Tiếng nói từ Mộ Đức
* Bản công hàm nầy không phải là một văn kiện hợp pháp trên phương diện quốc tế công pháp, nên TRC không bao giờ sử dụng được, tuy nhiên đây là bằng chứng âm mưu vi phạm Hiệp Định Paris và âm mưu xâm chiếm miền Nam trước năm 1958 của tập đoàn CSVN. Ngoài ra bản công hàm nầy chứng tỏ lòng dạ phi dân tộc của Đảng CSVN.
-Sau khi biết được ngày 14/9/1958 ông Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc thì người dân Mộ Đức cảm thấy nhục nhã thay cho ông. Cuộc đời con người hay chế độ chính trị có thể có nhiều sai lầm, nhưng bán đất bán nước cho ngoại bang thì là sai lầm không thể tha thứ được.
-Không, hoàn toàn không! Ngay cả chính con cháu trong tộc họ Phạm không ai dám ngẩng cao đầu để tự hào là con cháu ông Phạm Văn Đồng. Họ cũng biết rằng, Nguyễn Thân (quê ở Thạch Trụ, Mộ Đức, Quảng Ngãi) là đại thần triều Nguyễn câu kết với thực dân Pháp chống phá phong trào Cần Vương, tiêu diệt nghĩa quân Phan Đình Phùng
Tưởng niệm 50
năm ngày ông Phạm Văn Đồng
ký công hàm
công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc.
Tôi xin tự giới
thiệu: Tôi là một công dân sinh ra và lớn lên trên quê hương Mộ Đức của
cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, được đào tạo liên tục từ tiểu học lên đại
học
một cách chính quy dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Về mặt gia đình
tôi gọi ông Đồng bằng ông. Do nhà gần và có quan hệ nhất định nên trong
gia đình tôi có người cũng theo ông Đồng rồi bị Pháp bắt và sát hại từ
những năm 1930.
Tôi không có ý
khoe khoang nhưng tôi muốn nói rằng không có lý do gì mà bản thân tôi
lại không tự hào và kính trọng ông Phạm Văn Đồng.
Đúng là thế hệ
chúng tôi đã từng rất tự hào là quê hương đã sinh ra một người con ưu
tú. Một sự tự hào đã được giáo dục để trở thành “bản năng”, như là một
“phản
xạ không điều kiện”, mà trong tất cả các bài tập làm văn chúng tôi đều
phải có những câu đại loại: “tự hào là một học sinh dưới mái trường
XHCN, tự hào được sống trong thời đại Hồ Chí Minh, tự hào quê hương đã
sinh ra Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người học trò
xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”, vân vân và vân vân.
Nhận thức về sự
kính trọng và tự hào cũng được đúc ra từ những khuôn mẫu có sẵn nhưng
rồi cũng đến lúc chúng tôi cần tìm hiểu về những gì mình đã từng tự hào
kính
trọng. Chẳng hạn, cái gọi là mái trường XHCN mà chúng tôi ca ngợi cho
đến bây giờ như thế nào vẫn chưa định hình được. Ngày xưa học dưới mái
trường XHCN còn bây giờ đang “định hướng” XHCN nhưng lại được đánh giá
là xã hội phát triển, có nghĩa là càng đi xa
CNXH thì xã hội càng phát triển!
Còn về ông Hồ
Chí Minh thì nhiều người đã nói rồi, tôi chỉ có thể ghi thêm lời dân
gian quê chúng tôi ta thán:
“Sống dưới triều đại Cha Hồ
Làm con thì được, làm người thì không.”
Hôm nay, là
người dân Mộ Đức, tôi nói về ông Đồng – hơn 30 năm làm Thủ tướng, ông đã
làm được gì cho đất nước, quê hương.
