chạy về Tàu vào năm 1789.
Và lịch sử lại tái diễn tấn tuồng ‘ Rước voi Tàu về dầy mã Tổ Hồng Lạc ‘ từ
tháng giêng năm 1949, Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị trung ương lần thứ 6 để ‘ nổ lực chuẩn bị sẳn sàng đón lấy dịp tốt, tuyệt đối không nên bỏ
lỡ cơ hội chiến lược từ Trung Cộng ‘.Cho nên không ngạc nhiên khi thấy Tàu
Ðỏ là nước đầu tiên công nhận Việt Cộng vào ngày 10-1-1950. Ðây cũng là thời
gian HCM bí mật sang Tàu chầu Mao Trạch Ðông cầu viện. Từ đó về sau Hồ chọn
ngày 10-1 làm quốc lễ và gọi đó là ngày ‘ thắng
lợi ngoại giao ‘.Hàng ngàn cố vấn Tàu có mặt đông đảo tại VN, trong số này
có các tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Lã Quí Ba.. giúp các đệ tử thân tín của Hồ từng hoạt động bên Tàu, nắm giữ các địa
vị then chốt trong đảng , ngày qua ngày cứ thế sản sinh bè phái thân Trung Cộng,
khống chế quyền lực cả nước tới nay, biến nước ta thành một quận huyện của Tàu
như thời Bắc thuộc.
Tháng 7-1954, ngay khi chữ ký trên
văn bản ngưng bắn tại Genève chưa ráo mực, thì Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới
chuyện chiếm miền Nam để làm quà triều cống thiên triều. Do ý đồ
trên, Hồ đã gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH khi
có lệnh tập kết. Ðể chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con
đường chiến lược Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt
biển, Hồ thành lập đường 559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy. Dĩ
nhiên muốn an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai tiền đồn của QLVNCH trấn
đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đất đai thuộc lãnh thổ từ lâu đời của
dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ thời Hậu Lê, Nhà Nguyễn.. nằm
trong Ðông Hải.
Theo bản tin của UPI-AFB ngày
23-9-1958, được báo chí của Trung Cộng lẫn Việt Cộng đăng tải. Những tài liệu
này, hiện vẫn được lưu trữ tại các thư viện quốc tế như Luân Ðôn, Paris, Hoa Thịnh
Ðón, Bắc Kinh... kể cả Hà Nội. Nhờ đó, ta mới biết được, vào ngày 14-9-1958, Phạm
Văn Ðồng lúc đó là thủ tướng,theo lệnh của chủ tịch nước và đảng VC là Hồ Chí
Minh, đả cam kết với Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bằng văn kiện xác quyết
như sau ‘ Chính phủ VNDCCH, tôn trọng
quyết định, lãnh hải 12 hải lý cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, là Tây
Sa-Nam Sa, của Trung Cộng’. Ngày 22-9-1958, Ðại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn
Khang, dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm Văn Ðồng ký, lên Thiên Triều.
Ngay cả khi đã cướp chiếm được hoàn toàn miền Nam VN, vào tháng 5-1976, trên tờ
Sài Gòn Giải Phóng của VC nằm vùng Ngô Công Ðức, Lý Quý Chung.. vẫn còn đăng lời
xác nhận của đảng VC, là Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Cộng. Khôi hài hơn, VC
nói, vì ta và Tàu sông liền sông, núi dính núi, nên Hoàng Sa-Trường Sa, của ai
cũng thế thôi, nên VC muốn lấy lại đảo,lúc nào Trung Cộng vẫn sẵn sàng giao trả
‘.Luận điệu trên, rõ ràng VC đã xác nhận
VN là thuộc địa của Tàu Cộng. Dù
ngày 14-3-1988, VC và Trung Cộng đã giao tranh đẳm máu tại Trường Sa nhưng
ngay sau đó trên tờ Nhân Dân, số ra ngày 26-4-1988, VC vẫn xác nhận sự kiện Hồ
Chí Minh bán hai đảo cho Tàu năm 1958 là đúng. Bởi có vậy, Trung Cộng mới viện
trợ súng đạn, gạo tiền và cả triệu quân , để VC đánh chiếm VNCH từ 1955-1975.
