AKAGI HÀNG KHÔNG MẪU HẠM LỪNG DANH NHẬT BẢN
tka23 post
Akagi (tiếng Nhật: 赤城 Xích Thành) là một hkmh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc tỉnh Gunma của Nhật Bản . Nguyên được đặt lườn như một tàu chiến-tuần dương lớp Amagi, Akagi được cải biến thành hkmh trong lúc còn đang được chế tạo nhằm tuân thủ theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington.
Sau khi Đế quốc Nhật Bản rút lui khỏi hiệp ước vào cuối năm 1934, con tàu được tái cấu trúc từ năm 1935 đến năm 1938, khi ba sàn cất hạ cánh được gộp chung thành một sàn đáp
duy nhất mở rộng và một đảo cấu trúc thượng tầng.
Là chiếc hkmh Nhật Bản thứ hai được đưa vào hoạt động và là chiếc tàhkmh lớn đầu tiên (còn gọi hkmh hạm đội),
Akagi có vai trò nổi bật trong việc phát triển học thuyết lực lượng tấn
công hkmh mang tính cách mạng, trong đó tập hợp các hkmhlại để có sức
mạnh không lực tập trung. Học thuyết này đã giúp Nhật Bản đạt được những
mục tiêu chiến lược trong sáu tháng đầu tiên của trận chiến Thái Bình Dương.
Máy bay của Akagi đã tham gia cuộc Chiến tranh Trung-Nhật vào cuối những năm 1930. Sau khi thành lập Không hạm đội 1 hoặc Kido Butai (Lực lượng Tấn công) vào đầu năm 1941, nó trở thành soái hạm cho đến hết quãng đời hoạt động. Cùng với
các hkmhkhác, đã tham gia cuộc không kích Trân Châu Cảng vào tháng 12 năm 1941 và chiếm đóng Rabaul ở khu vực Tây Nam Thái Bình Dương vào tháng 1 năm 1942. Sang tháng tiếp theo, máy bay của nó đã ném bom
Darwin thuộc Australia và hỗ trợ cho việc chiếm đóng Đông Ấn thuộc Hà Lan. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1942, máy bay của Akagi đã giúp đánh chìm một tàu tuần dương hạng nặng Anh và một tàu khu trục Úc trong cuộc Không kích Ấn Độ Dương.
Sau một đợt tái trang bị ngắn, Akagi cùng với ba hkmh hạm đội khác thuộc Kido Butai đã tham gia Trận Midway vào tháng 6 năm 1942. Sau khi ném bom xuống lực lượng Hoa Kỳ trú đóng trên đảo san hô, Akagi
cùng với các hkmh khác bị máy bay xuất phát từ Midway và từ các hkmh Enterprise, Hornet và Yorktown tấn công. Máy bay ném bom bổ nhào của Enterprise đã gây hư hại nặng cho Akagi. Khi đã trở nên rõ ràng là không thể giữ được, nó bị các tàu khu trục Nhật Bản đánh đắm để không bị lọt vào tay đối phương. Việc bị mất Akagi
cùng với ba hkmh hạm đội khác tại Midway là một thất bại chiến lược
nghiêm trọng cho phía Nhật Bản, góp phần đáng kể cho chiến thắng sau
cùng của phe Đồng Minh tại Thái Bình Dương.
|
Cấu trúc và hạ thủy
Việc cấu trúc Akagi như một hkmh được bắt đầu vào ngày 19 tháng 11 năm 1923. Tuy nhiên, trong trận động đất Kantō 1923 (Quan Đông đại chấn tai) ngày 1 tháng 9 năm 1923 tại khu vực Tokyo, lườn của Amagi bị hư hại nặng đến mức không thể phục hồi một cách kinh tế, nên nó bị hủy bỏ và tháo dỡ. Akagi, chiếc duy nhất còn lại trong lớp, được hạ thủy vào ngày 22 tháng 4 năm 1925 và đưa ra hoạt động tại Xưởng Hải quân Kure vào ngày 25 tháng 3 năm 1927, cho dù công việc chạy thử máy kéo dài cho đến tận tháng 11 năm 1927. Nó là chiếc hkmh thứ hai được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản, sau chiếc Hōshō và trước chiếc Kaga (nguyên cải biến từ lườn một thiết giáp hạm lớp Tosa bị hủy bỏ để thay thế cho Amagi).[Vì Akagi
thoạt tiên được hình thành như một tàu chiến-tuần dương, tên của nó
được đặt theo tên một ngọn núi theo thông lệ đặt tên tàu chiến của Hải
quân Đế quốc Nhật Bản vào thời đó.
