Sunday, January 6, 2013

HỎA TIỂN CHỐNG  HOẢ TIỂN ĐẠN ĐẠO
tka23 post
  Hỏa tiển chống hỏa tiển  đạn đạo (anti-ballistic missile - ABM) là một hỏa tiển  được chế tạo để chống lại các hỏa tiển đạn đạo (một hỏa tiển dùng để phòng thủ hỏa tiển). Một hỏa tiển đạn đạo được sử dụng để mang đầu đạn hạt nhân, hóa học, sinh học hoặc các đầu đạn thông thường, hỏa tiển sẽ bay theo quỹ đạo bay đường đạn. Thuật ngữ " chống hỏa tiển đạn đạo" mô tả bất kỳ các hệ thống hỏa tiển nào được thiết kế để chặn những hỏa tiển đạn đạo. Tuy nhiên từ ngữ này đề cập đến các hệ thống hỏa tiển chống hỏa tiển đạn đạo (ABM) đựoc thiết kế để chặn, phá hủy các hỏa tiển đạn đạo liên lục địa tầm xa mang đầu đạn hạt nhân (ICBM).
   Chỉ có hai hệ thống hỏa tiển chống hỏa tiển đạn đạo (ABM) trước đây hoạt động để chống lại hỏa tiển đạn đạo liên lục địa, một loại của Hoa Kỳ là hệ thống Bảo vệ an toàn (Safeguard), loại này sử dụng các loại hỏa tiển LIM-49A Spartan và Sprint; một loại của Nga là Hệ thống hỏa tiển chống hỏa tiển đạn đạo A-35, loại này sử dụnghỏa tiển đánh chặn Galosh, các hỏa tiển sử dụng trong hai hệ thống ABM này đều mang đầu đạn hạt nhân. Safeguard của Mỹ chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn; hệ thống của Nga đã được cải tiến và hiện vẫn đang hoạt động, hiện nay hệ thống này gọi là A-135 và sử dụng hai kiểu hỏa tiển là Gorgon và Gazelle. Tuy nhiên hệ thống AMD đã được chấp nhận để hoạt động. Nó không đạn nổ, nhưng phóng một đạn động năng.
Có ba hệ thống hỏa tiển chống hỏa tiển  đạn đạo của Mỹ và hiện đang hoạt động gồm:
   Hệ thống tầm thấp giai đoạn cuối Patriot của lục quân Mỹ,
   hệ thống tầm cao giai đoạn cuối Terminal High Altitude Area Defense (THAAD),
  Hệ thống tầm cao giai đoạn giữa Aegis/Standard SM-3 của hải quân.
  Đối với Nga là các hệ thống đất đối không tầm thấp giai đoạn cuối là S-300 và S-400, tầm trung và cao là hệ thống A-135.
 

 Lịch sử ban đầu của các ABM

 Từ Thế chiến thứ hai đến thập niên 1950

 
Phóng hỏa tiển Nike Zeus
Ý tưởng về việc bắn rơi các rốc két của đối phương , trước khi chúng có thể đánh vào mục tiêu của mình , được bắt đầu bằng việc sử dụng các loại hỏa tiển hiện đại đầu tiên trong chiến tranh, chương trình V-1 và V-2 trong Đệ nhị thế chiến của Đức Quốc xã.
  Các máy bay tiêm kích của Anh và Mỹ đã cố gắng phá hủy "buzz bomb" (phi pháo) V-1 trong giai đoạn bay trước khi chạm mục tiêu thu được một vài thành công, dù sử dụng pháo phòng không hạng nặng bắn tập trung , đạt được thành công lớn hơn. Loại hỏa tiển V-2 là loại hỏa tiển đạn đạo thực sự đầu tiên, không thể phá hủy nó bằng máy bay hoặc pháo binh. Thay vào đó, quân Đồng minh đã thực hiện Chiến dịch Crossbow để tìm kiếm và phá hủy các giàn phóng và hỏa tiển V-2 trước khi phóng.
  Phần lớn chiến dịch này không có hiệu quả, một chiến dịch tương tự cũng được thực hiện  trong Chiến tranh Vùng vịnh, mục tiêu của chiến dịch này là các bệ phóng và hỏa tiển Scud. Trong giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ 2, do lực lượng quân đồng minh tiến nhanh qua Bỉ và Hà Lan nên các bệ phóng của V-2 đã dần bị chiếm hoặc phá hủy.
Lực lượng vũ trang Mỹ bắt đầu thử nghiệm các hỏa tiển chống hỏa tiển không lâu sau Chiến tranh Thế giới II, những nghiên cứu thử nghiệm này đã được thực hiện nhờ vào các nhà khoa học hàng đầu về hỏa tiển  của Đức quốc xã được Mỹ tuyển mộ như Wernher von Braun.
   Nhưng ưu tiên hàng đầu của Mỹ trong giai đoạn sau chiến tranh là phòng thủ chống lại các máy bay ném bom tầm xa của Liên Xô, việc này kéo dài đến cuối thập niên 1950, khi Liên Xô bắt đầu thử nghiệm các hỏa tiển của mình (đặc biệt là việc phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của thế giới là Sputnik vào vũ trụ tháng 10-1957). Hệ thống thử nghiệm ABM đầu tiên là hệ thống V-1000 của Liên Xô (đây là một phần của chương trình ABM "A-35" thử nghiệm), ngay sau Nike Zeus, một biến đổi của hệ thống phòng không hiện có lúc đó của Mỹ. Nike Zeus tỏ ra không thể thực hiện được, và công việc sau đó được thực hiện trên Nike X.
   Phương án nghiên cứu khác của Mỹ là thử nghiệm những vụ nổ vài vũ khí hạt nhân công suất thấp trên độ cao rất lớn phía trên nam Đại Tây Dương, các vũ khí này được phóng đi từ các tàu chiến. Những thiết bị được sử dụng là đầu đạn W25 thúc đẩy phân hạch 1,7 kt.[1] Khi một vụ nổ như vậy xảy ra tia X sẽ được giải phóng và xuyên qua bầu khí quyền Trái đất, gây ra cơn mưa các hạt mang điện trên diện tích hàng trăm dặm vuông. Sự chuyển động của các hạt mang điện này trong từ trường Trái đất gây ra một xung điện từ (EMP) mạnh sẽ tạo ra những dòng điện rất lớn trong bất kỳ vật chất truyền dẫn nào. Mục đích của thử nghiệm là xác định thiệt hại của xung điện từ,  đối với việc định vị bằng radar, thiệt hại đối với các thiết bị thông tin liên lạc và mực độ phá hủy đối với các bảng mạch điện của hỏa tiển  và vệ tinh. Kết quả của dự án không được công bố, dù cái gọi là "các thử nghiệm tác động" tương tự với thử nghiệm trên, vẫn được tiến hành đến năm 1992, đây là một đặc tính bình thường của những thử nghiệm dưới mặt đất tại Địa điểm thử Nevada. "Các thử nghiệm tác động" này được dùng để xác định sức chịu đựng cụ thể của đầu nổ, RV và các thành phần khác như thế nào trong vụ nổ ABM ngoài khí quyền.
Những quốc gia khác cũng nghiên cứu ABM từ rất sớm. Một dự án  tại CARDE ở Canada, nghiên cứu vấn đề chính của các hệ thống ABM. Nghiên cứu này bao gồm phát triển vài bộ dò hồng ngoại  cho dẫn đường giai đoạn cuối, một số các thiết kế thân hỏa tiển, nhiên liệu rắn mới và mạnh hơn, và nhiều hệ thống để kiểm tra tất cả. Sau khi ngân quỹ bị cắt giảm một loạt vào cuối thập niên 1950, nghiên cứu đã bị đình trệ. Một nhánh của dự án là hệ thống Gerald Bull nhằm thử nghiệm vận tốc cao với giá rẻ, gồm các thân hỏa tiển được phóng từ một đạn sabot, sau này đã hình thành nên cơ sở của Dự án HARP.

