Phát biểu của GS
Nguyễn Lý-Tưởng, cựu dân biểu
VNCH
Nhân chứng trong
vụ thảm sát Mậu Thân ở Huế cách
nay 40 năm (1968-2008) trong
cuộc hội thảo về chiến tranh
Việt Nam tổ chức tại Việt Nam
Center (Lubbock, Texas) từ ngày
13 đến 15/3/2008
Kính thưa quý vị,
Tôi xin tự giới
thiệu: Tôi là Nguyễn Lý-Tưởng,
bốn mươi năm trước đây, lúc đó
tôi là dân biểu Hạ Nghị Viện (1967-1971), tôi đại diện
cho cử tri tỉnh Thừa Thiên, nơi
đã xảy ra cuộc tổng tấn công của
Việt Cộng vào thành phố Huế vào
ngày 31 tháng 01 năm 1968 đúng
vào dịp Tết Mậu Thân, khiến cho
hàng ngàn người dân vô tội bị
Việt Cộng giết chết một cách dã
man, trong đó có những nhà tu
hành, sinh viên học sinh, người
buôn bán và làm nghề tự do và
các công chức, quân nhân đang ăn
Tết với gia đình trong tay không
có vũ khí...
Trước
Tết mười ngày, tôi đã có mặt tại
Huế, đã đi thăm và tiếp xúc với cử
tri của tôi tại các quận trong
tỉnh Thừa Thiên. Sáng 30 Tháng
Chạp (29/1/1968), tôi đã thăm và chúc Tết các
cấp lãnh đạo chính quyền quân sự,
hành chánh và tôn giáo tại địa
phương như Trung Tướng Hoàng Xuân
Lãm, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng,
Trung Tá Phan Văn Khoa, Ðức Tổng
Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền, Thượng
Tọa Thích Ðôn Hậu...
Khi tiếng súng
bùng nổ tại Huế và Quảng Trị,
tôi đã có mặt trong vùng này...
Ngày 3 Tết (01 tháng
2/1968) tôi đã có mặt
tại nhà của Trung Tướng Hoàng
Xuân Lãm tại Ðà Nẵng, tôi đã gặp
ông Võ Lương (giám
đốc cảnh sát 5 tỉnh vùng I tại
Ðà Nẵng), tôi đã dùng
điện thoại liên lạc với Ty Cảnh
Sát Thừa Thiên... Từ Ðà Nẵng,
tôi vào Nha Trang, ở lại một
đêm, sáng hôm sau, ngày 5 Tết
(3 tháng 2/1968), tôi có mặt tại
Hạ Nghị Viện Sài Gòn để họp tại
Quốc Hội.
Ngày
9 tháng 2/1968, từ Sài Gòn , tôi
trở ra Huế , lúc bấy giờ quân đội
VNCH và Mỹ đã chiếm lại phía Hữu
Ngạn sông Hương (quận
3) nhưng
vùng Phủ Cam, Vỹ Dạ, Gia Hội và
Thành Nội còn trong vùng Việt Cộng
kiểm soát. Tôi đã gặp ông Nguyễn
Văn Tăng (quận
trưởng Hương Thủy) gặp các sĩ quan tại Tiểu Khu
Thừa Thiên, đã ở lại 01 đêm tại Ty
Cảnh Sát Thừa Thiên và 01 đêm tại
Tiểu Ðoàn 12 Pháo Binh (gần
phi trường Phú Bài), tôi đã có mặt trong cuộc họp
tại phi trường Phú Bài (ngày
9/2/1968) cùng
với phái đoàn Trung Ương Sài Gòn (do
Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ,
Ðại Tướng Cao Văn Viên... hướng
dẫn ra Huế)
để nghe các vị chỉ huy quân sự tại
Ðà Nẵng và Huế (Trung
Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh
Quân Ðoàn I; Chuẩn Tướng Ngô
Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn 1
và Trung Tá Phan Văn Khoa, Tỉnh
trưởng Thừa Thiên)... báo cáo tình hình...
Tôi
đã gặp các sĩ quan tại Tiểu Khu
Thừa Thiên như Ðại Tá Cao Khắc
Nhật (trưởng
phòng 3 Quân Ðoàn I tăng cường
ra Huế, Trung Tá Nguyễn Giang,
trưởng phòng 3 Tiểu Khu...). Tôi đã ở lại một đêm tại Ty
Cảnh Sát Thừa Thiên và một đêm tại
Tiểu Ðoàn 12 Pháo Binh (gần
phi trường Phù Bài)... Ngoài ra, tôi cũng đã đến
thăm và tiếp xúc với các gia đình
nạn nhân bị VC sát hại và đã chứng
kiến các mồ chôn tập thể... Gia
đình tôi có 5 người chết trong Tết
Mậu Thân trong đó có bố vợ (nhân
viên của công ty Thủy Ðiện Huế,
56 tuổi),
em vợ (học
sinh 16 tuổi),
người cháu của tôi (học
sinh 13 tuổi)...