Gọi ông là một
nhà ngoại giao, một nhà chính trị tài ba đã giành chiến thắng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước là không đúng, bởi vì cuộc chiến tranh
này
có thể tránh được. Vả lại “thắng” nhưng không có “lợi”, những người Mỹ,
chính sách Mỹ mà ông chống, bây giờ được mời quay lại Việt Nam. Cũng
không có “nhà ngoại giao tài ba” nào lại ký công hàm công nhận lãnh thổ
của mình cho quốc gia khác.
Nếu gọi ông là
một nhà kinh tế cũng không đúng; vì lúc có một nửa đất nước ở miền Bắc
ông không đưa ra được quốc sách nào có tính vĩ mô để tăng trưởng kinh
tế,
ngoài chính sách “tiết kiệm” để tích lũy, kiểu như “hạt gạo cắn làm
hai, làm ba”. Còn sau tháng 4/1975 với chính sách hợp tác xã nông nghiệp
và di dân đi kinh tế mới, ông đã bần cùng hóa cả miền Nam, vốn trước đó
là một nước mạnh trong khu vực Đông Nam Á.
Nói ông là một
nhà lý luận, một nhà văn hóa cũng không ổn. Ông có câu nói với thanh
niên, học sinh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có những con
người
mới xã hội chủ nghĩa” nhưng ông lại vòng vo về cái chủ nghĩa xã hội và
con người xã hội chủ nghĩa của ông. Con người mới khác con người cũ cái
gì? Kiểu như “con gà, cái trứng” hay chính sách “có hộ khẩu mới có việc
làm, có việc làm mới cho nhập khẩu” dưới
thời của ông. Còn về văn hóa thì hình như ông hơi thiếu vốn tiếng Việt
nên thường dùng đệm tiếng Pháp trong văn nói.
Người dân Mộ
Đức “kính trọng” ông lắm! Tôi xin kể một số giai thoại về ông Đồng ở quê
hương Mộ Đức:
Thời kỳ còn hợp
tác xã nông nghiệp, mỗi lần ông về quê là dân Mộ Đức tới khổ. Trước khi
ông về là tập trung ngụy quân, ngụy quyền tham gia chế độ cũ lên núi để
tiếp tục học tập cải tạo cho đến khi nào ông đi mới thả về.
Trên tuyến
đường ông qua, hai bên đường được bón rất nhiều phân urê, lúa xanh đậm
thấy rất đẹp mắt. Ông khen địa phương làm ăn giỏi, chẳng mấy chốc nữa sẽ
tiến
lên Chủ nghĩa cộng sản. Nhưng đến khi ông đi thì chỗ phân nhiều bị
cháy, chỗ thiếu phân còm cõi không trổ bông nổi. Mỗi lần ông về quê, một
ngày công của xã viên được 4 lạng lúa (0,4 kg)!
Có một năm các
xã ven biển ở Mộ Đức như Đức Lợi, Đức Minh, Đức Phong có con cá ông (dân
biển gọi cá voi là cá ông, cá bà) cứ bơi lởn vởn ngoài biển ngang làm
ghe
tàu nhỏ của ngư dân không dám ra biển đánh cá; còn ở xã miền núi Đức
Phú thì đêm đêm nhiều bầy heo rừng ra phá hoại hoa màu của dân, chính
quyền địa phương bất lực. Gặp lúc ông Đồng về quê, nghe báo cáo tình
hình địa phương xong, sáng hôm sau ông xuống biển
chờ cho cá ông nổi lên ông nói “Yêu cầu các đồng chí kết nạp cá thành
xã viên hợp tác xã”. Cá ông nghe thế lặn tuốt ra biển. Chiều đến, ông
lên núi xem hoạ heo rừng phá hoại hoa màu. Ông cũng nói với cán bộ địa
phương cho chúng vào hợp tác xã là chúng sẽ thuần
hết, nhưng cán bộ địa phương nói: “thưa bác, chúng nó đã vào hợp tác xã
lâu rồi, chúng cũng làm ăn tập thể đàng hoàng, lúc nào xuống phá bà con
cũng đi hàng đàn từ vài ba chục con trở lên”. Ông Đồng nói: “Vậy thì
cho đi kinh tế mới!”. Kể từ tối hôm ấy cả xã
Đức Phú không còn con heo rừng nào dám ra phá nữa.
