ĐẠI NHẢY VỌT- TRUNG CỘNG SẢN XUẤT QUÂN DỤNG CAO CẤP
TRUNG
CỘNG SẢN XUẤT MÁY BAY THẾ HỆ MỚI DỄ DÀNG NHƯ SẢN XUẤT ĐỒ CHƠI TRẺ CON-
MỘT HÌNH THỨC PHÔ TRƯƠNG SỨC MẠNH - RẤT DỄ NHẬN BIẾT.
ĐẠI NHẢY VỌT- TRUNG CỘNG SẢN XUẤT QUÂN DỤNG CAO CẤP
tka23 post
Dư luận thế giới hết sức sửng sốt đồng thời cũng đặt ra câu hỏi rằng:
Tại sao chỉ trong một thời gian ngắn mà quốc gia Đông Bắc Á này lại tung
ra nhiều nhiều loại máy bay chiến
đấu mới như vậy? Phẩm chất của những máy bay này ra sao? Những phương
tiện này có ý nghĩa gì đối với ngành công nghiệp hàng không và không
quân Trung cộng ?
Bị dồn vào đường cùng
Nếu
tính theo chu kỳ nghiên cứu chế tạo một QUÂN DỤNG CAO CẤP mới thông
thường, trung bình phải mất 15 năm mới có thể chế tạo một máy móc quân sự đòi hỏi kỹ thuật cao như máy bay chiến đấu.
Lô máy bay quân sự hiện đại này của không quân cộng được tập trung chế tạo hồi cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Các chuyên viên quân sự Trung cộng cho
rằng, từ thập kỷ 1990 đến nay, thế giới đã xảy ra mấy cuộc chiến tranh
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thay đổi trong chiến tranh
và trong nghiên cứu, chế tạo của không quân Trung cộng .
Máy bay tàng hình J20 của Trung cộng .
Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 là mốc thời gian thay đổi quan điểm của không quân Trung cộng . Thời gian đó, các ý tưởng xây dựng lực lượng không quân Trung cộng mới chỉ tập trung vào mô hình Liên Xô thời kỳ Chiến tranh lạnh, trang bị quân sự vẫn bắt chước chế tạo máy bay chiến đấu Mig-21, máy bay khu trục J-7, J-8 của Liên Xô. Các nước phương Tây cho rằng, lúc đó khoảng cách giữa sức mạnh không quân Trung cộng với trình độ tiến bộ của thế giới ít nhất là 20 đến 30 năm.
Cùng thời điểm đó, chiếc máy bay tàng hình đầu tiên trên thế giới F-117 do Mỹ chế tạo đã được đưa vào sử dụng trong chiến tranh, máy bay oanh tạc chiến lược tàng hình B-2 cũng đã trình làng.
Trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh, quân đội các nước đã thu thập được lượng tin tình báo khổng lồ dưới sự trợ giúp của máy bay cảnh báo sớm. Đặc điểm của chiến tranh giai đoạn này là các loại máy bay phóng ra rất nhiều đầu đạn laser, tỉ lệ các vụ không kích lớn hơn rất nhiều so với tấn công mặt đất.
Vương Á Nam – chuyên gia quân sự Trung cộng cho
rằng, việc Mỹ sử dụng hệ thống vũ khí điện tử và vũ khí với độ chính
xác cao , trong chiến tranh vùng Vịnh đã khiến lực lượng không quân cảm
nhận được một khoảng cách lớn rất khó rút ngắn. Quân đội giải phóng nhân
dân Trung Quốc (PLA) bắt đầu ý thức được rằng, cần phải chuyển đổi cuộc chiến
tranh trong điều kiện bình thường thành chiến tranh kỹ thuật cao.
Tuy nhiên, chiến tranh vùng Vịnh chỉ là một cú đấm nhỏ đối với không quân
Trung cộng , mấy cuộc chiến tranh sau đó đã khiến quân đội nước này
cảm thấy thực sự thua sút và lép vế. Năm 1999, trong thời gian NATO
không kích Nam Tư, chính máy bay tàng hình B-2 đã ném bom với độ chính xác cao vào Đại sứ quán Trung cộng tại Nam
Tư.
Bài học máu này đã khiến Trung cộng nhận thức được tính cấp bách của vấn đề phải tối tân hóa quân sự . Và năm 2000, trước áp lực của Mỹ, Israel đã từ chối bán máy bay cảnh báo sớm Phalcon cho Trung cộng .
Sự kiện này đã khiến PLA chấm dứt ý tưởng “dùng tiền để mua chiến lược hiện đại hóa quân sự ”.
Ông Vương Á Nam cho rằng, sự hiện đại hóa trong quân sự của Trung cộng là do Mỹ ép mà ra, nếu không có cảm giác thiếu an toàn do bị Mỹ bao vây, Trung cộng sẽ không dồn hết mọi nhiệt huyết cho chiến lược tối tân hóa quân sự .
Ngoài ra, sau khi quan sát những tiến bộ vượt bực của quân đội Mỹ ở
chiến trường Kosovo, Afghanistan và Iraq, năm 2001-2003, PLA đã đưa ra
chiến lược “đánh thắng chiến tranh trong điều kiện thông tin hóa”, đây
là điểm mấu chốt thứ hai trong giai đoạn chuyển
đổi của không quân Trung cộng.
20 năm mài kiếm….
Bước tiến khiến phương Tây sửng sốt nhất của ngành kỹ thuật không Trung cộng trong mấy năm qua là tốc độ nghiên cứu, chế tạo trang bị mới. Chỉ trong vòng hơn 1 năm, Trung cộng đã cho bay thử hai loại máy bay chiến đấu tàng hình.