Tôi đã nghe các nhân chứng kể lại
những gì họ đã trải qua... Như
thế, tôi đã có được các điều kiện
thuận lợi nhất để tìm hiểu, thu
thập các dữ kiện... Năm 1998, nhân
dịp kỷ niệm 30 năm Tết Mậu Thân (1968-1998), tôi và một số nhân chứng đã
thực hiện một tuyển tập tài liệu
về “Thảm sát Tết Mậu Thân 1968 tại
Huế” và năm 2008 nầy, kỷ niệm 40
năm (1968-2008) chúng tôi đã bổ túc và tái bản
sách nầy...
Với tư cách một
nhân chứng, tôi xin trình bày
một vài nhận xét như sau:
(1).
Trước Tết Mậu Thân
(1968),
đài phát thanh Hà Nội và Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam (do
Hà Nội lãnh đạo) đã đưa ra đề nghị ngưng chiến
trong 01 tuần. Phía Việt Nam Cộng
Hòa và Hoa Kỳ đề nghị 03 ngày để
cho quân đội và dân chúng vui Tết.
Theo
tinh thần tôn giáo và văn hóa
của dân tộc Việt Nam, Tết là một
ngày thiêng liêng, mọi người
thường chúc tụng nhau những điều
tốt đẹp, và không bao giờ có
hành động gây tổn thương cho kẻ
khác, nhất là không làm những
điều tàn ác, dã man như bắt bớ,
giam cầm, đánh đập, tra tấn,
giết người vô tội... Nhưng Việt
Cộng đã tấn công vào các thành
phố miền Nam, đặc biệt tại thành
phố Huế...
(2).
Cung điện của các vua nhà Nguyễn
tại Huế là di tích văn hóa, lịch
sử được UNESCO (Tổ
Chức Văn Hóa Liên Hiệp Quốc) công nhận, nhưng Việt Cộng đã
biến nơi đó thành chiến trường để
cho bom đạn tàn phá!
(3).
Hàng chục, hàng trăm nạn nhân bị
chôn trong một cái hố sâu, tay bị
trói bằng dây điện, giây tre, bị
đâm bằng lưỡi lê, bị đánh bằng cán
cuốc, bị bắn bằng súng hoặc bị
chôn sống. Ða số các nạn nhân là
những nhà tu hành, sinh viên học
sinh, những người dân vô tội,
những người không có vũ khí trong
tay, những người đang ở trong nhà
với vợ con, những người đã chấp
hành lệnh trình diện để được học
tập về chủ trương chính sách của
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam...
Mồ chôn tập
thể:
Các nạn nhân bị thảm sát tại Huế
và Thừa Thiên được tìm thấy tại
trường tiểu học Gia Hội, chùa
Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu
Chủng Viện, khu vực phía Tây Huế
gần lăng Tự Ðức và lăng Ðồng
Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa
Ðông Ba, trường An Ninh Hạ, trường
Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn,
gần lăng Gia Long, gần chùa Tường
Vân, Ðông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương
Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú
Thứ),
Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Ðá
Mài... tất cả 23 địa điểm tại tổng
cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn
khoảng trên 3,000 nạn nhân thuộc
tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được
thân nhân xác nhận là chết hoặc bị
bắt đi thủ tiêu, mất tích... không
biết họ đã bị giết chết và chôn
xác ở đâu?!
Dã man nhất là
tại Khe Ðá Mài (thuộc
vùng núi Ðình Môn, Kim Ngọc,
quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên) Việt Cộng đã
dùng súng trung liên, đại liên,
lựu đạn và mìn giết tập thể các
nạn nhân, vất xác xuống dưới
khe, lâu ngày thịt thối rữa bị
nước cuốn đi, chỉ còn 428 sọ
người, xương người dồn lại một
đống. Người ta đã dựa vào các
dấu vết còn lại của nạn nhân như
áo len, tượng ảnh, giấy căn cước
bọc nhựa (ID)... để biết được
thân nhân của mình đã chết ở
trong đống sọ và xương lẫn lộn
đó. Ða số những nạn nhân nầy là
giáo dân bị bắt ở nhà thờ Phủ
Cam vào đêm mùng 5 Tết (3
tháng 2/1968) Người ta cũng
tìm thấy vết tích của hai ông Lê
Hữu Bôi (chủ tịch
sinh viên Phật tử năm 1963) và Lê Hữu Bá (sĩ
quan Quân Cảnh) tại Khe Ðá Mài.
Các em học sinh như Bùi Kha (16
tuổi),
Phan Minh (16 tuổi), Nguyễn Duyệt (17
tuổi)
và nhiều bạn trẻ khác thuộc giáo
xứ Phủ Cam cũng bị VC giết hại
tại đây...
