A-10 THUNDERBOLT THẦN SẤM
CỦA KHÔNG QUÂN MỸ
video cuối trang
tka23 post
A-10 Thunderbolt II (Thần sấm II)
là loại phi cơ tấn công mặt đất của Mỹ. Máy bay này có một chỗ ngồi,
hai động cơ phản lực, do hãng Fairchild-Republic sản xuất cho Không lực
Hoa Kỳ dùng cho nhiệm vụ (CAS: close air support) lực lượng bộ binh
bằng cách tấn công xe tăng, xe bọc thép và các mục tiêu mặt đất khác,
cũng như được sử dụng để tấn công ngăn chặn tiếp viện của địch (Air
interdiction). Đây là chiếc máy bay đầu tiên của Không lực Hoa Kỳ thiết
kế riêng cho nhiệm vụ Yểm trợ cận chiến từ trên không.
|
Lịch sử phát triển
Từ
lâu Không lực Hoa Kỳ đã bị chỉ trích vì không xem nặng nhiệm vụ yểm trợ
cận chiến cho bộ binh. Nhiệm vụ này chỉ được chú ý kể từ chiến tranh
Việt Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ đã sử dụng các loại
phi cơ như UH-1 Gunship, AH-1 Cobra, A-1 Skyraider và cả loại phản lực
cơ F-4 Phantom cho nhiệm vụ này.
Tất cả các loại phi cơ trên tuy đảm đương tốt vai trò được giao phó nhưng không thỏa mãn hết nhu cầu của bộ binh.
UH-1 và AH-1 là phi cơ trực thăng, tuy có những ưu điểm riêng
của nó nhưng vẫn có khuyết điểm là trọng tải vũ khí nhỏ, vỏ yếu nên
không bao vùng lâu được.
A-1 Skyraider lại là máy bay cánh quạt với thiết kế như thời Đệ
nhị Thế chiến, tuy nó được yêu thích nhất trong nhiệm vụ Cận không yểm
vì trọng tải vũ khí lớn, bay lâu, độ chính xác trong không yểm cao
nhưng vỏ vẫn yếu và là một thiết kế cũ, không linh động.
F-4 Phantom thì hoàn toàn không thích hợp với nhiệm vụ này vì
tốc độ bay quá cao, hao xăng nên độ chính xác trong không yểm kém và
thời gian bao vùng ngắn.
Trong thập kỷ 70, Không lực Hoa Kỳ bắt đầu nghiên cứu và chế tạo loại phi cơ mới chuyên cho nhiệm vụ Cận không yểm.
Tiêu chuẩn cho nhiệm vụ yểm trợ cận chiến là phi cơ phải có trọng tải
vũ khí lớn, buồng lái bọc thép, có khả năng bay chậm và thấp để đạt được
độ chính xác cao nhất, và thời gian bay bao vùng phải lâu. Những nhu
cầu trên được đúc kết từ những kinh nghiệm của các phi công A-1
Skyraider. Đặc biệt loại phi cơ này được chế tạo riêng cho việc sử dụng
loại súng mới GAU-8 Avenger. Đây là loại súng máy kiểu Gatling 7 nòng, bắn đạn 30mm với tốc độ bắn lên đến 4200 viên/phút (tức trong một giây bắn ra đến 70 viên đạn!). Đây là hỏa lực chính để chống xe tăng của phi cơ mới, chứ không phải là bom hay hỏa tiễn vì nó đơn giản, nhanh, mạnh và rẻ. Vào vòng chung kết là hai mẫu A-9 của Northrop và A-10 của Fairchild Republic, với kết quả
A-10 được chọn làm loại phi cơ yểm trợ cận chiến mới cho Không lực Hoa Kỳ.
Tuy
tốc độ bay chậm là cần thiết cho nhiệm vụ không yểm nhưng đó cũng là
lập luận chính của những lời chỉ trích phi cơ A-10. Đối với những người
chỉ trích thì phi cơ phải "càng bay nhanh càng tốt" để có thể tránh được
các loại hỏa tiễn phòng không vác vai như
SA-7. Theo
họ chính tốc độ bay chậm và cách thức bay cắm đầu vào mục tiêu để bắn
súng quá xưa cũ đã biến A-10 thành mồi ngon cho lực lượng phòng không
địch.
Tuy những lập luận này không sai nhưng thực tế đã chứng minh phi
cơ bay nhanh hoàn toàn không thích hợp cho nhiệm vụ yểm trợ bộ binh, với
bài học từ phản lực cơ F-4. Ngoài ra, để tránh hỏa tiễn tầm nhiệt không
phải chỉ bay càng nhanh càng tốt (mặc dù nghe hợp lý) mà là sử dụng
không hạn chế mồi nhiệt (Flare). Chính vì suy luận này nên mới xuất
hiện tin đồn F-35 sẽ thay thế A-10.
Trước đây Không lực Hoa Kỳ cũng đã có dự tính dùng một phiên bản
cải tiến của F-16 để thay thế A-10, cũng do xuất phát từ lập luận chê
A-10 bay chậm trên, nhưng rồi kế hoạch này cũng bị hủy bỏ.
Cho đến nay, tuy A-10 không còn được sản xuất nữa nhưng Không lực Hoa Kỳ vẫn chưa có ý định thay thế nó.