Có người hỏi
ông Đồng, sao ông không nhận để người ta gọi bằng Bác, ông nói: “Ông Hồ
xưng là Cha, nếu tôi xưng là Bác, tức là anh của ông Hồ à!”
Có lần ông tới
thăm nhà chị là bà Thừa Xuân, có mảnh vườn trồng rau để ăn và để bán.
Hồi đó tiền có giá, ông nghe người ta mua bán nhau nắm rau, quả cà, cứ
nói
“một đồng, hai đồng”, ông giận lắm vì bị mấy bà hàng xén ở chợ gọi tên
huý ra. Sau đó ông về Hà Nội và quyết định “nâng” tiền Việt Nam, để từ
đó người ta không kêu “một đồng hai đồng” nữa mà chuyển qua “một ngàn,
hai ngàn” cho đến bây giờ.
Sự kính trọng
của người dân Mộ Đức đối với ông Đồng là như thế đó. Còn sự tự hào thì
sao? Sau khi biết được
ngày 14/9/1958 ông Phạm Văn Đồng ký công hàm công
nhận
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc thì người dân Mộ Đức cảm
thấy nhục nhã thay cho ông. Cuộc đời con người hay chế độ chính trị có
thể có nhiều sai lầm, nhưng bán đất bán nước cho ngoại bang thì là sai
lầm không thể tha thứ được. “Noi gương” ông
là Trần Đức Lương – với tư cách là Chủ tịch nước đã ký hiệp định đường
biên trên bộ và trên biển tiếp tục nhượng đất và biển cho Trung Quốc.
Rồi đây, lịch
sử dân tộc Việt Nam sẽ ghi:
- Ông Phạm Văn
Đồng quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, với tư cách là Thủ tướng Chính phủ, ngày
14/9/1958 đã ký công hàm công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
về
Trung Quốc.
- Ông Trần Đức
Lương quê ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, với tư cách là Chủ tịch nước, ngày
30/12/1999 đã ký Hiệp ước biên giới trên đất liền nhượng cho Trung Quốc
hàng
ngàn cây số vuông, tiếp đến ngày 25/12/2000 đã ký Hiệp định phân định
vịnh Bắc Bộ tiếp tục nhượng hàng chục ngàn cây số vuông mặt biển cho
Trung Quốc.
Vậy là Quảng
Ngãi có hai tội đồ cùng tham gia bán nước dưới triều đại Hồ Chí Minh.
Nhân dân Mộ
Đức, Quảng Ngãi có thể có sự kính trọng, tự hào được không? Không, hoàn
toàn không! Ngay cả chính con cháu trong tộc họ Phạm không ai dám ngẩng
cao
đầu để tự hào là con cháu ông Phạm Văn Đồng. Họ cũng biết rằng, Nguyễn
Thân (quê ở Thạch Trụ, Mộ Đức, Quảng Ngãi) là đại thần triều Nguyễn câu
kết với thực dân Pháp chống phá phong trào Cần Vương, tiêu diệt nghĩa
quân Phan Đình Phùng, sau năm 1945 đã bị Việt
Minh cho đào phá toàn bộ mồ mả, nhà cửa (Có lẽ vì vậy mà Cộng Sản không
dám đưa ông Phạm văn Đồng về chôn ở quê nhà, còn ông Trần Đức Lương khi
hết làm chủ tịch nước cũng không dám về Quảng Ngãi).
Kể ra thì ông
Đồng cũng biết sám hối, khi cuộc đời đã xế chiều sống trong bóng tối của
sự mù lòa và của xã hội ông tham gia tạo nên; vị thủ tướng ba phải,
hiền
lành đến nhu nhược, đã có câu nói trứ danh “Không ai làm thủ tướng lâu
như tôi và cũng không ai làm khổ dân nhiều hơn tôi!” – có lẽ đó là câu
nói duy nhất đúng trong cuộc đời của ông.