Tên Akagi được đặt theo núi Akagi, một núi lửa lớn tại vùng Kantō. Sau khi được cải tạo thành hkmh, cái tên có nguồn gốc núi này vẫn được giữ lại, tương phản với những hkmh khác như Sōryū, vốn được thiết kế như những hkmh ngay từ đầu và được đặt tên theo những loài chim. Trước đó, tên Akagi được đặt cho một pháo hạm thuộc lớp Maya.[8]
Akagi được hoàn tất với chiều dài chung 261,21 mét (857 ft 0 in). Nó có mạn thuyền
rộng 31 mét (101 ft 8 in) và độ sâu mớn nước 8,08 mét (26 ft 6 in) khi
đầy tải. Con tàu có trọng lượng choán nước 26.900 tấn dài (27.300 t) ở
tải trọng tiêu chuẩn, và 34.364 tấn dài (34.920 t) khi đầy tải, nhẹ hơn
gần 7.000 tấn dài (7.100 t) so với trọng lượng thiết kế như một tàu
chiến-tuần dương.[9] Thủy thủ đoàn đầy đủ của nó gồm 1.600 thành viên.[10]
Sự bố trí sàn cất-hạ cánh
Akagi và Kaga
được hoàn tất với ba sàn cất-hạ cánh xếp thượng tầng, là những hkmh duy
nhất trên thế giới được thiết kế như vậy. Các hkmh Anh Quốc Glorious, Courageous và Furious,
nguyên được cải biến từ những "tàu tuần dương nhẹ lớn", mỗi chiếc có
hai sàn cất-hạ cánh, nhưng không có chứng cứ gì là người Nhật đã sao
chép kiểu mẫu của người
Anh.
Rất có thể đây là sự tiến hóa mang tính hội tụ những biện pháp nhằm phóng lên càng nhiều máy bay càng tốt. Sàn đáp chính của Akagi
dài 190,2 mét (624 ft 0 in); sàn giữa, bắt đầu ngay phía trước cầu tàu,
chỉ dài 15 mét (49 ft 3 in); và sàn dưới dài 55,02 mét (180 ft 6 in).
Nghi vấn đặt ra về sự tiện dụng của sàn giữa bởi vì nó quá ngắn, chỉ một
số máy bay tải trọng nhẹ mới có thể sử dụng được, ngay cả vào thời đại
mà máy bay nhỏ và nhẹ hơn nhiều so với thời Thế Chiến II.[11] Sàn đáp phía trên được nghiêng nhẹ từ
giữa tàu ra phía mũi và về phía đuôi để hỗ trợ cho việc cất cánh và hạ cánh của những máy bay yếu công suất vào thời đó.[2]
Khi
hoàn tất, con tàu có hai hầm chứa máy bay (hangar) chính và một hầm phụ
thứ ba, có thể chứa tổng cộng 60 máy bay. Hầm thứ ba ở thấp nhất chỉ
dùng để chứa những phần máy bay tháo rời. Hai hầm chính mở ra vào sàn
cất cánh giữa và sàn cất cánh dưới, cho phép máy bay cất cánh trực tiếp
từ hầm chứa, trong khi hoạt động hạ cánh diễn ra ở sàn trên. Hai hầm
chính ở giữa và trên có diện tích tổng cộng khoảng 80.375 foot vuông
(7.467,1 m2), trong khi diện tích của hầm dưới là 8.515 foot vuông (791,1 m2). Máy phóng
không được trang
bị. Thang nâng máy bay phía trước được đặt lệnh sang mạn phải và có
kích thước 118 nhân 13 mét (387 ft 2 in × 42 ft 8 in); thang nâng phía
sau đặt trên trục giữa và có kích thước 128 nhân 8,4 mét (419 ft 10 in ×
27 ft 7 in), phục vụ cho sàn đáp bên trên và cả ba hầm chứa máy bay. Hệ
thống dây hãm của nó là kiểu dọc do người Anh phát triển để sử dụng
trên chiếc Furious, chúng không đáp ứng do dựa vào ma sát giữa
móc hãm và dây cáp. Người Nhật nhận biết rõ khuyến khuyết của hệ thống
này, do đã áp dụng trên chiếc hkmhđầu tiên của họ là Hōshō, nhưng chưa có giải pháp thay thế vào lúc Akagi hoàn tất. Nó được thay thế trong đợt tái trang bị năm 1931 với hệ thống cáp ngang gồm 6 dây do Nhật Bản thiết kế, rồi đến lượt nó lại bị thay thế vào năm 1935 bằng loại Kaga Kiểu 4 (Kure shiki 4 gata).
Khi chiếc hkmh hoàn tất, nó không có đảo cấu trúc thượng tầng; con tàu
được chỉ huy từ một vị trí bên dưới đầu trước của sàn đáp phía trên.[ Con tàu mang theo khoảng 150.000 US gallons (570.000 l) xăng máy bay cho lực lượng không lực trên tàu.[14]
Khi hoàn tất, Akagi mang theo một phi đoàn bao gồm 28 máy bay ném bom-ngư lôi Mitsubishi B1M3, 16 máy bay tiêm kích Nakajima A1N và 16 máy bay tuần tiễu Mitsubishi 2MR.[9]
Vũ khí và vỏ tàu
Akagi được trang bị mười khẩu pháo 20 cm (7,9 in)/50 caliber, gồm sáu khẩu trong các tháp pháo ụ phía đuôi và số còn lại trong hai tháp pháo nòng đôi đặt hai bên sàn cất cánh giữa. Chúng bắn ra đạn pháo nặng 110 kilôgam (240 lb) với tốc độ 3 đến 6 phát mỗi phút, với lưu tốc đầu đạn 870 m/s (2.900 ft/s); ở góc nâng 25°, chúng cho phép đạt tầm xa tối đa 22.600–24.000 mét (24.700–26.000 yd). Các pháo tháp này trên danh nghĩa có thể nâng cho đến góc 70° để cung cấp hỏa lực phòng không bổ sung, nhưng trong thực tế góc nâng tối đa chỉ đạt được 55°. Tốc độ bắn chậm và góc nạp đạn cố định ở 5° làm triệt tiêu mọi khả năng phòng không.[15]
Dàn hỏa lực hạng nặng này được bố trí trong trường hợp nó bị tấn công bất ngờ bởi tàu tuần dương đối phương và bị buộc phải tham chiến; nhưng sàn cất-hạ cánh lớn và mong manh, hầm chứa máy bay và cấu trúc thượng tầng làm cho nó trở thành một mục tiêu nổi bật hơn mọi tàu chiến trong các cuộc đụng độ mặt biển. Học thuyết về hkmh vẫn còn đang được phát triển vào lúc đó, và người ta chưa nhận thức được sự phi thực tế của việc đấu pháo tay đôi của hkmh.[
Con tàu cũng trang bị vũ khí dành riêng phòng không gồm sáu khẩu 12 cm (4,7 in)/45 caliber
nòng đôi, bố trí mỗi bên mạn ba khẩu đội trên những bệ nhô bên dưới mức
các ống khói, nơi chúng không thể bắn chéo qua mạn của sàn đáp.[18]
Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo nặng 20,3 kilôgam (45 lb) với lưu tốc
đầu đạn 825–830 m/s (2.710–2.700 ft/s); ở góc nâng 45° chúng cho phép
đạt tầm xa tối đa 16.000 mét (17.000 yd), và có được trần bắn tối đa
10.000 mét (11.000 yd) ở góc nâng 75°. Tốc độ bắn hiệu
quả của kiểu vũ khí này là từ 6 đến 8 phát mỗi phút.[19]
Đai giáp của Akagi
có độ dày được giảm từ 254 mm (10 in) xuống còn 152 mm (6 in), và được
đặt thấp hơn trong lườn tàu so với thiết kế ban đầu. Phần trên của bầu chống ngư lôi có lớp giáp dày 102 mm (4 in). Độ dày vỏ giáp sàn tàu cũng được giảm từ 96 mm (3,8 in) xuống còn 79 mm (3,1 in).[20]
Các cải biến này đã cải thiện độ ổn định của con tàu bằng cách giúp bù
trừ phần trọng lượng nặng bên trên của hai hầm chứa máy bay chính.[2]
Động lực
Trên chiếc hkmh Hōshō
dẫn trước, khí nóng thoát ra từ các ống khói xoay tròn tạo ra sự nhiễu
động là một mối đe dọa cho con tàu; những thử nghiệm trong hầm gió không
đề xuất được giải pháp nào. Vì vậy Akagi và Kaga được cung cấp những giải pháp khác nhau để đánh giá trong điều kiện hoạt động thực tế. Akagi
được bố trí hai ống khói bên mạn phải. Ống khói phía trước lớn hơn được
nghiêng một góc 30° bên dưới với miệng ống hướng xuống biển, và ống
khói nhỏ hơn thoát theo hướng thẳng đứng cách một khoảng đối với sàn
đáp. Ống khói phía trước được trang bị một hệ thống làm mát bằng nước để
giảm thiểu sự nhiễu loạn do hơi nóng thoát ra, và một nắp che
có thể nâng cao để khí thải có thể thoát trong trường hợp con tàu bị
nghiêng nặng và miệng ống khói chạm đến mặt nước. Kaga áp dụng một phiên bản của cấu hình này khi nó được hiến đại hóa vào giữa những năm 1930.[2][21]