 Sự phát triển từ thập niên 1960 đến thập niên 1970

 Nike-X, Sentinel và Safeguard

Nike X là một hệ thống của Mỹ với hai hỏa tiển, các loại radar và những hệ thống điều khiển kết hợp. Nguyên bản gốc là Nike Zeus (sau này được gọi là Spartan) được nâng cấp để có thể bay tầm xa và mang đầu đạn có sức công phá hơn 5 megaton dự định dùng để phá hủy các đầu đạn của đối phương với một vụ nổ giải phóng tia X ngoài khí quyền.
  Hỏa tiển thứ hai tầm ngắn hơn gọi là Sprint với gia tốc lớn được thêm vào để tiêu diệt các đầu đạn tránh được hỏa tiển Spartan tầm xa. Sprint là một hỏa tiển rất nhanh (một số nguồn tuyên bố nó tăng tốc lên 8.000 mph (13 000 km/h) trong 4 giây và chịu gia tốc trung bình 100 g) và có một đầu đạn tăng cường bức xạ W66 nhỏ công suất 1-3 kiloton để đánh chặn trong khí quyển.
Spartan phiên bản mới cũng thay đổi cả kế hoạch . Trước đó hệ thống Nike được bố trí gần các thành phố như một biện pháp phóng thủ cuối cùng, nhưng Spartan cho phép đánh chặn các đầu đạn từ xa cách hàng trăm dặm. Do đó thay đổi nền tảng nhằm tạo ra một ô phòng thủ hỏa tiển đạn đạo bao phủ hoàn toàn Mỹ, đã được dành cho một hệ thống có tên gọi là Sentinel. Khi hệ thống này tỏ ra không thể thực hiện được vì những lý do kinh tế, nhiều ý kiến đề xướng  nhiều hỏa tiển nhỏ hơn sử dụng chung hệ thống, đó là Safeguard. Safeguard chỉ bảo vệ các căn cứ ICBM của Mỹ khỏi bị tấn công, về mặt lý thuyết bảo đảm rằng một cuộc tấn công có thể được đáp trả bằng các vụ phóng hỏa tiển của Mỹ, ví dụ như nguyên lý đảm bảo phá hủy lẫn nhau (mutually assured destruction).

 Hệ thống ABM của Nga

Vụ thử tiêu diệt hỏa tiển đạn đạo thực sự và thành công đầu tiên của ABM được điều hành  bởi Lực lượng Phòng không Xô viết (PVO) vào 1 tháng 3-1961. Một hỏa tiển V-1000 thử nghệm (một phần của chương trình "A" ABM) đã được phóng đi từ bãi bắn tập Sary-Shagan, phá hủy một đầu đạn giả tách ra từ một hỏa tiển đạn đạo R-12 phóng đi từ sân bay vũ trụ Kapustin Yar. Đầu đạn giả đã bị phá hủy bởi một vụ va chạm với 18.000 quả cầu cacbua vonfam 140 giây sau khi phóng, trên độ cao 25 km. Hệ thống hỏa tiển  V-1000 dù sao đã bị xem là không đáng tin cậy và bị hủy bỏ nhằm phát triển các ABM trang bị đầu đạn hạt nhân.
Chỉ có duy nhất một hệ thống ABM chống ICBM đã được sản xuất là hệ thống A-35. Hệ thống này ban đầu là một thiết kế một lớp có tầm bắn ra ngoài khí quyển, sử dụng hỏa tiển  đánh chặn Galosh (SH-01/ABM-1). Nó được b ố trí ở 4 vị trí quanh Moskva vào đầu thập niên 1970.
Ban đầu Liên Xô dự định triển khai ở nhiều vị trí, nhưng cuối cùng hệ thống A-35 đã bị giảm xuống còn 2 vị trí  theo hiệp ước ABM 1972. Nó được nâng cấp vào thập niên 1980 thành hệ thống hai lớp có tên là A-135. Hỏa tiển  tầm xa Gorgon (SH-11/ABM-4) được thiết kế để đánh chặn những mục tiêu bên ngoài khí quyển, và hỏa tiển tầm ngắn Gazelle (SH-08/ABM-3) sẽ tiêu diệt những mục tiêu thoát được hỏa tiển Gorgon. ABM-3 và hệ thống Safeguard của Mỹ có kỹ thuật tương tự nhau.[2]