Từ năm 2005 các chiếc A-10 đang sử dụng đều được bắt đầu nâng cấp
lên A-10C, việc này dự tính sẽ hoàn thành vào năm 2011 với tổng chi
phí lên đến 4,4 tỷ USD. Dự tính A-10 sẽ được sử dụng tới năm 2030.
Đặc điểm
A-10 là loại phi cơ một chỗ ngồi. Buồng lái được trang bị lớp
Titan dày từ 12,7mm đến 38,1mm với tổng trọng lượng lên đến 408kg. Lớp vỏ này có thể chịu được đạn phòng không 23mm.
A-10 có tính cơ động tốt khi bay chậm và thấp vì cánh thẳng và lớn.
Điều này giúp phi công có đủ khả năng quan sát chiến trường và phân biệt
mục tiêu để yểm trợ tốt nhất. Do không cần bay nhanh nên A-10 được
trang bị động cơ loại turbofan, hai động cơ gắn trên lưng tạo nên hình
dáng đặc biệt cho A-10. Nhìn chung A-10 bị xem là có hình dáng xấu xí
nhưng là loại phi cơ vô cùng hiệu quả.
- Phi hành đoàn: 1
- Chiều dài: 16,26m
- Sải cánh: 17,53m
- Chiều cao: 4,47m
- Diện tích cánh: 47,01m2
- Cánh bẻ lên một góc: 7o
- Trọng lượng:
- Không tải : 11.321kg
- Cất cánh thông thường: 14.846kg
- Cất cánh tối đa: 22.680kg
- Nhiên liệu tối đa: 4.853kg (trong thân)
- Tốc độ:
- Tối đa: 706km/h
- Tối thiểu: 220km/h
- Leo cao: 1.828m/phút
- Cao độ tối đa: 13.636m
- Bán kính hoạt động:
- Nhiệm vụ Cận không yểm: 250 hải lý (460km) với 112,8 phút bay bao vùng bằng một động cơ và 10 phút chiến đấu
- Nhiệm vụ Chống chiến xa: 252 hải lý (467km) với 30 phút chiến đấu
- Tầm bay không tải tối đa: 2.240 hải lý (4.150km)
- Động cơ: 2x General Electric TF34-GE-100A turbofans với sức đẩy 2x 40.32kN
Vũ trang
Hỏa lực chính gồm một súng đại liên 30mm GAU-8
Avenger với 1174 viên đạn, tốc độ bắn được chỉnh giảm xuống còn 3900
viên/phút. Chính tốc độ bắn cao đã tạo ra suy nghĩ sai lệch là A-10 sẽ
mau hết đạn, nhưng điều đó không đúng. Với tốc độ này phi công bóp cò
liên tục trong khoảng 18 giây sẽ hết đạn, nhưng việc bắn thả giàn như
thế không bao giờ xảy ra trong thực tế. Trong thực tế phi công bắn theo
loạt 0.5, 1 hoặc 2 giây; nếu tính trung bình một loạt bắn kéo dài 1 giây
thì phi công A-10 có thể bóp cò được 18 lần, một con số cũng không quá
nhỏ.
Tổng trọng tải vũ khí lên đến 7,2 tấn, phân bố trên 11 ray treo (8 ray dưới hai cánh và 3 ray dưới bụng) bao gồm:
- Bom thông dụng
- Mark 82 500 cân Anh (tối đa 10 trái)
- Mark 83 1000 cân Anh (tối đa 6 trái)
- Mark 84 2000 cân Anh (tối đa 2 trái)
- Bom lửa Mark 77 (tối đa 2 trái)
- Bom chùm BL-755, CBU-52/58/71/87/89/97 (tối đa 4 trái)
- Bom điều khiển bằng laser GBU-10/16/24 Paveway (tối đa 2 trái)
- Hỏa tiễn không-đối-đất AGM-65 Maverick (tối đa 6 trái)
- Hỏa tiễn không-đối-không AIM-9 Sidewinder (tối đa 4 trái)
- Ống phóng rocket Hydra 70mm
- LAU-61 chứa 19 trái (tối đa 4 ống)
- LAU-68 chứa 7 trái (tối đa 4 ống)
- Ống phóng rocket Zuni 127mm LAU-10 chứa 4 trái (tối đa 6 ống)
Vũ trang thông dụng của phi cơ A-10 cho mọi nhiệm vụ là như sau:
- Ray số một: 1x ALQ-131 ECM pod
- Ray số hai và mười: 2x LAU-68 Hydra 70mm (tổng cộng 14 trái)
- Ray số ba và chín: 2x AGM-65 Maverick
- Ray số bốn, năm, bảy và tám: 4x bom Mark 82
- Ray số mười một: 2x AIM-9 Sidewinder để tự vệ trước phi cơ địch
- 1x thiết bị dò laser AN/AAS-35(V) Pave Penny, gắn bên phải phía dưới buồng lái
Loại
máy bay này là nỗi lo sợ của bất kỳ loại xe tăng nào. Trong chiến
tranh Iraq (Chiến dịch Bão táp sa mạc), Mỹ đã sử dụng tối đa loại máy
bay này và Iraq đã phải chịu tổn thất lớn.
XEM VIDEO
BKTT
__._,_.___
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic | Messages in this topic (1) |
No comments:
Post a Comment