Akagi được hoàn tất với bốn bộ turbine hơi nước Gihon, mỗi bộ dẫn động một trục chân vịt, tạo ra tổng công suất 131.000 shaft horsepower (98.000 kW). Hơi nước cho các turbine được cung cấp bởi 19 nồi hơi Kampon Kiểu B với áp suất hoạt động 20 kg/c2 (1.961 kPa; 284 psi). Một số nồi hơi được đốt dầu, trong khi số khác sử dụng một hỗn hợp dầu và than. Khi được thiết kế như một tàu
chiến-tuần dương, nó được hy vọng sẽ đạt tốc độ tối đa 28,5 hải lý một giờ
(52,8 km/h; 32,8 mph), nhưng việc giảm trọng lượng choán nước từ
41.200 tấn dài (41.900 t) xuống còn 34.000 tấn dài (35.000 t) đã giúp
gia tăng tốc độ tối đa lên 32,5 hải lý một giờ (60,2 km/h; 37,4 mph),
vốn đã đạt được khi chạy thử máy vào ngày 17 tháng 6 năm 1927. Trữ lượng nhiên liệu của nó bao gồm 3.900 tấn dài (4.000 t) dầu và 2.100 tấn dài (2.100 t) than, cho phép nó tầm hoạt
động 8.000 hải lý (15.000 km; 9.200 mi) ở tốc độ đường trường 14 hải lý một giờ (26 km/h; 16 mph).[22]
Lịch sử hoạt động
Các phục vụ ban đầu
Akagi gia nhập Hạm đội Liên hợp vào tháng 8 năm 1927, và được phân về Hải đội hkmh 1 khi đơn vị này được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1928, phục vụ như là soái hạm của hải đội
dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc Sankichi Takahashi. Quãng đời hoạt động ban đầu của chiếc hkmh khá an bình, bao gồm nhiều cuộc thực tập huấn luyện. Từ ngày 10 tháng 12 năm 1928 đến ngày 1 tháng 11 năm 1929, con tàu được chỉ huy bởi Yamamoto Isoroku, vị tư lệnh tương lai của Hạm đội Liên hợp.[Akagi được đưa về lực lượng dự bị hạng hai vào ngày 1 tháng 12 năm 1931
nhằm chuẩn bị cho một đợt tái trang bị ngắn, trong đó hệ thống hãm được
thay thế, các hệ thống vô tuyến và thông hơi được đại tu và cải tiến.
Khi hoàn tất đợt tái trang bị, Akagi trở thành một tàu dự bị hạng nhất vào tháng 12 năm 1932. Đến ngày 25 tháng 4 năm 1933, nó tiếp tục các hoạt động thường trực và gia nhập Hải đội hkmh 2, tham gia cuộc cơ động hạm đội đặc biệt trong năm đó.[Vào lúc này, học thuyết hoạt động hkmh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vẫn còn trong những giai đoạn đầu. Akagi cùng các hkmh khác thoạt tiên được giao vai trò như những lực lượng chiến thuật hỗ trợ cho các thiết giáp hạm của hạm đội trong học thuyết của một
"trận chiến quyết định" (Kantai Kessen). Trong vai trò này, máy bay của Akagi sẽ tấn công thiết giáp hạm đối phương bằng bom và ngư lôi. Các cuộc không kích nhắm vào hkmh đối phương sau này (bắt đầu vào khoảng 1932–1933) được xem là có tầm quan trọng tương đương, với mục đích đạt được ưu thế trên không
vào những giai đoạn đầu của trận chiến. Yếu tố cần thiết trong chiến
lược này là hkmh Nhật Bản phải có khả năng tấn công trước với đòn không
kích phủ đầu áp đảo. Trong các cuộc thực tập chiến thuật hạm đội, các
hkmh bắt đầu hoạt động chung với nhau phía trước hoặc trong hàng chiến trận
chính. Chiến lược mới nhấn mạnh đến tốc độ tối đa của cả hkmh lẫn máy
bay mà chúng mang theo, cũng như máy bay lớn hơn với tầm hoạt động xa
hơn. Do đó đòi hỏi phải có sàn đáp dài hơn trên tàu sân bay để mang được
những máy bay mới nặng hơn đang được đưa vào hoạt động.[26][27][28] Kết quả là, vào ngày 15 tháng 11 năm 1935, Akagi được đưa về lực lượng dự bị hạng ba để bắt đầu một đợt hiện đại hóa rộng rãi tại Xưởng hải quân Sasebo.[21]
Tái cấu trúc
Công việc hiện đại hóa Akagi bao gồm khối lượng công việc ít hơn so với chiếc Kaga, nhưng bị kéo dài lâu hơn gấp ba lần do những khó khăn về tài chính liên quan đến cuộc Đại suy thoái.[29] Ba sàn cất-hạ cánh của con tàu bị đánh giá là quá nhỏ để mang những máy bay to và nặng hơn sắp đưa vào sử dụng.[30]
Kết quả là sàn cất cánh giữa và dưới bị loại bỏ để hình thành hai tầng
hầm chứa máy bay kín kéo dài gần hết chiều dài của con tàu. Diện tích
tổng cộng của hai hầm trên và giữa được tăng lên đến khoảng 93.000 foot
vuông (8.600 m2); trong khi tầng hầm dưới có diện tích giữ nguyên.[10]
Sàn đáp bên trên được kéo dài đến tận mũi, gia tăng chiều dài lên đến
249,17 mét (817.48 ft 8 in), và nâng số máy bay mang theo được lên 86
chiếc (gồm 61 chiếc hoạt động và 25 chiếc dự trữ). Một thang nâng thứ ba
giữa tàu kích thước 11,8 nhân 13 mét (38 ft 9 in × 42 ft 8 in) được bổ
sung. Hệ thống dây hãm được thay thế bằng một hệ thống thủy lực Kiểu 1
do Nhật thiết kế với 9 dây.[10][31]
Việc hiện đại hóa cũng bổ sung một "đảo" cấu trúc thượng tầng bên mạn
trái, vốn là một kiểu sắp xếp bất thường; chỉ có một tàu sân bay khác
mang đặc tính này là chiếc Hiryū. Mạn trái đã được chọn như một thử nghiệm để xem cánh đó có tốt hơn cho các hoạt động không lực bằng cách di chuyển đảo
thượng tầng cách xa các ống thoát hơi của con tàu.[30] Sàn đáp mới hơi nghiêng về phía trước và phía sau từ một điểm khoảng ba-phần-tám về phía sau.[
Tốc độ của Akagi
đã được xem là thỏa đáng. Thay đổi duy nhất đối với hệ thống động lực
là thay các nồi hơi đốt hỗn hợp than/dầu thành kiểu đốt dầu hiện đại hơn
và cải tiến sự sắp xếp thông hơi. Mặc dù công suất động cơ đã gia tăng
từ 131.200 shaft horsepower (97.800 kW) lên 133.000 shaft horsepower
(99.000 kW), tốc độ của nó lại giảm đi đôi chút từ 32,5 hải lý một giờ
(60,2 km/h; 37,4 mph) xuống còn 31,2 hải lý một giờ (57,8 km/h; 35,9
mph) khi chạy thử máy do trọng lượng choán nước tăng lên đến
41.300 tấn dài (42.000 t). Trữ lượng nhiên liệu của nó được tăng lên
7.500 tấn dài (7.600 t) dầu FO,
cho phép nó tầm hoạt động tối đa 10.000 hải lý (18.520 km; 11.510 mi)
khi di chuyển ở tốc độ đường trường 16 hải lý một giờ (30 km/h; 18 mph).
Ống khói đứng phía sau được thay đổi cho giống với ống khói phía trước
và gộp chung vào một vỏ bọc.[31][34]
Hai tháp pháo nòng đôi trên sàn cất cánh giữa được loại bỏ, và 14 khẩu đội 25 mm (1 in) Kiểu 96 được bổ sung trên các bệ nhô.[35]
Chúng bắn ra đạn pháo nặng ,25 kilôgam (0,55 lb) với lưu tốc đầu đạn
900 m/s (3.000 ft/s); ở góc nâng 50° chúng cho phép đạt tầm xa tối đa
7.500 m (8.200 yd) và một trần bắn tối đa 5.500 m (18.000 ft). Tốc độ
bắn hiệu quả chỉ đạt 110–120 phát mỗi phút do phải thường xuyên thay hộp
đạn dung lượng 15 viên.[36]
Sáu bộ điều khiển hỏa lực Kiểu 95 được trang bị để kiểm soát các khẩu
pháo 25 mm và hai bộ điều khiển phòng không Kiểu 94 được trang bị thay
thế cho Kiểu 91 đã lạc hậu. Sau khi được hiện đại hóa, Akagi mang một bộ điều khiển hỏa lực Kiểu 89 cho các khẩu pháo 20 cm (7,9 in).[ thủy thủ đoàn của con tàu tăng lên 2.000 thành viên sau khi tái cấu trúc.[33]
Dàn
hỏa lực phòng không được tập trung giữa tàu và được bố trí tương đối
thấp đối với lườn tàu. Do đó, các khẩu pháo này đã không thể bắn trực
tiếp ra phía trước hoặc phía sau. Hơn nữa đảo cấu trúc thượng tầng đã
che khuất góc bắn ra trước của các khẩu pháo bên mạn trái. Kết quả là
con tàu trở nên mong manh đối với các cuộc tấn công của máy bay ném bom bổ nhào.
Các khẩu pháo phòng không 12 cm/45 caliber Kiểu năm 10 đã được dự định
để thay thế bằng loại 12,7 cm (5,0 in)/40 Kiểu 89 hiện đại hơn. Các bệ
nhô sẽ được nâng lên một sàn
cao hơn, cho phép chúng có những giải pháp bắn chéo qua sàn đáp giống
như đã được thực hiện trong việc hiện đại hóa chiếc Kaga. Tuy nhiên, các sự kiện diễn biến tiếp theo đã khiến con tàu không thể sống sót đủ lâu để tiến hành các nâng cấp vừa kể.[37]
Nhiều điểm yếu nghiêm trọng của Akagi đã không được hiệu chỉnh. Các bồn chứa xăng máy bay
của nó được tích hợp trực tiếp vào cấu trúc của con tàu, có nghĩa là
các chấn động đối với lườn tàu, như trúng bom hoặc đạn pháo, có thể được
truyền thẳng đến các thùng chứa, gây nút hoặc rò rỉ. Ngoài ra, cấu trúc
hoàn toàn kín của các hầm chứa máy bay khiến cho việc chữa cháy trở nên
khó khăn, ít nhất một phần do hơi nhiên liệu có thể tích tụ trong hầm
chứa. Cộng vào mối nguy hiểm đó là yêu cầu của học thuyết hkmh Nhật Bản
đòi hỏi máy bay
phải được bảo trì, nạp nhiên liệu và nạp đạn dược tại hầm chứa thay vì
trên sàn đáp mỗi khi có thể được. Hơn nữa, hầm chứa máy bay và sàn
cất-hạ cánh chỉ được bọc giáp hạn chế; và không có dự phòng cho hệ thống
chữa cháy của con tàu. Các điểm thiếu sót sau này là những yếu tố mang
tính quyết định cho việc mất con tàu.[
Trước Thế Chiến II
Công việc hiện đại hóa Akagi hoàn tất vào ngày 31 tháng 8 năm 1938. Nó được xếp lớp lại như một tàu dự bị hạng nhất vào ngày 15 tháng 11, nhưng không gia nhập trở lại Hải đội hkmh 1 cho đến tháng tiếp theo. Trong cấu hình mới, hkmh bay mang theo 12 máy bay Mitsubishi A5M "Claude" với bốn phần máy bay tháo rời, 19 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D1A với năm phần máy bay tháo rời và 35 máy bay ném bom ngang/ngư lôi Yokosuka B4Y với 16 phần máy bay tháo rời.[24] Nó khởi hành đi đến vùng biển Nam Trung Quốc vào ngày 30
tháng 1 năm 1939 để hỗ trợ các hoạt động tác chiến trên đất liền, bao gồm các cuộc tấn công xuống Quế Lâm và Liễu Châu, cho đến ngày 19 tháng 2 khi nó quay trở về Nhật Bản; sau đó nó hỗ trợ cho các hoạt động tại miền Trung Trung Quốc từ ngày 27 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4 năm 1940. Akagi được xếp lại lớp như một “tàu có mục đích đặc biệt” (Tokubetse Ilomokan) vào ngày 15 tháng 11 năm 1940, trong khi nó đang được đại tu.[42][43]
Những
kinh nghiệm của Nhật Bản ngoài khơi Trung Quốc đã giúp phát triển hơn
nữa học thuyết về hkmh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Một bài học rút ra
từ cuộc Chiến tranh Trung-Nhật là tầm quan trọng của việc tập trung và tăng cường sức mạnh không lực hải quân về hướng bờ biển. Do đó, vào tháng 4 năm 1941, Hải quân
Nhật cho thành lập Không hạm đội 1, còn gọi là Kido Butai, để kết hợp mọi hkmhhạm đội dưới một quyền chỉ huy duy nhất. Vào ngày 10 tháng 4 Akagi và Kaga được phân về Đội tàu sân bay 1 như một phần của hạm đội hkmh mới, vốn còn có Đội hkmh 2 (bao gồm Hiryū và Sōryū) và Đội hkmh 5 (bao gồm
Shōkaku và Zuikaku).