Không những ông
làm khổ dân lúc còn sống, mà ông còn làm khổ dân khi đã chết. Biết bao
giờ nhân dân Việt Nam mới lấy lại được Trường Sa, Hoàng Sa? Còn người
dân
Quảng Ngãi tiếp tục è cổ ra nộp thuế để xây lăng mộ cho dòng họ Phạm
của ông, xây bảo tàng, nhà tưởng niệm Phạm Văn Đồng.
Ngày 1/9/2008
Quảng Ngãi đã khánh thành “Khu lưu niệm Phạm Văn Đồng”; theo thông báo
chính thức từ chính quyền, tổng kinh phí hơn 46 tỉ đồng, trong đó phần
xây
lắp hơn 20 tỉ, trên diện tích hơn 2 ha (Giá đất là 1,3 triệu/m2, trị
giá đất khoảng 26 tỉ).
Bốn mươi sáu tỉ
kia có thể làm được những gì cho nhân dân Mộ Đức, Quảng Ngãi?
Xin thưa:
- Xây dựng
3.067 ngôi nhà cho người nghèo;
- Tạo điều kiện
cho 115.000 trẻ em nghèo có điều kiện mua sách vở đến trường trong năm
học mới;
- Là tiền thuế
của 144.230 người dân Mộ Đức trong 2 năm (Dự toán thu ngân sách năm 2008
của huyện là 23,1 tỉ đồng)
Đó là chưa tính
đến các chi phí khánh thành, duy tu, chi lương cho nhiều người trông
coi, bảo vệ.
Một người con
của quê hương núi Ấn sông Trà, nhưng đến khi chết rồi vẫn còn làm khổ
nhân dân Quảng Ngãi, có phải vì ông là đảng viên Cộng sản, học trò của
Hồ Chí
Minh không? Trong khi cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền chủ tịch nước đầu tiên
của Việt Nam dân chủ cộng hòa, yên nghỉ trên núi Ấn lộng gió, ngôi mộ
đơn giản được xây dựng từ thời ông Ngô Đình Diệm, ngày ngày khách trong
ngoài nước, đủ mọi thành phần đến viếng thăm
đều thể hiện lòng tôn kính.
“Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”
Câu ca dao xưa
đi vào tiềm thức của thế hệ chúng tôi, “thế hệ sinh ra và lớn lên dưới
mái trường xã hội chủ nghĩa”; câu ca dao khơi mào cho cuộc khởi nghĩa
nông
dân mang tên “khởi nghĩa Chày Vôi” (năm Bính Dần 1866) xuất phát từ
việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở,
nhiều người oán giận, vua Tự Đức một thời đã đi vào lịch sử dân tộc là
vị vua hôn quân vô đạo.
Tôi đã đến lăng
mộ vua Tự Đức, cũng đã đến khu tưởng niệm Phạm Văn Đồng. Trên tất cả
mọi phương diện (đất đai, diện tích, quy mô, kinh phí, thời gian, …)
lăng Tự
Đức còn lâu mới bằng khu tưởng niệm Phạm Văn Đồng – một vị thủ tướng
dưới chế độ XHCN còn hơn cả vị hoàng đế của triều đại phong kiến, ngay
cả khi đã chết.
Lịch sử rất
sòng phẳng. Thời gian trôi qua, dân tộc sẽ có cái nhìn khách quan hơn,
đánh giá công, tội một cách rõ ràng; sự kính trọng đối với từng nhân vật
lịch
sử không cần phải áp đặt, cưỡng chế.
Là một người
dân Mộ Đức, tôi cảm thấy có tội khi nói thêm (Quê tôi) “là quê hương của
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng”.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment