Thursday, January 3, 2013

 
Lịch sử phát triển máy bay không người lái.
tka23 post
Cấu tạo
Ngày nay sức mạnh quân sự của các nước không còn là những đội quân tinh nhuệ, mà thay vào đó là kỹ thuật, là các máy móc  quân sự thay thế con người. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật góp phần làm giảm đi tổn thất về nhân sự, trên các chiến trường. Những máy không người lái luôn là một trong những dự án được quan tâm phát triển trong lĩnh vực khoa học quân sự. Trong bài này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về chiếc UAV (máy bay không người lái) Predator, con "quái vật" nhỏ trên không của Hoa Kỳ.
 
 
 
Predator là một trong những mẫu UAV được sử dụng nhiều  nhất của Mỹ. Nó được trang bị những kỹ thuật tối tân nhất, với camera và các cảm biến giúp thăm dò cùng hệ thống hỏa tiển có thể hỗ trợ chiến đấu. Đây là một mẫu máy bay không người lái được điều khiển từ xa với tầm hoạt động khá rộng, do đó nó có thể bay vào các khu vực nguy hiểm nhất để thăm dò mà không cần lo ngại về  thương vong. Giá 1 chiếc Predator xấp xỉ khoảng 4 triệu USD.
 
Lịch sử phát triển
 
Cơ quan tình báo CIA và Ngũ giác đài đã bắt đầu thử nghiệm các  máy bay do thám UAV từ những năm 1980. Các dự án nghiên cứu chú trọng vào các mẫu thiết kế đơn giản, nhỏ ,nhẹ và không phô trương sức mạnh. Vào đầu những năm 1990, mẫu UAV "Amber" của Leading Systems được bộ Quốc Phòng Mỹ để ý và mua lại, sau này được nghiên cứu và phát triển thành các mẫu Predator như ngày nay. Cho đến nay, các dự án nghiên cứu các mẫu UAV đã tốn của chính phủ Mỹ hơn 2,4 tỷ USD.
 Từ tháng 4 đến tháng 5 năm 1995, các mẫu Predator đầu tiên được đưa vào một cuộc tập trận của quân đội Mỹ. Trong cuộc tập trận chiếc Predator tỏ ra khá hiệu quả trong việc trinh sát, thông báo trước các mối nguy hiểm trên chiến trường. Sau năm 1995, Predator được được đưa vào sử dụng chính thức trong nhiều trận chiến.
 
 
 
Trong chiến dịch Hoa Kỳ Afghanistan 2001, Hoa Kỳ đã mua 60 chiếc Predator và đưa vào tham chiến nhưng có 20 chiếc bị rơi. Một phần nhỏ  do hỏa lực của kẻ thù, còn phần lớn là do điều kiện thời tiết đặc biệt là khi bay qua các vùng băng giá. Sau này các mẫu Predator được trang bị thêm hệ thống chống đông băng, cùng với bộ tăng áp động cơ và hệ thống điện tử được nâng cấp.
 
 
 
Các mẫu Predator ban đầu được đặt tên là RQ-1 Predator, "R" để cho biết nhiệm vụ chính là trinh sát, "Q" nhằm chỉ mẫu máy bay không người lái, "1" để chỉ mẫu Predator đầu tiên. Sau này Không quân Hoa Kỳ có thêm 1 mẫu Predator nữa là MQ-1, "Q" để chỉ mẫu UAV này được trang bị hỏa tiển và có khả năng hỗ trợ chiến đầu bên cạnh việc trinh sát.
 
Thông số kỹ thuật
 
Predator được trang bị động cơ cánh quạt đẩy từ phía sau, động cơ Rotax 914 (4 thi, 4 xy lanh) 100 mã lực  vận tốc hơn 250 km/h. Chiều cao 2,1 m, dài 8,22 m, sải cánh chính 14,8 m với thiết kế giúp tạo thêm lực nâng, nhờ đó Predator có thể bay cao hơn 7500 m. Phần thân khá mảnh mai với đuôi cánh phía sau có hình chữ V ngược giúp máy bay ổn định. Động cơ cánh quạt được đặt sau cùng với một bánh lái nằm phía dưới, ngay giữa phần đuôi cánh sau.
 
 
 
Thân máy bay được làm từ hỗn hợp sợi carbon và kevlar (vật liệu thường được dùng trong áo giáp trống đạn). Bên dưới phần thân máy bay được bọc thêm các lớp nomex (vật liệu làm từ bọt gỗ ép, sử dụng trong quần áo lính cứu hỏa) nhằm cách nhiệt cho máy bay. Phần khung được làm từ sợi thủy tinh và sợi carbon, còn phần vỏ bên ngoài cùng được phủ 1 lớp nhôm.
 
 
 
Các cánh tà và cánh lượn trên cánh chính được phủ 1 lớp titan, ngoài ra còn một hệ thống có thể phun chất ethylene glycol lên cánh may bay giúp làm tan băng khi bay qua các vùng khí hậu lạnh khắc nghiệt.
 
Trên Predator được trang bị cả hệ thống sử dụng nhiên liệu cho đến máy phát và cả pin Ni-Cad trừ bị, do đó mà thời gian hoạt động của nó lên đến hơn 20 giờ.
 
Cấu tạo bên trong
 
Khác với các loại máy bay thông thường, cấu tạo bên trong của Predator gần giống với một chiếc  máy bay điều khiển từ xa, với các máy móc  căn  bản và khá nhỏ gọn. Điều này phù hợp với thiết kế phần thân máy bay khá nhỏ và mục đích sử dụng chính vẫn là trinh sát. Dưới đây là một số bộ phận chính:
 
 
 
1: Hệ thống radar SAR.  2: GPS, xác đinh tọa độ.  3: Máy truyền tính hiệu đến vệ tinh.  4: Hộp đen.  5: Ăng ten GPS (trái và phải).  6: APX-100 nhận dạng kẻ địch.  7: Bộ xử lý thông tin và truyền về vệ tinh.  9: Thùng nhiên liệu phía trước.  10: Thùng nhiên liệu phía sau.  11: Khoang chứa phụ tùng.  12: Quạt làm mát động cơ.  13: Khoang chứa dầu tản nhiệt.  14: Động cơ chính.  15: Motor phụ. 16,18: Bộ pin Ni-Cad.  17: Máy phát điện trừ bị.  19: Khoang chứa phụ tùng ở đuôi.  20: Bộ kiểm soát Mô đun thứ cấp.  22: Bộ kiểm soát Mô đun chính.  23: Bộ cảm biến đơn vị bay.  24: Máy lưu trữ hình ảnh.  27: Bộ điều khiển  làm tan băng (trên vỏ máy bay).  28: Bộ thu tín hiệu tầm gần.  29: Bộ thu tín hiệu tầm xa (tín hiệu từ vệ tinh).  30: Bộ báo động  khi vỏ máy bay bị đóng băng.  32: Camera.
 
RQ-1, gián điệp trên bầu trời
 
RQ-1 là phiên bản Predator đầu tiên, nó không được trang bị vũ khí và chỉ có nhiệm vụ trinh sát, do thám tình hình trước khi bố trí quân đội. Do có thiết kế phần thân nhỏ gọn, cùng vật liệu rất nhẹ nên RQ-1 có thể mang thêm 204 kg nhiên liệu (khoảng 380 lít). Việc đem được lượng nhiên liệu lớn đồng nghĩa với phạm vi hoạt động rộng, cùng kích thước khá nhỏ và hoạt động  xa là những ưu điểm nổi bật của chiếc UAV này. RQ-1 có thể bay trong vòng 24 h mới cần nạp nhiên liệu.
 
 
 
RQ-1 được trang bị những máy móc quan  sát tối tân nhất. Với camera chính ở phía trước có góc quay rộng được sử dụng để xác định các mục tiêu. Camera có thể thay đổi độ mở ống kính, thu lại hình ảnh với màu sắc chân thực nhất. Ngoài ra còn có một cảm biến bằng hồng ngoại, có thể ghi lại hình ảnh với ánh sáng thấp khi bay vào ban đêm. Radar SAR có thể nhìn thấy trong điều kiện thời tiết xấu như mây mù, khói...
 