Một bí mật khác cũng đã
được báo chí phổ biến cho biết “ vào
tháng 4-1972 khi Tổng thống Mỹ Nixon
tới Bắc Kinh cầu thân với Tàu đỏ, được Mao Trạch Ðông đem công hàm bán đảo, do Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng ký năm
1958 làm bằng chứng “, để phản đối việc tàu Hoa Kỳ vi phạm lảnh hải quần đảo
Hoàng Sa của chúng (?).Còn Kissinger thì xảo quyện hơn, khi viết hồi ký về chuyến
đi đó, đã không hề thắc mắc hay nhắc tới
một chữ về việc Trung Cộng đòi chủ quyền trên
hai quần đảo Hoàng-Trường Sa, dù cả hai đều biết “ các quần đảo này của VNCH.
Từ đó, Nixon ra lệnh cho hạm đội 7 tại Thái Bình Dương phải ở xa hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đúng 12 hải lý như Trung Cộng đã quyết định.
Ngày 11-1-1973 Trung Cộng công khai tuyên bố chủ quyền trên toàn thể
các đảo của VN trong biển Ðông. Ngày 26-12-1973 Bắc Kinh bắt đầu thương thuyết
việc khai thác dầu khí tại vịnh Bắc Việt với Ý Ðại Lợi. Tháng 1-1974 giặc Tàu xua hải lục không quân
chiếm Hoàng Sa và dù Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trực tiếp yêu cầu Bộ Quốc
Phòng Mỹ giúp nhưng Mỹ lại ra lệnh Hạm Ðội 7 không can thiệp, kể cả cấm vớt các
chiến sĩ hải quân VNCH lâm nan trong cuộc hải chiến trên, dù lúc đó hai bên vẫn còn là đồng minh đồng đội.
Ngày thứ bảy 17-2-1979 lúc 3 giờ 30
sáng, 600.000 quân Tàu tiền pháo hậu xung, ào ạt mở cuộc xâm lăng đại quy mô
vào VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng Cáy. Thế là tình nghĩa vô sản
quốc tế trong sáng giữa hai nước, đã trở thành hận thù thiên cổ. Những địa danh
Cao Bằng, Lạng Sơn, Ðồng Khê, Thất Khê.. lại đi vào những trang Việt sử đẫm máu của VN chống xâm lăng Tàu. Cuộc chiến thật
đẫm máu ngay từ giờ phút đầu. Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân với tiền
pháo hậu xung, bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác nòng dài 130 ly, với nhịp
độ tác xạ 1 giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như nước lũ từ
trên cao đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đã gặp phải sức kháng cự mãnh
liệt của VN, một phần nhờ địa thế phòng thủ hiểm trở, phần khác là sự yểm trợ
hùng hậu của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều tổn thất về nhân mạng tại
Lạng Sơn và Cao Bằng.
Tóm lại sau 16 ngày giao tranh đẫm
máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất cả tài sản của dân chúng, bắn giết
tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên giới, mà suốt cuộc chến Ðông Dương lần
II (1960-1975) gọi là vùng an toàn. Ðã có hằng trăm ngàn vừa dân vừa lính của cả
hai phía thương vong. Tại miền bắc, hằng triệu dân chúng phải phân ly. Nhà cửa,
vườn ruộng, của cải vật chất, đền đài, miếu võ, nhà thờ, di tích tổ tiên bao đời
để lại.. đều vì VC gây chiến tranh, mà tan tành theo cát bụi.
Cuộc chiến tưởng đâu đã chấm dứt,
vì VC dấu nhẹm tin tức từ ấy cho đến năm 2006, nhờ mạng lưới Internet của Bộ Quốc
Phòng Trung Cộng (Defense-China.com) và tác phẩm ‘ Dữ kiện bí mật của cuộc chiến
tranh Trung-Việt (Secret Records of Sino-Vietnamese War) ‘ của Jin Hui, Zhang Hui Sheng và Zhang WEi Ming, cả thế giới biết được ‘ Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu chiếm Núi Ðất
của VN, trong cuộc chiến biên giới lần hai (1984-1989) ‘.Theo tài liệu dẫn
chứng, năm 1984 Trung Cộng lại vin cớ CSVN thường pháo kích và tấn công biên giới,
nên bất thần tấn công cưởng chiếm Núi Ðất của VN tại tỉnh Hà Giang (Thượng Du Bắc
Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo dài từ năm
1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân, nhượng bán (?) lãnh thổ cho giặc Tàu.