 Vấn đề phòng thủ chống lại MIRV

Thử nghiệm LGM-118A Peacekeeper, có 8 tia lửa từ chỉ một hỏa tiển. Mỗi một tia lửa là một đầu đạn, sức công phá gấp 25 lần vũ khí kiểu Hiroshima.
Các hệ thống ABM ban đầu được phát triển để chống lại những đầu nổ đơn được phóng đi từ các hỏa tiển đạn đạo liên lục địa (ICBM) lớn. Về mặt kinh tế học có vẻ đủ đơn giản; một khi chi phí hỏa tiển tăng nhanh chóng với kích thước, giá của ICBM phóng một đầu đạn lớn sẽ luôn lớn hơn so với nhiều hỏa tiển đánh chặn nhỏ hơn cần để bắn hạ nó. Trong một cuộc chạy đua vũ trang, phòng thủ luôn luôn chiến thắng.
Nhưng đã có nhiều thay đổi đột ngột khi các đầu đạn MIRV (multiple independently targetable reentry vehicle - phương tiện chứa nhiều đầu đạn tấn công nhiều mục tiêu độc lập) được đưa vào sử dụng. Ngay lập tức một bệ phóng không phải phóng một đầu đạn như riêng biệt, mà thay vào đó là nhiều đầu đạn. Hàng rào phòng thủ vẫn yêu cầu một hỏa tiển cho mỗi đầu đạn, như chúng vào qua một không gian rộng và không thể bị tấn công bởi vài đầu đạn từ một hỏa tiển  chỉ phải tăng thêm một ít chi phí để thêm vào các đầu đạn, hoặc mồi, so với bên phòng thủ phải xây dụng thiết bị đánh chặn cần thiết để bắn hạ nó.
Thành công của thử nghiệm trên hệ thống Nike X đã thuyết phục được chính quyền của Lyndon B. Johnson nhằm đề xướng một lá chắn phòng thủ ABM mỏng. Trong một bài diễn văn vào tháng 9-1967, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ lúc đó là Robert McNamara đã mô tả lá chắn này là Sentinel. McNamara là một người phản đối ABM kín đáo vì chi phí tính khả thi của nó, McNamara đã tuyên bố Sentinel không phải được định hướng dùng để chống lại các hỏa tiển  của Liên Xô (từ khi Liên Xô có đủ hỏa tiển để chôn vùi bất kỳ hệ thống phòng thủ của Mỹ), mà nó sẽ chống lại các mối đe dọa hạt nhân tiềm tàng từ Trung cộng
  Trong lúc đó, một cuộc tranh luận công khai về năng lực của các ABM các nổ ra. Thậm chí trước khi vấn đề MIRV khiến cho ABM không còn hiệu lực khả thi vào cuối thập niên 1960, một số khó khăn kỹ thuật đã làm dấy lên các câu hỏi về khả năng của hệ thống ABM trước các cuộc tấn công hàng loạt lớn. Một vấn đề là FOBS (Fractional Orbital Bombardment System - Hệ thống ném bom quỹ đạo phân đoạn) đưa ra các cảnh bảo nhỏ cho hệ thống phòng thủ. Vấn đề khác là độ cao EMP (xung điện từ) (dù từ đầu đạn hạt nhân tấn công hay phòng thủ) có thể làm hệ thống radar phòng thủ mất tác dụng.
Để những khó khăn về kỹ thuật sang một bên, cuộc tranh luận quay về một quan điểm kỳ quặc: không có sự phòng thủ toàn bộ nào tốt hơn bất kỳ sự phòng thủ nào. Tức là, một ý nghĩ sai lầm về sức mạnh an ninh có thể ủng hộ ABM-bảo vệ quốc gia để leo thang chống lại các mối đe dọa nhỏ, tin rằng chúng sẽ bảo vệ quốc gia chống lại bất kỳ sự đáp trả nào. Bởi lập luận này đơn giản cho việc bắt đầu triển khai một hệ thống ABM, như vậy có thể thúc đẩy một cuộc tấn công qui mô lớn trước khi nó có thể hoạt động được và do đó đáp trả lại một cuộc tấn công như vậy là vô ích. Khuynh hướng kỳ lạ của những lý lẽ đề này như vậy đã đặt hệ thống trong một vị trí dễ gây khủng hoảng: nó đã không thể hoạt động, nhưng nếu nó hoạt động thì tình hình sẽ tồi tệ hơn.