Một nhân
chứng còn sống sót đã kể lại cho 2
Linh Mục Nguyễn Hữu Giải và Phan
Văn Lợi vụ thảm sát những giáo dân
vô tội tại Khe Ðá Mài như sau:
“Hồi ấy, tôi mới
17 tuổi, đang là học sinh trung
học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất
an, gia đình tôi đã từ quê chạy
về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ
Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy
Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay
gọi là phường Phước Vĩnh , thành
phố Huế) từ mấy năm
trước... Khuya mùng Một rạng
mùng Hai Tết, tôi nghe tiếng
súng nổ khắp nơi và được tin
Việt Cộng đã chiếm nhiều nơi
trong thành phố Huế... Cả gia
đình tôi cũng như nhiều giáo dân
ở Phủ Cam đều chạy đến ẩn núp
trong nhà thờ để tránh bom đạn.
Lính Nghĩa quân của xã và một số
quân nhân về phép chiến đấu bên
ngoài để bảo vệ đồng bào. Sau
mấy ngày, không có tiếp viện nên
chiều mùng 5 Tết ( 3
tháng 2 / 1968) phải rút
chạy... Khuya mùng 5 Tết, Việt
Cộng tràn vào nhà thờ bắt những
người từ 15 tuổi đến ngoài 50
tuổi bất kể là học sinh hay
thường dân ... và tuyên bố ‘cho
đi học tập trong vòng 3 ngày sẽ
trở về’ trong đó có tôi... Sáng
hôm sau, chúng tôi bị dẫn đi
theo đường xe lửa từ Phủ Cam ra
Bến Ngự và đến chùa Từ Ðàm...
Tại đây tôi thấy Việt Cộng rất
đông vừa du kích địa phương vừa
bộ đội miền Bắc... Ngôi nhà 5
gian thì 4 gian đã đầy người bị
bắt từ mấy ngày trước, còn một
gian để giam giữ những người mới
bị bắt... Tôi gặp những người
quen như ông Tín (thợ
chụp ảnh), ông Hồ (thợ
hớt tóc), anh Trị (con
ông Ngọc người đánh đàn trong
nhà thờ), ông Hoàng (Ðông
y sĩ ở Chợ Xép), hai người con
trai ông Thắng (làm
nghề nấu rượu nuôi heo), hai người con
trai ông Vang (nhạc
sĩ thổi kèn đồng), anh Thịnh (con
ông Năm), hai anh em Bình
và Minh (con ông
Thục),
anh Minh (16 tuổi,
con ông Danh nhân viên Công Ty
Thủy Ðiện Huế) đều là học
sinh... Chúng tôi ngồi tại chùa
Từ Ðàm suốt cả một ngày từ sáng
tới tối không được ăn uống gì
cả... Họ đưa cho chúng tôi mỗi
người một tờ giấy để viết bản
‘khai lý lịch’ tên, nghề nghiệp,
tên cha mẹ, sinh quán ở đâu...
Ai khai gian sẽ bị đem ra bắn...
Tôi thấy một số người bị trói
vào gốc cây bồ đề và bị đem ra
bắn chôn ngay trong sân chùa,
trong đó có anh Hoàng Sự (Cảnh
Sát)
mà tôi biết tên. Họ cho một vài
người về nhắn với gia đình tiếp
thế lương thực và quần áo, thuốc
men cho những người đang bị giam
giữ... Khi trời sẩm tối, họ bắt
chúng tôi ra ngồi xếp hàng giữa
sân chùa. Một anh cán bộ a anh em
tuyên bố:
- Anh em yên tâm,
Cách Mạng sẽ đưa đi học
tập
trong 3 ngày rồi sẽ cho về với gia đình! Bây giờ chúng ta lên đường!
.trong 3 ngày rồi sẽ cho về với gia đình! Bây giờ chúng ta lên đường!
Rồi họ dùng dây
điện thoại trói tay chúng tôi ra
phía sau lưng từng người một,
rồi dùng dây kẽm gai nối 20
người làm một toán. Tôi đếm được
trên 25 toán như thế (tất
cả 500 người). Một người địa
phương đi nhìn mặt anh em chúng
tôi và nói với nhau:
- Không thấy Trọng
Hê và Phú Rỗ trong số giáo dân Phủ
Cam ở đây.
(Anh
Trọng con ông Hê và anh Phú là hai
thanh niên ở Phủ Cam có võ nghệ mà
giới du đãng ở Huế biết tiếng. Hai
anh đã chạy theo lính Nghĩa Quân
xã rút lui khi Việt Cộng vào nhà
thờ! Những người bị bắt đến đây
đều là dân lành vô tội).
Họ
dẫn chúng tôi đi vào đường bên
trái Ðàn Nam Giao, vòng qua Dòng
Thiên An, đến lăng Khải Ðịnh, vòng
phía sau trụ sở Quận Nam Hòa, ra
đến bờ sông Tả Trạch (Thượng
nguồn sông Hương)... Ðến bờ sông, Việt Cộng cho
chặt cây lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người
vượt qua sông
(khu vực lăng Gia Long), thuộc vùng núi Ðình Môn, Kim
Ngọc (vùng
núi tranh).
Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu
vào rừng, ban đêm, trời lạnh lắm,
khi lên đồi, lúc xuống lũng, lúc
lội qua khe... Khoảng 30 bộ đội
miền Bắc dẫn chúng tôi đi, họ dùng
đèn pin hay đuốc để soi đường,
chúng tôi đi trong rừng tre nứa và
cây cổ thụ dày đặc... Khoảng nửa
đêm, chúng tôi được dừng lại để
nghỉ và mỗi người nhận được một
vắt cơm. Chúng tôi đoán đã đi được
trên 10 cây số rồi! Chúng tôi ngồi
gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng ngủ
một chút để lấy sức còn phải đi
tiếp... Bỗng như có linh tính báo
trước, người tôi run lên bần
bật... Tôi nghe hai tên bộ đội nói
nhỏ với nhau:
- Trong
vòng 15-20 phút nữa sẽ thủ tiêu
hết bọn nầy!
Tôi liền ghé miệng
vào tai thằng bạn bị trói ngay
trước mặt:
- Tụi mình ráng mở dây trốn
đi! Mười lăm phút nữa là bị bắn
chết hết đó!
Trời mưa, dây điện
trơn trợt, lát sau, chúng tôi mở
được giây nhưng vẫn ngồi yên sợ
chúng biết. Tôi nói nhỏ:
- Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là
tụi mình chạy nghe!
Bọn Việt Cộng đánh
thức chúng tôi dậy, một tên nói
lớn cho mọi người nghe:
- Chúng ta sắp đến trại học
tập rồi. Ai có vàng, tiền, đồng
hồ, bật lửa... thì đem nộp,
không được giữ trong người...
Học tập xong sẽ được trả lại...”
Thế là bọn
chúng lột sạch và cho tất cả vào
mấy cái ba lô vải. Tên bộ đội đứng
gần chúng tôi còn mang trên vai cả
chục cái radio mà chúng đã cướp
được của dân ở thành phố... Một
tay mang súng, một tay mang các
thứ vừa cướp được, hắn đi chậm lại
cách xa mấy tên kia một quãng...
Chúng tôi bắt đầu xuống dốc, nghe
tiếng nước chảy róc rách... Tôi vỗ
nhẹ vai thằng bạn và cả hai chúng
tôi vung tay và nhanh nhẹn phóng
ra khỏi hàng. Tôi đá mạnh và tên
bộ đội mang nhiều radio... Hắn ngã
nhào! Hai chúng tôi lao vào
rừng...
Trời
tối, rừng già chúng không giám
đuổi theo... Khi nghe tiếng đoàn
người đi khá xa, chúng tôi mới bò
ra khỏi chỗ ẩn núp và đi ngược trở
lại... Chừng 15-20 phút sau, chúng
tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng
lên tiếng súng AK, rồi lựu đạn nổ
vang rền... Một góc rừng rực sáng!
Chen vào đó tiếng khóc la khủng
khiếp... không hiểu sao lúc đó,
tai tôi nghe rất rõ ràng... Lúc đó
khoảng 12-12 giờ 30 khuya... đầu
ngày 8 Tết (6/2/1968).
Về sau tôi mới biết chỗ đó là Khe
Ðá Mài...”.
Một nhân
chứng khác, anh Quỳnh, sinh viên
Huế, con một vị y sĩ làm việc tại
bệnh viện Huế đã về hưu. Gia đình
anh có 3 anh em bị bắt tại nhà thờ
Phủ Cam đưa lên giam giữ tại chùa
Từ Ðàm. Tối hôm đó, Việt Cộng cho
mỗi phòng cử hai người về để nhắn
gia đình mang đồ tiếp tế đến chùa
Từ Ðàm cho những người đang bị
giam giữ... Vì có người anh và
người em cùng bị giam chung một
phòng nên anh được cho về liên lạc
với gia đình... nếu anh không trở
lại thì hai người kia sẽ bị giết.
Suốt đêm hôm đó, anh cầm giấy phép
trong tay, đi liên lạc gõ cửa từng
nhà... Sau đó anh trở lại chùa thì
không thấy ai ở đó nữa. Tất cả
những bánh trái, thức ăn, áo quần
mà các gia đình mang lên chùa tiếp
tế cho các nạn nhân là để cho bộ
đội Việt Cộng ăn... Khi anh Quỳnh
trở lại chùa thì tất cả đã được
dẫn lên núi và đã bị thảm sát tại
Khe Ðá Mài! Anh là người may mắn
thoát chết trong vụ đó. Anh Quỳnh
cũng cho biết:
“Lúc
3 giờ chiều mùng 4 Tết, anh
dang ngồi trong căn phòng giam
thì Lê Hữu Bôi từ phòng bên
cạnh đi qua, biết anh là sinh
viên nên Bôi đến làm quen và
nói nhỏ với anh: “Chúng ta
phải tìm cách thoát khỏi nơi
đây ngay!”
Anh
nhớ rất rõ: “Lúc đó trời
đang rét lạnh, Lê Hữu Bôi
khoác một cái áo choàng rộng,
màu xám”.