Trong khi đó, dự án chế tạo máy bay F-22 của
Mỹ năm 1985 bắt đầu mời thầu, đến năm 1997, chiếc máy bay F-22 đầu tiên mới được bay thử nghiệm;
Lọai máy bay chiến đấu tàng hình F-35 còn
“chạy marthon” lâu hơn, đến năm 2006 mới thử nghiệm chuyến bay đầu tiên.
J10 do Trung cộng tự sản xuất với sự trợ giúp của Israel.
Giải thích điều này, một chuyên viên không quân của Trung cộng phân tích rằng, khi nghiên cứu, chế tạo một trang mới phải trải qua thời gian nghiên cứu thăm dò, thực tiễn, liên quan đến rất nhiều lĩnh vực chưa biết, chính vì thế cần từ 15 đến 20 năm. Tuy nhiên, với vai trò là người đi sau, Trung cộng có
thể học những kinh nghiệm của người đi trước, vận dụng tối đa những
thành tựu kỹ thuật chứ không cần thiết phải dò dẫm từng bước. Đây là
nguyên nhân khiến PLA có thể hoàn thành nghiên
cứu, chế tạo sớm hơn.
Ví dụ, khi chế tạo máy bay chiến
đấu
F-35, Mỹ đã rất sáng tạo và phát minh ra cửa hút khí khuếch tán siêu âm
(DSI). Thiết kế này vừa không ảnh hưởng đến hiệu quả tàng hình, đồng
thời còn cải thiện được hiệu suất hút khí. Và Trung cộng đã nhanh chóng vận dụng kỹ thuật này trong sản xuất máy bay chiến đấu
FC-1, J-10…
Ông Vương Á Nam cho rằng, sở dĩ Trung cộng nhanh chóng
tung ra loại máy bay thế hệ mới như vậy là do ngành kỹ thuật hàng không nước này cũng đã có sự phát triển vượt bậc. Năm 2005, máy bay chiến đấu Made in China J-10 được đưa vào sử dụng, sự kiện này được báo chí Trung cộng miêu tả là “20 năm mài kiếm”. Từ khi đất nước Trung Hoa mới được thành lập, Trung cộng đã nhập máy bay Mig-15 của Liên Xô, cho đến sau này bắt chước Liên Xô chế tạo J-6, J-7, ngành kỹ nghệ hàng không Trung cộng không có đủ kinh nghiệm chế tạo một chiếc máy bay chiến đấu hoàn chỉnh, đồng thời cũng thiếu các máy móc và đội ngũ chuyên viên lành nghề.
Chính vì vậy, sự ra đời của J-10 không chỉ đánh dấu Trung cộng đã có thể tự chủ sản xuất máy bay chiến
đấu tối tân , mà khi chế tạo nó đã giúp quốc gia này tích lũy được một
loạt kinh nghiệm vốn là nền tảng không thể thiếu trong ngành ,kỹ thuật
hàng không như thiết kế rada, phần mềm điều khiển bay…
Sự tiến bộ trong ngành kỹ thuật điện tử đã khiến hệ thống điện tử hàng không Trung cộng thu hẹp được khoảng cách với phương Tây, đây cũng là nguyên nhân khiến Trung cộng có thể hùng hồn tuyên bố máy bay cảnh báo sớm KJ-2000 mà nước này mới cho trình làng vào tháng 11-2012 vừa qua có tính năng vượt trội so với máy bay cảnh báo sớm E-3C của Mỹ.
Vẫn còn khó khăn
Các chuyên viên quân sự của Trung cộng cho rằng, bài toán tiếp theo mà thế hệ máy bay chiến đấu mới của Trung cộng phải
đối phó là làm thế nào để chuyển hóa các dự án đã nghiên cứu sang sản xuất hàng loạt.
Kinh nghiệm của phương Tây đã chứng minh được rằng, trong khi đưa vào sản xuất hàng loạt, những mô hình máy
bay đã thử nghiệm thường phải chỉnh sửa, bổ sung nhiều chi tiết, trong đó một nguyên nhân rất quan trọng là một số thiết kế không phù hợp với việc sản xuất hàng loạt. Hiện tại hầu hết các mô hình máy bay chiến đấu mới ra trình làng của Trung cộng còn đang ở trong giai đoạn nghiên cứu, chế tạo. Đây là bài toán nan giải đang chờ giải pháp, bởi
nó liên quan đến rất nhiều yếu tố như trình độ quản lý công nghiệp
hiện đại hóa, sự đồng bộ trong khâu nghiên cứu, chế tạo và đơn vị sản xuất…
Các chuyên viên quân sự Mỹ thì cho rằng, điểm yếu
lớn nhất của máy bay chiến đấu thế hệ mới của Trung cộng là
không có kinh nghiệm thực tế, chính vì vậy những thiếu sót trong thiết
kế không được bộc lộ rõ ràng , chính vì thế rất khó tìm thấy để cải
tiến.
Để giải quyết nhược điểm này, vài năm gần đây, lực lượng không quân Trung cộng thường xuyên tổ chức các đợt diễn tập quân sự với cường độ cao và va chạm để phát giác những khiếm khuyết, trong hệ thống máy bay chiến đấu kiểu mới của mình.
Vấn đề khó khăn căn bản Trung cộng vì học lóm và sao chép, chỉ biết
đằng ngọn , không thấu đáo tận gốc nên rất khó đi vào căn cơ để cải
ti1ên hoàn hảo.
TỔNG HỢP
__._,_.___
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic |
No comments:
Post a Comment