 Hiệp ước hỏa tiển chống hỏa tiển đạn đạo 1972

Những vấn đề khác nhau về chính trị, kinh tế và kỹ thuật đã dẫn đến Hiệp ước ABM (Hiệp ước Chống hỏa tiển đạn đạo) năm 1972, hiệp ước này hạn chế việc triển khai các hỏa tiển  chống hỏa tiển đạn đạo chiến lược (không phải chiến thuật) giữa Liên Xô và Mỹ.
Dưới hiệp ước ABM 1972 và hiệp ước sửa đổi 1974, mỗi quốc gia chỉ được phép triển khai một hệ thống ABM với chỉ 100 hỏa tiển đánh chặn nhằm bảo vệ một mục tiêu quan trọng. Liên Xô đã triển khai hệ thống A-35 (sử dụng hỏa tiển đánh chặn Galosh), nhằm bảo vệ Moskva. Mỹ triển khai hệ thống Safeguard (sử dụng hỏa tiển đánh chặn Spartan/Sprint) để bảo vệ căn cứ hỏa tiển đạn đạo tại Căn cứ không quân Grand Forks, North Dakota, năm 1975. Hệ thống Safeguard của Mỹ chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn. Hệ thống của Nga đã được cải tiến với tên gọi A-135 và hiện vẫn đang bảo vệ quanh Moscow.
Vào ngày 13 tháng 6-2002, Mỹ đã đơn phương rút khỏi Hiệp ước Chống hỏa tiểnđạn đạo và sau đó bắt đầu phát triển lại các hệ thống phòng thủ hỏa tiển mà trước đây bị ngăn cấm bởi hiệp ước song phương. Hành động này được thực hiện dưới lý do cần thiết phải bảo vệ nước Mỹ chống lại khả năng của một cuộc tấn công hỏa tiển từ một quốc gia thù địch.

 Sự phát triển của ABM trong thập niên 1980 và Chiến tranh Vùng vịnh

Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (Strategic Defense Initiative - SDI) thời kỳ của tổng thống Mỹ Reagan (thường được gọi là "Chiến tranh giữa các vì sao"), cùng với nghiên cứu về các loại vũ khí chùm năng lượng khác nhau, nhận được sự quan tâm mới trong phạm vi công nghệ của ABM.
SDI là một chương trình vô cùng tham vọng nhằm xây dựng một khiến chắn hoàn toàn kín chống lại một cuộc tấn công bằng ICBM ồ ạt từ Liên Xô vào Mỹ. Ý tưởng ban đầu được hình dung có quy mô rất phức tạp nhằm đưa lên quỹ đạo các trạm chiến đấu laser, những tấm gương rơ-le trên không gian, và những vệ tinh laser tia X có bơm hạt nhân. Nghiên cứu sau đó chỉ ra một số công nghệ dự kiến đó như laser tia X không khả thi với các kỹ thuật lúc đó. Nhưng nghiên cứu vẫn tiếp tục, SDI tiến triển qua những khái niệm khác nhau khi những nhà thiết kế nỗ lực vượt qua với khó khăn của một hệ thống phòng thủ liên hợp lớn như vậy. SDI tiếp tục là một chương trình nghiên cứu và chưa bao giờ được triển khai. Tuy nhiên vài công nghệ SDI đã được sử dụng trong các hệ thống ABM.
hỏa tiển phòng không Patriot là hệ thống đầu tiên của Mỹ được triển khai như một hệ thống ABM chiến thuật, dù nó không được thiết kế theo nhiệm vụ ban đầu và do đó nó có những hạn chế. Nó được sử dụng trong Chiến tranh Vùng vịnh 1991 để thử đánh chặn các hỏa tiển Scud của Iraq. Các phân tích sau chiến tranh cho thấy các hệ thống Patriot ít hiệu quả hơn dự định ban đầu, vì radar và hệ thống điều khiển không có khả năng phân biệt các đầu đạn từ các đối tượng khác khi những hỏa tiển Scud tự hủy, khi chúng tới gần mục tiêu có nghĩa là rất khó để biến nó thành mục tiêu và để phân biệt mảnh nào của nó là đầu đạn và mảnh nào là mảnh vỡ đơn thuần.