Lê
Hữu Bôi và người anh ruột là Lê
Hữu Bá cũng đã bị đem đi giết
trước khi anh Quỳnh trở lại chùa
Từ Ðàm...
Thảm sát tại khu
vực Thành Nội và Gia Hội Huế
Anh
Tuấn (học
sinh trường Nguyễn Du, 16
tuổi)
nhà ở góc đường Nguyễn Thành và
Mai Thúc Loan, thành nội Huế (gần
cửa Ðông Ba) kể lại:
“Sáng
mùng 2 Tết Mậu Thân, Việt
Cộng bắt được 5 người đang
mặc áo quần ngủ hoặc áo quần
thường, đi chân không đem ra
cho đứng sắp hàng ở cửa
thành... Trong số Việt Cộng có
mặt ông Tôn Thất Dương Tiềm là
giáo sư trường Nguyễn Du... và
cũng là thầy dạy của tôi trước
đây... Ông Tiềm mang súng AK,
quần kaki xanh, áo sơ mi
trắng... hễ thấy ông gật đầu
thì tên cán bộ ra lệnh cho mấy
tên bộ đội bắn các nạn nhân...
Thân nhân chạy ra kêu khóc,
xin đem xác các nạn nhân đi
chôn... nhưng chúng không cho,
cứ để xác chết nằm đó đến mấy
ngày... Mấy hôm sau, người ta
mới lén đem xác về chôn... Mấy
ngày sau máy bay trực thăng
của VNCH và Mỹ xuất hiện bắn
xuống cửa Ðông Ba. Cha tôi
nói: ‘Bây giờ ở đây cũng chết,
phải chạy thôi’... Chúng tôi
chạy về hướng Mang Cá, gặp du
kích chặn lại, bắt tôi đi
khiêng đồ đạc... chúng tập
trung được 5 đứa trong xóm như
tôi, đợi đến đêm mới dân chúng
tôi ra cửa Ðông Ba đi qua chùa
Diệu Ðế, bắt đi khiêng gạo,
súng đạn... mấy hôm sau, máy
bay bắn xuống dữ quá ... Tối
đó, chúng tập trung được chừng
mười mấy đứa 15, 16 tuổi, phát
cho chúng tôi mỗi đứa một cái
cuốc, bắt đi đào hầm... cái hố
bề sâu một thước, bề ngang
bằng một sải tay... mỗi đứa
đào một đoạn, nối liền nhau...
Tôi tưởng đào hầm để tránh máy
bay... Lúc 3 giờ sáng, sau khi
đào xong, thì chúng dẫn ra một
số người, tay bị trói đàng
sau, cột thành từng chùm bằng
sợi dây điện thoại màu đen,
mỗi toán chừng 15 người. Chúng
bắt những người đó đứng xoay
lưng về cái hố... Thằng cán bộ
đọc bản án... nói những người
nầy có tội với cách mạng, có
tội với nhân dân... Chúng vừa
đọc xong thì tên du kích bắn
một loạt đạn AK... nạn nhân
rơi xuống hố... có người trúng
đạn, có người không trúng...
cũng ngã lăn xuống hố... chúng
bắt tôi lấp đất lại... Tôi
thấy người ta còn sống, tôi
không chịu lấp đất, chúng đánh
tôi... tất cả mấy đưa chúng
tôi đứa nào cũng khóc rống
lên... chúng dùng AK đánh vào
đàng sau lưng chúng tôi... và
còn dùng cả lưỡi lê đâm chúng
tôi nữa... Chúng nó dùng cán
cuốc đánh vào đầu các nạn nhân
cho chết... Chúng nó bắt tôi
đi chôn người như vậy đến mười
mấy lần... Bộ đội Việt Cộng
toàn nói giọng Bắc... Những
người bị chôn sống, chưa chết,
thở phì phì, ngột thở, chết
dần dần.... Về sau chúng bắt
đi chôn ban đêm, không bắn vì
sợ máy bay trên trời phát
hiện...”.
VC vào nhà số
176 đường Bạch Ðằng (gần
cầu Ðông Ba), Huế, bắt vợ
con ông Từ Tôn Kháng ra đứng
giữa sân và tuyên bố nếu ông
không ra trình diện thì tất cả
vợ con ông sẽ bị giết. Vì thế
ông phải ra nộp mạng. VC trói
tay ông, cột ông vào cọc giữa
sân, xẻo tai, cắt mũi, tra tấn
ông trước mặt vợ con, ccho đến
chết, thật là dã man và kinh
hoàng! Ông Từ Tôn Kháng là
Thiếu Tá, Tỉnh Ðoàn Trưởng Cán
Bộ Xây Dựng Nông Thôn Thừa
Thiên.
Sinh viên bị Việt
Cộng giết:
-
Anh Trần Mậu Tý, sinh viên,
cũng bị bắt, bị tra tấn dã man
cho đến chết.
- Anh Trần Ðình
Trọng, sinh viên trường Kỹ Thuật
Huế, bị bắt ngày 06 tháng
2/1968, tìm được xác ngày
26/2/1968...
Người
buôn bán, làm nghề tự do bị
Việt Cộng giết:
- Chị Nguyễn Thị
Lào, tiểu thương, 48 tuổi, bị
bắt trên đường đi, tay bị trói,
miệng bị nhét giẻ, tìm được xác
tại Gia Hội, bị chôn sống, không
có vết thương.
Nhân
sĩ, trí thức, cán bộ chính
đảng bị Việt Cộng giết:
- Ông Phạm Ðức
Phác, giáo sư, đảng viên Việt
Nam Quốc Dân Ðảng, ông Lê Ngọc
Kỳ, đảng viên Việt Nam Quốc Dân
Ðảng... cũng bị bắt đem đi
giết...
-
Ông Trần Ngọc Lộ, đảng viên
Ðại Việt Cách Mạng ở Phú Vang,
làm nghề tự do, dạy võ thuật,
bị Việt Cộng bắt và bị giết
một lần với người vợ tại Cồn
Hến , để lại bầy con dại...
-
Ông Võ Thành Minh, một nhân vật
hướng đạo kỳ cựu, một người đấu
tranh cho hòa bình, người thổi
sáo ở hồ Leman, Geneve 1954 kêu
gọi hòa bình, cũng bị bắt tại từ
đường cụ Phan Bội Châu (Bến
Ngự) bị
đem lên núi và bị giết... vì ông
từ chối không chịu làm chủ tịch
Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa
Bình tại Huế sau đó VC đã mời
Giáo Sư Lê Văn Hảo... (Theo
lời ông Bảo Lộc, phó tỉnh
trưởng Thừa Thiên, bị bắt lên
núi, giam chung với ông Võ
Thành Minh... kể lại với
Nguyễn Lý-Tưởng).
-
Ông Trần Ðiền, nghị sĩ Thượng
Nghị Viện bị bắt và bị chôn
sống tại Lang Xá Cồn, phía sau
chợ An Cựu... tìm được xác
ngày 9 tháng 4/1968.
Các linh mục và
tu sĩ bị giết:
- Linh Mục Bửu
Ðồng (56 tuổi) chôn chung với
Linh Mục Hoàng Ngọc Bang (73
tuổi) và 2 sư huynh
Dòng La San là Agribert và
Sylvestre tìm được xác ngày 8
tháng 11/1969 tại Lương Viện (Sư
Lỗ) quận
Phú Thứ, tỉnh Thừa Thiên.
- Ngoài ra, còn 3
sư huynh Dòng Thánh tâm là thầy
Bá Long, thầy Mai Thịnh và thầy
Héc Man cùng 3 linh mục người
Pháp là Cha Guy, Cha Urbain và
Cha Cressonnier cũng bị bắt đem
đi giết, tìm được xác ngày
27/3/1968 tại gần lăng vua Ðồng
Khánh .
-
Ba chủng sinh là Nguyễn Văn
Thứ, Phạm Văn Vụ và Nguyễn
Lương, cũng bị bắt tại Phủ Cam
và cũng bị đem đi giết, chết
chung với giáo dân tại khe Ðá
Mài.
Các bác sĩ của
Cộng Hòa Liên Bang Ðức bị giết:
-
Vợ chồng Bác Sĩ Horst Gunther
Krainick,
- Bác Sĩ Raymund
Disher
-
Bác Sĩ Alois Alterkoster
Các bác sĩ nầy
đến giảng dạy tại trường Ðại Học
Y Khoa Huế và giúp bệnh viện
Huế... đã bị bắt và bị giết tại
khu vực gần chùa Tường Vân, phía
Tây Huế... Nhân chứng là Bác Sĩ
Tôn Thất Sang (học trò của các
giáo sư y khoa nói trên) kể lại:
“Tôi
vội nhìn xuống chỗ tay anh quân
nhân đang chỉ , thì thấy 3 quân
nhân đang cùng vài người dân,
tay cuốc, tay xẻng, đang nhẹ
nhàng xúc đất và cát lên từ một
chiếc hầm đào vội, bề dài khoảng
2,5 m, bề ngang khoảng 0,7 m và
chiều cao khoảng 0,9 m, trong đó
có 4 người, đều bị trói thúc ké
(hai
tay quặt ra sau lưng), bằng dây
điện thoại truyền tin, người
này trói dính với người kia
và tất cả đều ở tư thế quỳ
thẳng đứng, ở thái dương
trái là lỗ đạn vào và thái
dương phải là lỗ đạn ra, to
hơn và tàn phá hơn! gương
mặt giờ đây đã đổi dạng, mắt
lồi hẳn ra ngoài thái dương
và hàm toang hoác...”.
Ông Hồ Ðinh là
một đại đội trưởng thuộc tiểu
đoàn 3, trung đoàn 3, sư đoàn 1
bộ binh, kể lại:
“Sau khi
quân ta đánh tấn Việt Cộng
ra khỏi Huế, tôi bị thương
điều trị tại quân y viện
Nguyễn Tri Phương. Tình cờ
gặp đoàn xe của Tiểu Khu
Thừa Thiên đi đào xác hai hố
tập thể Xuân Ổ và Diên Ðại,
tôi đi theo xem. Vùng đó tôi
quá quen thuộc vì hơn 2 năm
qua, đơn vị tôi bảo vệ an
ninh cho vùng đó. Ðoàn xe đi
theo tỉnh lộ rải đá về hướng
Tây Bắc thành phố Huế. Ðến
chợ Sam xe dừng lại vì chỉ
còn cách xa một cây số,
chúng tôi đã ngửi trong gió
biển mùi hôi thối. Ðoàn
người đi bộ tiến về bãi chôn
người cách 500m thì một cảnh
tượng hãi hùng xảy ra. Rõ
ràng là một bức tranh của
quỷ trong truyện Liêu Trai:
Trên các giồng (lằn)
của bãi
cát là những người được đứng
bởi một cọc tre hoặc xuyên
từ đít lên tới đầu chừng 40
cụm, mỗi cụm 5 đến 10 người,
phía dưới chân là những
người bị chặt ngang cổ, có
người bị chặt chân ngang
bụng. Phía dưới chân các
giồng cát thì nước còn ríu
ríu vì trời còn mưa lai rai
suốt cả tháng là những người
bị chôn sống, 2 tay bị buộc
chặt sau lưng rồi chôn quay
mặt lại như đang nói chuyện
với nhau, có người trên đầu
có mũ, có người có một tàn
thuốc gắn vào nón. Tất cả
đều tím đen hoặc rỉ nước
vàng hôi thối ghê gớm. Sau
cùng là các hầm, hầm được
lấp đi lòi chân tay ra
ngoài, mỗi hầm có 4 đến 5
xâm, xuyên qua lòng bàn tay
bằng dây kẽm gai và bị đánh
bằng vật cứng ở sau đầu,
cũng có người bị tan nát
mặt, tất cả đều bị rữa thối
rất khó nhận dạng.”
Những nơi khác
ngoài Huế
Có người cho rằng
những vụ tàn sát dã man chỉ xảy
ra tại Huế, nhưng các nơi khác
đã không xảy ra như thế! Ðiều đó
không đúng. Chúng tôi được biết,
ngoài Huế ra, còn có những nơi
khác như Quảng Trị, Bình Ðịnh,
Gia Ðịnh,v.v...
- Tại Quảng
Trị: ngày 9 tháng 2/1968, tiểu
đoàn K.8 của Việt Cộng đã tấn
công vào làng Dương Lộc (xã
Triệu Thuận, quận Triệu
Phong), chúng bị tổn
thất nặng nề trước sức kháng
cự của nghĩa quân và thanh
niên trong làng, theo một tên
Việt Cộng về hồi chánh tại
Quảng Trị cho biết, có 104
lính bộ đội Việt Cộng bị giết.
Sau khi rút lui, Việt Cộng đã
bắt Linh Mục Giuse Lê Văn Hộ (62
tuổi) và hai em học
sinh là Nguyễn Tiếp (13
tuổi) và Nguyễn Lụt
(15
tuổi)... Ngày 31
tháng 5/1969, nhờ đồng bào địa
phương hướng dẫn, đã tìm được
xác Linh Mục Giuse Lê Văn Hộ
bị chôn sống tại vùng Chợ Cạn
thuộc miền biển quận Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị... Hai
em Tiếp và Lụt mất tích, không
biết đã bị Việt Cộng giết và
chôn ở đâu!
- Tại Gò Vấp,
gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn
(Thiết
Giáp) và vợ là Từ
Thị Như Tùng, bị Việt Cộng
giết cả nhà: vợ chồng và các
con nhỏ bị bắn B.40 chết hết,
chỉ còn một em bé nằm lọt dưới
gầm xe bị thương, còn sống sót
mà thôi. Em nầy hiện còn sống
ở Mỹ.
- Tại Bồng Sơn
(quận
Hoài Nhơn, Bình Ðịnh) Việt Cộng đã
tấn công vào trụ sở xã, người
chỉ huy xã là ông Nguyễn Giảng
không chịu đầu hàng... nên
Việt Cộng đã giết tập thể hơn
200 người trong đó cả đàn bà
và trẻ em 11, 12 tuổi... Nhân
dân địa phương có lập bia kỷ
niệm. Sau 30/4/1975 bia đá nầy
đã bị VC đập phá...
Sau Tết Mậu
Thân, đồng bào của chúng ta ở
Huế nói riêng và miền Nam nói
chung, hễ nghe tin Việt Cộng
đến là gồng gánh, bồng bế nhau
bỏ hết nhà cửa tài sản, lo
chạy lấy thân... Hình ảnh Việt
Cộng đi đôi với thảm sát, đấu
tố, chôn sống, mồ chôn tập
thể...
Biến
cố Mậu Thân xảy ra chưa đầy một
tháng, theo báo chí Cộng Sản
tiết lộ vào năm 1998 (kỷ
niệm 30 năm Mậu Thân
1968-1998)
thì đã có trên 100,000 lính Việt
Cộng chết hoặc mất tích. Theo
thống kê của VNCH có 4954 binh
sĩ tử trận, 15,097 bị thương.
Cộng Sản đã làm cho 627,000 dân
vô tội phải cảnh màn trời chiếu
đất, phải bỏ vùng quê chạy về
thành phố, có 14,300 dân bị chết
và 24,000 người bị thương. Chính
phủ VNCH phải lập ra các trại tỵ
nạn Cộng sản để tiếp đón, lo ăn,
ở, săn sóc thuốc men cho dân...
Riêng tại Huế, chính quyền VNCH
công bố có 6,000 người chết
trong đó có 384 binh sĩ VNCH
chết và 1800 bị thương. Về phía
Mỹ có 147 chết và 857 bị thương.
Thời gian làm dân biểu, tôi được
biết có 4,000 gia đình nạn nhân
CS trong Tết Mậu Thân, ít nhất
có một người chết hoặc mất tích
(riêng gia đình tôi có 2 người
chết và 3 người mất tích). Như
vậy tổng số người chết và mất
tích cả hai bên khoảng 120,000
người. Sau Tết Mậu Thân có 9,461
cán binh Việt Cộng bị bắt hoặc
ra hồi chánh qua chiến dịch
Phượng Hoàng của VNCH. Nhiều đơn
vị bộ đội VC tan nát, không còn
người nào.
Vụ
“Thảm sát Mậu Thân” là một
hành động dã man, diệt chủng
mà Việt Cộng đã để lại trong
lòng thân nhân của những nạn
nhân tại miền Nam Việt Nam,
điển hình là tại thành phố
Huế, một nỗi kinh hoàng, một
niềm uất hận nghẹn ngào, một
món nợ mà đáng lẽ ra con cháu
các nạn nhân phải đòi cho được
kẻ sát nhân phải trả bằng máu!
Vụ
“Thảm sát Mậu Thân 1968 tại Huế”
đến nay đã 40 năm rồi (1968-2008) nhưng phía Cộng Sản không có
một chút hối hận, không có một
lời xin lỗi... Trái lại, trong
những năm gần đây, Hà Nội đã tổ
chức rầm rộ “Kỷ Niệm Chiến Thắng
Mậu Thân” tại Sài Gòn năm 1998,
tại Hà Nội năm 2003 và tại Huế
năm 2008... Tại sao Cộng sản lại
cố khơi dậy biến cố đau thương
đó? Tại sao Cộng Sản lại cố rêu
rao thành tích diệt chủng đó?
Cuộc chiến được mô tả “Những
Người Cầm Súng Ðã Chiến Thắng
Những Người Tay Không, Những
Người Dân Vô Tội” Thật là điều
mỉa mai!
Năm 1997, sáu
sử gia Pháp đã cho ra đời một
cuốn sách dày 846 trang tựa đề
“Le Livre Noir du Communisme”
(Sách Ðen về Cộng Sản)
cho
biết trong vòng 80 năm kể từ
ngày Ðảng Cộng sản lên nắm
chính quyền tại Nga
(1917-1997), đã có trên
100 triệu người bị chết vì họa
Cộng Sản. Ngày 12 tháng 6 năm
2007 tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn,
TT Bush đã khánh thành đài
tưởng niệm nạn nhân Cộng Sản
trên thế giới. Ðiều đó nhắc
nhở mọi người đừng quên tội ác
của Cộng Sản trong Tết Mậu
Thân 1968.
Chúng tôi không
chủ trương trả thù khi nhắc lại
vụ thảm sát Mậu Thân 1968. Chúng
tôi chỉ muốn nhắn với các thế hệ
tương lai “xin
đừng bao giờ tái diễn những
hành động dã man, tàn ác như
thế nữa!”.
Sau
Tết Mậu Thân, có một lần tôi
được hướng dẫn phái đoàn báo
chí, truyền hình ngoại quốc
đến Huế chứng kiến các mồ chôn
tập thể. Tôi thấy các nạn nhân
nằm ôm ấp, gối đầu lên nhau
dưới một cái hố sâu trong đó
gồm đủ mọi thành phần tôn
giáo, chính đảng... Và sau
ngày 30/4/1975, tôi đã gặp đủ
mọi thành phần quốc gia trong
nhà tù như thế... Khi đưa tay
ra bốc một nắm đất dưới đáy mồ
chôn tập thể ở Huế đã thấm máu
các nạn nhân, tôi không thể
phân biệt được trong nắm đất
đó có máu của ai? Cũng như khi
cửa nhà tù đóng lại thì anh em
chúng ta bất kể là người của
tôn giáo nào, đảng phái nào,
đều có một kẻ thù chung là
Cộng Sản.
(Tài
liệu này đã được dịch ra tiếng
Anh và phát cho một số người Mỹ
tham dự hội thảo).
__._,_.___
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic | Messages in this topic (1) |
No comments:
Post a Comment