 
 
Các hình ảnh từ camera cho phép xác định chính xác vị trí của đối phương với góc quan sát rất rộng, từ đó các chỉ huy sẽ có sự điều khiển quân đội hợp lý. Nhờ những  tin tức  này mà chỉ huy trên chiến trường có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng, biết  rõ sự bố trí cách di chuyển của quân địch là đã có trong tay hơn 50 % chiến thắng. Và lợi thế lớn nhất khi sử dụng Predator là không cần phi công, do đó sẽ không có những lo ngại tiết lộ  những bí mật quân sự khi phi công bị bắt, nếu như chiếc máy bay bị phát giác và bắn hạ.
 
MQ-1, con "quái vật" nhỏ trên bầu trời
 
Sau cuộc chiến tranh tại Kosovo năm 1999, Không Quân Hoa Kỳ bắt đầu các thử nghiệm trang bị hỏa lực cho Predator RQ-1. RQ-1 được củng  cố lại phần cánh để có thể lắp thêm 2 hỏa tiển  Hellfire, phần camera phía trước cũng được bổ sung thêm hệ thống ngắm bắn và dẫn đường bằng lazer (MTS). Đến năm 2001, các mẫu Predator được trang bị vũ trang, MQ-1 chính thức được đem vào thực chiến.
 
 
 
"M" là ký hiệu của Bộ Quốc Phòng Mỹ để xác định loại máy bay đa chức năng. Với việc được trang bị hệ thống hỏa tiển mới, MQ-1 không chỉ là một máy bay trinh sát, nó còn là vũ khí từ xa, một thợ săn hoàn hảo. Sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ được tăng lên đáng kể khi MQ-1 được đưa vào thực chiến, nó giúp quân đội tấn công vào nhiều khu vực nguy hiểm mà không mất một người lính nào.
 
 
 
Hệ thống vũ khí của MQ-1 được bổ sung bao gồm 2 hỏa tiển AGM-114 Hellfire, hệ thống hồng ngoại, hệ thống lazer MTS. MQ-1 xác định mục tiêu bằng cách phóng ra một tia lazer dẫn đường từ máy MTS gần mũi máy bay. Tia lazer này có thể được sử dụng trong 2 cách:
  • Các tia này được chiếu vào mục tiêu sau đó phản hồi đến các máy thu tín hiệu trên mỗi hỏa tiển Hellfire, dẫn đường cho hỏa tiển
  • Các tia này phát ra đồng thời đo khoảng cách, hướng di chuyển. Từ đó các máy tính trung tâm sẽ phân tích và phát lệnh điều khiển cho hỏa tiểnđến mục tiêu.
 
Trên MQ-1 cũng có nhiều thiết bị cảm biến, tính toán vị trí hướng di chuyển, tốc độ gió và nhiều cảm biến khác giúp thu thập nhiều thông tin chi tiết trên chiến trường. Các thông tin này vô cùng cần thiết cho các đơn vị tác chiến khác bên cạnh MQ-1, do đó MQ-1 còn được ví như chú chó bên cạnh  thợ săn.
 
Điều khiển một chiếc Predator
 
Việc điều khiển một chiếc Predator giống như điều khiển một hệ thống hơn là một chiếc máy bay. Hệ thống này bao gồm một trạm kiểm soát mặt đất, một khu điều khiển nơi phi công điều khiến chiếc Predator từ xa, một hệ thống thông tin liên lạc, một vệ tinh và một chiếc Predator.
 
Trên mặt đất, có khoảng 80 nhân viên kỹ thuật cùng làm việc để đảm bảo hệ thống hoạt động. Nhóm này có thể điều khiển 4 chiếc Predator cùng lúc, trong khoảng thời gian 20 giờ và bán kính hoạt động gần 1000 km.
 
 
 
Một chiếc Predator có thể bay dưới sự điều khiển của nhóm  phi công gồm 1 người điều khiển và 2 người phân tích thông tin. Phi công điều khiển qua một màn hình điện từ với cần lái giống như  một chiếc máy bay thật, chiếc Predator sẽ nhận tín hiệu điều khiển bằng bộ thu tín hiệu tầm gần. Khi chiếc Predator bay ra ngoài phạm vi thu tín hiệu, các tín hiệu này sẽ được truyền lên vệ tinh và được Predator tiếp nhận qua bộ thu tín hiệu tầm xa.
 