Ngày nay nhờ sự bạch
hoá của nhiều văn khố trên thế giới và nhất là sự tiết lộ của Tàu đỏ, cho thấy
dã tâm của Trung Cộng qua cái gọi là ‘ đồng
chí XHCN hay 4 tốt 16 chữ vàng ‘ thực chất chỉ là lợi dụng xương máu của người
VN qua bình phong ‘ sát cánh anh em
chung ý thức hệ cộng sản ‘ , để
bảo vệ dùm biên giới phía nam của chúng. Năm 1968 sử gia Pháp Francois Joyaux đã
dựa vào tài liệu lưu trữ trong văn khố kết luận “ sự có mặt lần đầu tiên của Mao tại hội nghị Geneve 1954, đã chứng tỏ sự quan tâm lớn lao tới tình hình Ðông Dương
thời đó của Trung Cộng. Còn Paul
Mus một học giả Pháp chuyên nghiên cứu về VN, vào năm 1965 đã viết ‘ Sở dĩ Mao nhượng bộ Pháp tại hội nghị Geneve
1954, mục đích cũng chỉ muốn ngăn chận sự thống nhất của VN cũng như không cho
CSVN thống trị toàn thể bán đảo này ‘.
Ðây mới là lý do quan
trọng nhất để Trung Cộng sẳn sàng hy sinh mọi thứ, chẳng những dồn hết nhân vật
lực hổ trợ cho Hà Nội, mà còn ra lệnh cho các đàn em Lào và Cao Miên cho Hồ Chí
Minh sử dụng hành lang của hai nước này tại biên giới để Bắc Việt làm đường
mòn. chuyển quân trang quân dụng vào xâm lăng VNCH. Tóm lại đời đời Trung Cộng vẫn
coi Việt Cộng như là một phương tiện không hơn không kém để đạt cứu cánh bành
trướng lãnh thổ của mình xuống Nam phương và Đông hải.
Từ năm 1960, Hồ chí
Minh, Duẩn, Giáp, Ðồng, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan, Lê Ðức Tho, Trường
Chinh..là những chóp bu lãnh đạo đảng CSVN, trong
số này Hoàng Văn Hoan và Trường Chinh theo Tàu Ðỏ ra mặt. Sự tranh dành quyền
lực đảng sau bức màn đỏ rất quyết liệt sắt máu, giữa hai phe Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ,
Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp, vì được bưng bít kỹ cho nên người ngoài ít
ai biết được. Sinh thời HCM luôn coi trọng Giáp hơn Duẩn nên dù Duẩn là bí thư
thứ I của đảng nhưng vẫn là phó cho Giáp trong quân ủy.
Lúc đầu Duẩn vì có lập
trường đối đầu với Giáp nên ngã theo Trung Cộng. Trong thời gian Khrushchev cầm
quyền Liên Xô có chủ trương xét lại và chống đối Tàu đỏ, đồng thời ra mặt o bế
Giáp đầu đảng phe thân Nga lúc đó, với mục đích chia rẽ nội bộ CSVN. Năm 1967
Khruchchev bị hạ bệ, Duẩn-Thọ vin vào thời cơ để tạo ra vụ án xét lại, loại bỏ
gần hết phe đảng của Giáp. Riêng Giáp nhờ có HCM che chở nên được sống già vô
tích sự tới ngày nay.
Từ sau tháng 5-1975 mặt
nạ ‘ đánh Mỹ cứu nước ‘ của CSVN đã
rớt, cũng là lúc kết thúc trò đu dây giữa Nga-Tàu để hưởng lợi. Liên minh Ðông
Dương cũng không còn qua sự phá hoại của Trung Cộng, quan hệ Việt-Hoa rạn nứt từ
những ân oán cũ mới. Cuối cùng Duẩn bỏ
Tàu theo Nga gây nên cuộc chiến long trời lở đất tại biên giới Việt-Miên-Hoa từ
năm 1978-1990.