Học thuyết của Hải quân Nhật nhấn mạnh việc không kích kết hợp lực
lượng mọi phi đoàn không lực của đội hkmh hơn là của từng chiếc riêng
lẽ. Khi nhiều đội hkmh hoạt động phối hợp, sức mạnh không lực của chúng
cũng được kết hợp. Học thuyết về sự tập trung sức mạnh này của Hải quân
Đế quốc Nhật Bản là kiểu tiên tiến nhất trên thế giới. Tuy nhiên, họ vẫn
lo ngại rằng việc tập trung mọi hkmh lại với nhau khiến chúng trở nên
mong manh dễ bị quét sạch toàn bộ bằng một đợt không kích hay giao chiến
mặt biển lớn. Do đó, Hải quân Nhật cũng phát triển một giải pháp
thỏa hiệp, trong đó các hkmh hạm đội sẽ hoạt động gần nhau trong một
đội hkmh, nhưng bản thân các đội sẽ hoạt động trong một đội hình hình
vuông lỏng lẻo, với 7.000 mét (7.700 yd) cách quãng giữa các đội hkmh.[Học
thuyết của Hải quân Nhật quy định các liên đội không lực hkmh không nên
tung ra toàn bộ lực lượng trong một đòn tấn công duy nhất. Thay vào đó,
mỗi chiếc tàu sân bay sẽ phóng lên một loạt bao gồm mọi máy bay có thể
xếp trên mỗi sàn đáp cùng một lúc; đợt tấn công tiếp theo sẽ gồm những
máy bay có thể xếp trên sàn đáp kế tiếp. Như vậy các cuộc
không kích của Không hạm đội 1 sẽ bao gồm ít nhất hai đợt máy bay lớn.
Điểm đặc biệt là Không hạm đội 1 vẫn không được xem là một lực lượng tấn
công chiến lược chủ yếu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, mà chỉ là một
thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm "Trận chiến Quyết định" (Kantai
Kessen) của Hạm đội Liên hợp vốn dựa trên các thiết giáp hạm.[ Akagi được cử làm soái hạm của Không hạm đội 1, một vai trò mà nó đảm nhiệm cho đến khi bị đánh chìm 14 tháng sau đó.[52]
Mặc
dù việc tập trung rất nhiều hkmh hạm đội vào một đơn vị duy nhất là một
khái niệm tiến công chiến lược mới mang tính cách mạng, Không hạm đội 1
mắc phải nhiều khiếm khuyết trong phòng thủ, khiến cho nó, theo nguyên
văn lời của sử gia hải quân Mark Peattie, là một "hàm thủy tinh" (en:glass jaw): "Nó có thể tung ra một cú đấm nhưng không thể chịu đựng một cú đấm trả."[53]
Trên các hkmh Nhật, súng phòng không và các hệ thống điều khiển hỏa lực
kèm theo có nhiều thiếu sót về thiết kế và cấu hình làm giới hạn hiệu
quả của chúng. Ngoài ra, lực lượng tuần tra chiến đấu trên không (CAP: combat air patrol) của hạm đội Nhật bao gồm quá ít máy bay tiêm kích; và còn bị ảnh hưởng bởi hệ thống cảnh báo sớm không thích đáng, bao gồm việc thiếu sót radar. Hơn nữa, các tàu chiến hộ tống cho hkmh đã không được huấn luyện hay bố trí để hỗ trợ phòng không ở khoảng cách gần. Những
khiếm khuyết này, kết hợp với những điểm yếu trên con tàu đã được mô tả bên trên, cuối cùng đã đưa đến sự diệt vong của Akagi và các hkmh khác của Không hạm đội 1.[54][55][56]
Thế Chiến II: Trân Châu Cảng và các hoạt động tiếp theo
Dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Đại tá Hải quân Kiichi Hasegawa, Akagi là soái hạm của Phó đô đốc Chuichi Nagumo đứng đầu lực lượng tấn công Trân Châu Cảng[42] trong một nỗ lực đánh bại Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Akagi cùng năm hkmh khác, từ một vị trí cách 230 hải lý (430 km) về phía Bắc Oahu, đã tung ra hai đợt máy bay vào sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Trong đợt thứ nhất, 27 máy bay ném bom-ngư lôi Nakajima B5N "Kate" từ Akagi đã nhắm vào các thiết giáp hạm Oklahoma, West Virginia và California trong khi 9 máy bay tiêm
kích Mitsubishi A6M Zero tấn công Căn cứ không quân Hickam. Trong đợt thứ hai, 18 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A "Val" tấn công các thiết giáp hạm Nevada và Pennsylvania, tàu khu trục Shaw, tàu tuần dương hạng nhẹ Raleigh và tàu chở dầu hạm đội Neosho,
trong khi 9 chiếc Zero tấn công nhiều sân bay Hoa Kỳ. Một trong những
máy bay Zero của nó đã bị hỏa lực phòng không Hoa Kỳ bắn rơi trong đợt
tấn công đầu, làm thiệt mạng viên phi công.
Vào tháng 1 năm 1942, cùng với các tàu sân bay khác của các đội tàu sân bay 1 và 5, Akagi đã hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Rabaul thuộc quần đảo Bismarck, khi lực lượng Nhật Bản bành trướng đến khu vực ngoại vi phòng thủ phía Nam để phòng ngừa các cuộc tấn công từ phía Australia. Nó đã cung cấp 20 máy bay ném bom B5N và 9 máy bay tiêm kích A6M Zero cho đợt không kích ban đầu xuống Rabaul vào ngày 20 tháng 1 năm 1942. Hải đội Tàu sân bay 1 tấn công các vị trí Đồng Minh tại đảo Kavieng lân cận vào ngày hôm sau, trong đó Akagi đóng góp 9 chiếc A6M Zero và 18 chiếc D3A. Trong ngày 22 tháng 1, những chiếc D3A và Zero của Akagi lại tấn công Rabaul trước khi nó quay trở về Truk vào ngày 27 tháng 1.[66] Hải đội Tàu sân bay 2, với Sōryū và Hiryū, đã được cho tách ra để hỗ trợ việc chiếm đóng đảo Wake vào ngày 23 tháng 12 năm 1941 và đã không gia nhập trở lại lực lượng tấn công tàu sân bay cho đến tháng 2 năm 1942.[67]
Akagi đã cùng với Kaga và Zuikaku lên đường truy tìm lực lượng Hải quân Mỹ đã thực hiện không kích xuống quần đảo Marshall vào ngày 1 tháng 2 năm 1942 trước khi được gọi quay trở về. Đến ngày 7 tháng 2, Akagi và các hkmh của các đội tàu sân bay 1 và 2 được lệnh tiến về phương Nam đến biển Timor, nơi mà vào ngày 19 tháng 2, từ một điểm cách 100 hải lý (190 km) về phía Đông Nam điểm cực Đông của Timor, chúng tung ra cuộc không kích xuống Darwin, Australia trong một nỗ lực nhằm phá hủy các cơ sở cảng và sân bay tại đây để ngăn ngừa mọi sự can thiệp vào công cuộc chiếm đóng Java. Akagi
đã đóng góp cho 18 chiếc B5N, 18 chiếc D3A và 9 chiếc Zero cho cuộc tấn
công, gây cho đối phương sự bất ngờ hoàn toàn. Tám tàu đã bị đánh chìm,
trong đó có tàu khu trục Hoa Kỳ Peary, và mười bốn chiếc khác bị hư hại. Không có tổn thất nào đối với lực lượng không quân trên tàu sân bay, và cuộc
tấn công đã có hiệu quả trong việc ngăn chặn Darwin tham gia vào việc kháng cự của Đồng Minh tại Java. Sang ngày 1 tháng 3, tàu chở dầu Mỹ Pecos bị máy bay D3A xuất phát từ Sōryū và Akagi
đánh chìm; rồi đến cuối ngày hôm đó chúng tiếp tục, phối hợp với hỏa
lực hải pháo của hai thiết giáp hạm và hai tàu tuần dương hạng nặng tháp
tùng, tấn công đánh chìm tàu khu trục Mỹ Edsall. Akagi cùng với các tàu tháp tùng tiếp tục hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Java; phần đóng góp đáng kể nhất có lẽ là đã cung cấp 18 chiếc "Kate" và 9 chiếc "Zero" cho cuộc không kích vào ngày 5 tháng 3 xuống Tjilatjap. Trận này tỏ ra rất thành công, đánh chìm tám tàu trong cảng mà không có máy bay nào của Akagi bị mất. Hầu hết lực lượng Đồng Minh tại Đông Ấn thuộc Hà Lan đã đầu hàng vào cuối tháng 3. Kido Butai sau đó di chuyển đến vịnh Staring thuộc đảo Celebes để tiếp nhiên liệu và nghỉ ngơi; rồi đến ngày 26 tháng 3, Akagi lại lên đường cùng với phần còn lại của lực lượng đặc nhiệm để tham gia cuộc Không kích Ấn Độ Dương. Mục tiêu của Hải quân Nhật là nhằm đánh
bại Hạm đội Đông Anh Quốc và tiêu diệt sức mạnh không lực Anh tại khu vực này, đảm bảo cho sườn của cuộc xâm chiếm Miến Điện.[
No comments:
Post a Comment