 
 
Các hình ảnh từ camera và thông tin từ cảm biến cũng được truyền về theo cách tương tự. Predator còn có có thể  bay tự động theo lập trình sẵn, trong những nhiệm vụ đơn giản như bay trinh sát địa hình.
 
Thực chiến
 
Tính tác chiến hiệu quả của những chiếc MQ-1 đã được khẳng định trong nhiều cuộc chiến  tại Kosovo, Iraq, Afghanistan, Yemen, Balkan, Libya...
 
 
 
Afghanistan: Vào tháng 2 năm 2002, 1 chiếc MQ-1 đã tấn công vào một đoàn xe SUV mà nghi ngờ có lãnh đạo Taliban Mullah Mohammed Omar. Ngày 04 tháng 3 năm 2002, Predator của CIA đã bắn một hỏa tiển Hellfire vào một hầm Taliban trên đỉnh núi Takur Ghar ở Afghanistan. Những việc làm trước đây của các các máy bay chiến đấu F-15 và F-16 là không thể để tiêu diệt các hầm ngầm trên vùng núi hiểm trở .
 
Iraq: Trong giai đoạn đầu cuộc chiến Iraq của Mỹ năm 2003, các Predator đã tham gia vào hơn 242 cuộc tấn công ,  khảo sát 18.490 mục tiêu, đã bắn hơn 60 tên lửa Hellfire, tiêu diệt 4 đoàn xe hộ tống, và đã bay 2.073 lần cho các nhiệm vụ với hơn 33.833 giờ bay.
 
Yemen: Tháng 11 năm 2002, một chiếc MQ-1 đã bắn hỏa tiển Hellfire vào một chiếc xe hơi tại Yemen , giết chết Qaed Salim Sinan al-Harethi , một nhà lãnh đạo Al-Qaeda được cho là chịu trách nhiệm về vụ đánh bom tàu USS Cole . Đó là cuộc tấn công trực tiếp đầu tiên của Mỹ trong chiến tranh chống khủng bố bên ngoài Afghanistan. Ngày 30 tháng 9 năm 2011, một Hellfire được bắn từ một MQ-1 của Mỹ giết chết Anwar al-Awlaki , một công dân Mỹ,  lãnh đạo Al Qaeda tại Yemen.
 
Libya: MQ-1 của Không Quân Mỹ đã tham gia vào phi vụ trinh sát và tấn công trong hoạt động Thống nhất và bảo vệ Libya.  Ngoài ra còn có một số nguồn  tin cho rằng Predator của Mỹ đã tham gia vào cuộc tấn công cuối cùng chống lại Gaddafi.
 
Tương lai
 
Các mẫu Predator mới của Mỹ vẫn luôn được nghiên cứu và phát triển. Bằng cách tăng chiều dài sải cánh lên 26 m, tầm hoạt động của chúng sẽ được tăng lên đáng kể (độ cao có thể đạt gần 16000 m). Mẫu Predator mới nhất đang được nghiên cứu là MQ-9, nó sẽ được sử dụng cho mục đích hòa bình trong việc nghiên cứu bầu khí quyển. Hải quân Mỹ cúng đang nghiên cứu những mẫu Predator trinh sát của riêng họ.
 
 
MQ-9 Predator.
 
Hiện nay Mỹ là nước đi tiên phong trong việc phát triển các mẫu UAV, tuy nhiên không phải là duy nhất. Các nước Tây Âu vẫn luôn nghiên cứu và phát triển kỹ thuật máy bay không người lái của riêng mình. Nga và  Trung cộng cũng  phát triển các UAV của tương lai.
 
Theo trung tâm phân tích SAMTO, các UAV trong tương lai vẫn sẽ tập trung vào mục tiêu trinh sát hơn là trang bị vũ trang tối tân. Việc giảm kích thước và tăng thời gian, phạm vi hoạt động sẽ được chú trọng. Bên cạnh đó là tăng  quan sát điện tử quang học/hệ thống hồng ngoại, xác định các mục tiêu ẩn trong các tòa nhà hoặc rừng rậm. Việc áp dụng các kỹ thuật máy bay tàng hình cũng rất được quan tâm, biến những chiếc UAV trở thành những  gián điệp thực sự trên bầu trời.
 
Tham khảo HowStuffWork
 
__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)
Recent Activit

No comments:

Post a Comment