 Sự phát triển ABM sau Chiến tranh Vùng vinh trong thập niên 1990

 Triển khai các ABM chiến thuật

Phát triển vào cuối thập niên 1990, đây là Lightweight Exo-Atmospheric Projectile (LEAP) gắn trên hỏa tiển SM-2 Block IV được sửa đổi đang trang bị cho Hải quân Mỹ
Các thử nghiệm về ABM và công nghệ ABM tiếp tục diễn ra trong thập niên 1990 có cả thất bại lẫn thành công. Tuy nhiênm sau Chiến tranh Vùng vinh, người Mỹ đã cải tiến một số hệ thống phòng không. Patriot PAC-3 được phát triển và thử nghiệm sau Chiến tranh Vùng vịnh. PAC-3 là một hệ thống được thiết kế lại hoàn toàn của hệ thống được trển khai trong chiến tranh, kể cả một hỏa tiển mới hoàn toàn. Hệ dẫn đường, radar cải tiến và khả năng bắn trung mục tiêu của hỏa tiển được cải thiện, nên xác suất tiêu diệt mục tiêu lớn hơn so với hệ thống PAC-2 ban đầu. Trong chiến dịch Iraq tự do, các tuyên bố ban đầu về Patriot PAC-3, có tỷ lệ thành công gần 100% khi đánh chặn các hỏa tiển đạn đạo chiến thuật tầm ngắn (TBM), nhưng sau đó lại tuyên bố rằng nó chỉ đạt 70% ở Saudi Arabia, và 40% ở Israel.[3] Tuy nhiên một khi không có hỏa tiển Scud tầm xa nào của Iraq được phóng đi thì hiệu quả của PAC-3 chống lại các hỏa tiển đạn đạo chiến thuật tầm xa không được kiểm chứng. Patriot cũng liên quan đến 3 vụ bắn nhầm mục tiêu bạn nổi tiếng, gồm có 2 vụ tên lửa của Patriot bắn trúng các máy bay của quân đồng minh và một vụ máy bay của Mỹ tấn công nhầm vào một khẩu đội Patriot.[4]
Từ năm 1992 đến năm 2000, một hệ thống chống hỏa tiển đạn đạo của Lục quân Mỹ mang tên Terminal High Altitude Area Defense (THAAD - tạm dịch "Phòng thủ khu vực trên độ cao lớn giai đoạn cuối) mang tính thử nghiệm đã được triển khia tại Bãi phóng hỏa tiển White Sands. Các cuộc thủ nghiệm diễn ra đã gặp thất bại, nhưng một cuộc thử nghiệm đánh chặn thành công đã diễn ra năm 1999. Một phiên bản mới của hỏa tiển Hawk đã được thử vào giữa thập niên 1990 và cuối năm 1998 phần lớn các hệ thống Hawk của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã được sửa đổi để hỗ trợ khả năng chống hỏa tiểnđạn đạo chiến trường căn bản.[5] Sau Chiến tranh Vùng vịnh, hệ thống chiến đấu Aegis đã được mở rộng bao gồm khả năng ABM. Hệ thống hỏa tiển Standard cũng được tăng cường và thử nghiệm đánh chặn hỏa tiển đạn đạo. Vào cuối thập niên 1990, tên lửa SM-2 block IVA đã được thử nghiệm trong vai trò phòng thủ hỏa tiển đạn đạo chiến trường.[6] Hệ thống Standard Missile 3 (SM-3) cũng được thử nghiệm cho vai trò của một ABM. Nmaw 2008 một hỏa tiển SM-3 phóng đi từ tàu tuần dương lớp Ticonderoga mang tên USS Lake Erie, đã phá hủy thành công một vệ tinh không còn hoạt động
Tiêu chuẩn Có thể phóng ra những 3 (SM-3) hệ thống đã cũng được kiểm tra (cho) một vai trò ABM. Vào 2008 một hỏa tiển  SM-3 được giới thiệu từ một tuần dương hạm Ticonderoga- lớp, những Mỹ Hồ Erie một cách thành công chặn đứng một vệ tinh không hoạt động.[7][8]
Năm 1998, bộ trưởng quốc phòng Mỹ William Cohen đề xướng chi thêm 6,6 tỷ đô la cho chương trình phòng thủ hỏa tiển đạn đạo, nhằm xây dựng một hệ thống bảo vệ chống lại các cuộc tấn công từ Bắc Triều Tiên hay các hỏa tiển phóng từ Nga hay Trung cộng .[9] Hệ thống Arrow của Israel được kiểm tra lần đầu vào năm 1990, sau Chiến tranh Vùng vịnh lần thứ nhất. Hệ thống Arrow nhận được sự hỗ trợ của Mỹ trong suốt thập niên 1990.
BKTT
__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)
Recent Activity:

No comments:

Post a Comment