Tháng 3-1985 Gorbachev
làm tổng bí thư Liên Xô, phát động chính sách ‘ cởi mở (glasnov) và tái cấu
trúc (perestroika) ‘ để cứu vản nền kinh tế của Nga đang trong cơn khủng hoảng
vì phải cưu mang quá nhiều ngoại viện cho các nước chư hầu trong đó có CSVN. Ðồng
thời, Gorbachev còn nối lại liên hệ với kẻ thù Hoa Kỳ và Trung Cộng. Trong bước
đường cùng vì bị cả thế giới bỏ rơi ngoảng mặt, tháng 8-1986 Hà Nội tuyên bố
rút hết quân ra khỏi Kampuchia và muốn nối lại quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh.
Trường Chinh (tạm thay Lê Duẩn mới chết, làm quyền tổng bí thư) còn gửi điện văn
chúc mừng quốc khánh của Tàu đỏ.
Tóm lại sự suy sụp của đế
quốc Liên Xô vào năm 1986 cộng thêm cái chết của Lê Duẩn, đã đưa CSVN vào ngõ cụt
về ý thực hệ, kinh tế gần như khánh tận, quân sự bị sa lầy tại Kampuchia.. Nên để
cứu đảng, cứu thân, bọn chóp bu tại bắc bộ phủ mới được bầu trong đại hội đảng
lần thứ VI (Linh, Hùng, Công, Mười, Kiệt..) qua cố vấn của Chinh, Ðồng, Thọ “ quyết tâm phấn đấu để sớm được trở lại làm đầy tớ cho Tàu “. Trong lúc đó, Trung Cộng vẫn công khai xua
quân chiếm thêm nhiều đất đai của ta tại biên giới và các đảo thuộc quần đảo Trường
Sa của VN vào ngày 16-3-1988 trước sự phản ứng lấy lệ gần như đầu hàng giặc của
chóp bu CSVN.
Tháng 4-1989 Trung Cộng
dùng xe tăng đại pháo tàn sát dã man sinh viên và dân chúng biểu tình đòi dân
chủ tại quảng trường Thiên An Môn (Bắc Kinh). Từ cuối năm 1989-1990, Ðông Ðức,
Ðông Âu và đế quốc Sô Viết tan rã, khối XHCN chỉ còn lại Tàu đỏ, Việt Cộng, Bắc
Hàn và Cu Ba. Trước nổi chết gần kề, ngày 10-4-1990 bộ chính trị cộng đảng VN họp
khẩn để ‘ nhất trí quyết tâm bằng mọi giá (kể cả bán nước, bán
dân) được theo Tàu để bảo vệ XHCH. Và từ đó tới ngày nay 11-2012) , cái giá máu mà dân tộc VN phải đổ
ra để CSVN trả nợ cho giặc Tàu là một phần lảnh thổ gồm đất đai, biển, đảo và sự
Hán hóa dân tộc Việt của Trung Cộng.
Ðổ Mười, Lê Khả Phiêu,
Trần Ðức Lương, Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú
Trọng, Trương Tấn Sang.... đã và đang viết phần cuối trang sử nô lệ giặc Tàu mà
Hồ Chí Minh đã đề ra từ năm 1930. VN sẽ trở thành một quận huyện của Trung Hoa
như thời Bắc Thuộc. Tất cả đều là sự thật nhục nhã và đau lòng.
Tháng 1-1285 trước sự
xâm lăng lần thứ 2 của Mông Cổ, Ðại Ðế Trần Nhân Tôn đã mời các vị bô lảo khắp
nước về hội tại điện Diên Hồng (Thăng Long) để hỏi ý kiến nên ‘ hoà hay chiến ‘ với giặc.
- Trước nhục nước nên hoà
hay nên chiến ?
- Thế nước yếu lấy gì lo chiến
chinh ?
Tất cả đều trả lời ‘ quyết chiến cho dù phải hy sinh tài sản và tính mệnh ‘ để bảo vệ non nước
Việt. Sau đó người cả nước đều dùng mực thích vào cánh tay hai chữ ‘ Sát Thát ‘.Nhờ vậy mà nước ta vào thời
Trần đã 3 lần chiến thắng giặc Mông Cổ khi chúng sang xâm lăng Ðại việt. Ngày
nay VN đang đứng trên bờ vực thẳm của sự hũy diệt và nô lệ giặc Tàu nhưng đảng
CS đang lãnh đạo đất nước lại công khai đầu hàng giặc, ngăn cấm quân đội và
toan dân cả nước chống lại kẻ xâm lăng, trong đó có quyền được biểu tình. Tệ mạt
hơn, đảng còn khủng bố đồng bào phải ‘ đời
đời nhớ ơn Trung Cộng ‘ !.
Sau ngày 30-4-1975, hằng
năm CSVN đều tổ chức ăn mừng ‘ chiến thắng Tết Mậu Thân 1968 ‘ và ‘ đại thắng
mùa xuân 1975 ‘. Nhưng tuyệt đối không nhắc tới một chữ về những đau thương trầm
thống mà giặc Tàu đã gây cho Nước Việt và đồng bào Việt trong cuộc chiến biên
giới Hoa-Việt khởi sự từ ngày 17-2-1979 và kéo dài tới đầu thập niên 1990 mới tạm
dứt sau khi toàn bộ chóp bu VC đầu hàng Tàu đỏ.
Ðã vậy VC còn công khai
khinh thường và hạ nhục cả nước, khi đảng cùng với Trung Cộng rầm rộ tổ chức ăn
mừng đã hoàn thành việc cắm mốc biên giói Việt-Trung tại Ải Nam Quan vào ngày
24-2-2009. Biên bản do Nguyễn tấn Dũng ký vào cuối năm 2008 nhưng đã tuyệt tích
vì bị đảng ém nhẹm nên người dân không hề hay biết một điều gì.
Tháng 4-2008, VC giup
Tàu đỏ tổ chức rầm rộ cuộc rước đuốc máu thế vận hội Bắc Kinh tại Sài Gòn. Ngày
1-10-2012, VC hoan hĩ gửi điện văn và tổ chức ăn mừng quốc khánh Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa của
VN, mà giặc đã cưởng đoạt vào tháng 1-1974..Toàn cảnh bức tranh “ đời đời nhớ ơn giặc Tàu “ được Hồ Chí
Minh và CSVN khắc cột ghi tâm, nên chuyện những người yêu nước chống ngoại xâm
hiện nay tại VN bị tàn sát, tù đày, thủ tiêu và khủng bố..cũng chẳng làm ai ngạc
nhiên và khiếp sợ, vì bộ mặt thặt của đảng từ trên xuống dưới đã bị nhận diện,
sau khi cái gọi là “ hội nghị tự phê của
đảng làn thứ 6 “ khai mạc và kết thúc vào tháng 10-2012, được các diễn đàn
“ Dân Lam Báo, Quan Làm Báo, Báo Tổ Quốc, Biển Đông “ phổ biến sâu rộng khắp
hang cùng ngõ hẹp trên trái đất.
Do những điều kiện nghiệt ngã về địa dư và lịch sử, mà
bao đời VN vẫn coi việc chống giặc Tàu như một thứ tôn giáo trong nhân sinh
quan của người Việt. Có thể nói nước Việt tồn tại bao nhiêu năm cũng là bấy
nhiêu năm đấu tranh máu lệ với giặc Tàu để giành giựt sự sinh tồn. Chiến tranh đối
với dân tộc Việt là cuộc đổ máu vì lý tưởng và bổn phận. Chiến tranh là cơ hội để
tồn vong trước sự xâm lược của ngoại bang.
Ðại hội VI (1986-1991)
ngoài thành tích đổi mới kinh tế theo định hướng XHCH để tạo thêm đặc quyền đặc
lợi cho cán bộ, bộ đội, công an và tư bản đỏ làm giàu thêm nhờ than nhũng và ăn
cắp của công. Tháng 7-1987 hội nghị trung ương đảng họp và ban hành nghị quyết
số 2 cấm ‘ QUÂN ÐỘI NHÂN DÂN VN KHÔNG ÐƯỢC
ÐỤNG CHẠM VỚI QUÂN TÀU ÐỎ ‘.Lệnh này được giữ kín mãi tới ngày 28-1-1990
báo Nhân Dân mới đăng tải.
Từ năm 1988, tình đồng chí giữa VC và Nga Sô, Ðông Âu càng trở nên khó
khăn vì tiền viện trợ đã bị cắt giảm. Trong lúc cuộc đổi mới kinh tế mới vừa chập
chững, mức sản xuạt lương thực trì trệ khiến nạn thất nghiệp càng gia tăng vì
Hà Nội cắt giảm quân số. Thừa nước đục thả câu, Tàu đỏ đánh bồi thêm để cho VC
phải quì gối cúi đầu xin xõ làm lãi đầy tớ cho chúng.TỪ 14-16/3/1988 Tàu đỏ tấn
chiếm đảo Fiery Cross trong quần đảo Trường Sa đang thuộc chủ quyền VN. Trận hải
chiến đã khiến cho 77 bộ đội chết thảm, trước sự bất lực của đảng và không một
lời phản ứng của Nga Sô cũng như LHQ.
Những biến cố chết người
kể trên làm giao động hốt hoảng tới đứng tim bọn chóp bu lớn nhỏ trong đảng VC,
nên đảng đã hop khẩn ngày 10-4-1990 với Nguyễn Văn Linh, Lê Ðức Anh, Ðào
DuyTùng, Ðồng Sĩ Nguyên.. đều nhất trí kết tội Mỹ đã gây ra ‘ diễn biến Hòa
bình ‘ tại Ðông Âu, Ðông Ðức và Sô Viết. Do đó đảng nghị quyết về nhu cầu cấp
bách phải ‘ THEO TÀU ‘ để cứu nguy cho
XHCN, bất chấp những lời khuyến cáo như ‘ TC chỉ lấy lợi ích của dân tộc mình
là chính, chứ chẳng bao giờ thèm nghĩ tới tình đồng chí XHCN. Bởi vậy dù VN có
muốn hòa hoản thì chỉ là ảo tưởng mà thôi, đối với một láng giềng trước sau chỉ
muốn tiêu diệt dân tộc Việt ‘.
Bổn cũ tiếp tục soạn lại
qua các lần đại hội đảng kế tiếp với Manh, Lương, Khải, Triết rồi Trong, Sang,
Dũng..Tất cả đều theo đúng mẫu mã khuôn rập đã có sẳn từ thời Hồ Chí Minh của mấy
chục năm về trước ban truyền “ đời đời theo
Tau và nhớ ơn thiên triều “.
Trong cơn sơn hà nguy
biến, dân tộc lâm nguy, đồng bào cả nước và hải ngoại ai nấy đều chung căm hận,
quyết chờ cơ hội thuận tiện để đồng đứng chung dưới lá cờ đại nghĩa, để đánh đuổi
giặc Tàu ra khỏi Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Ðông, Biên Giới.. như tổ tiên ta
ngày trước đã từng làm. Vì VN không phải là một nước nhỏ, dân Việt không phải
là loại người khiếp hèn. Nhõ hay hèn trước giặc Tàu phương Bắc, chỉ có đảng
CSVN còn 80 triệu người Việt luôn khẳng định sức mạnh của mình, sẽ không bao giờ
để cho Tàu đỏ hung hăng bá quyền nước lớn, khi đồng bào dành lại được quyền làm
chủ nước trong tay CS. Ngày đó không xa và chắc chắn VN sẽ dành lại những phần
đất của tổ tiên, bị VC dâng bán cho Tàu đỏ suốt mấy chục năm qua. -/
Tài Liệu Tham Khảo :
-Hồ Chí Minh& Ngô Đình Diệm (Hồ Sĩ Khuê)
-Nhận diện huyền thoại Võ Nguyên Giáp (Huy Phong & Yến Anh)
-VN đỏ sau chiến tranh (Việt Dương)
-Hồ Chí Minh tại Trung quốc (Tưởng Vĩnh Kính)
-VN niên biểu nhân vât chí (Chánh Đạo)
-Sau bức màn đỏ (Hoàng Dung)
-Bí mật VN qua hồ sơ Wikileaks (NV xuất bản)
-Diễn đàn Dân Làm Báo, Biển Đông, Tổ Quốc, Trách nhiệm..)
-Các đài Pháp, VOA..
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Những ngày đầu Giêng 2013
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment