Bức thư thật thấm thía.
Lời phi lộ:
Một
anh bạn ở Chicago đã nhận được một bức thư của một người phế binh
QLVNCH bị cụt một chân và hư một mắt tại chiến trường An Lộc năm 1972
gởi từ Việt Nam sang Mỹ cho các cấp chỉ huy ngày xưa của mình. Tôi đã
mạn phép nhuận sắc lại bức thư đó cho lời thư gãy gọn và nhẹ nhàng hơn.
Kính tặng tất cả Cựu Quân Nhân QLVNCH. Chúng ta nên đọc bức thư nầy để
suy gẫm.
North Carolina, USA
************ ********* ********* *** Tâm thư của một phế binh Việt Nam Cộng Hòa
---o0o---
Việt Nam ngày... tháng.... năm...
Các Anh kính quý,
Thật
tình tôi không biết phải xưng hô với các Anh thế nào cho phải đạo, bởi
lẽ dù sao đi nữa, các Anh cũng đã có một thời là thượng cấp, là cấp chỉ
huy của chúng tôi. Giờ đây, cho dù thời gian có vô tình lặng lẽ đi qua
hơn 33 năm, trong lòng chúng tôi vẫn khắc ghi hằng khối những kỷ niệm
của một thời binh lửa, thời mà chúng tôi và các Anh còn xông pha giữa
lằn tên mũi đạn, thời mà chúng ta còn được vinh dự cầm súng bảo vệ quê
hương.
Những
trận chiến càng về cuối của năm 1975 càng khốc liệt, người lính chiến
chúng tôi đã không nao núng, không rời hàng ngũ mà càng sát cánh hơn với
các Anh, không màng nguy hiểm, không sợ cái chết lúc nào cũng sẵn sàng
đến với người lính trong thời lửa đạn.
Quả
tình lúc ấy trong lòng chúng tôi khâm phục các Anh nhiều lắm, các Anh
là những người có học thức, được huấn luyện những kiến thức quân sự để
trở thành những sĩ quan chỉ huy chiến trường, chỉ huy chúng tôi. Lòng
dũng cảm cùng với kiến thức của các Anh đã phát sinh từ trong thâm tâm
của chúng tôi một thứ tình đồng đội tình thầy trò trong thời chinh
chiến, mặc dù kỹ luật quân đội đã bắt buộc chúng tôi luôn luôn chỉ biết
tuân lệnh của các Anh, nhưng trong lòng chúng tôi không hề than oán mà
còn cảm thấy thật vui mỗi khi thực hiện được một việc gì cho đơn vị, hay
nói đúng hơn là cho các Anh.
Chúng
tôi là những người lính trơn ít học, nên với những suy nghĩ thật đơn
giản lúc bấy giờ: Làm vui lòng các Anh chính là chúng tôi đã làm tròn nợ
nước, nhiều lúc tuân hành và thực hiện mệnh lệnh xung phong vào mục
tiêu, ôm súng băng mình qua tuyến, chúng tôi chỉ với hai điều tâm niệm:
Thắng trận nầy thật nhanh và bảo vệ cho bằng được... các Anh.
Chúng
tôi ít học chưa có ý niệm về quê hương dân tộc, chúng tôi thật tình lúc
bấy giờ cũng chưa hiểu được thế nào là lòng yêu nước. Chính các Anh đã
dạy cho chúng tôi những điều trọng đại ấy và với đầu óc của chúng tôi,
chúng tôi chỉ hiểu nôm na: Bổn phận chúng tôi là những thanh niên Việt
Nam, chúng tôi phải cầm súng bảo vệ Tổ Quốc, chấp nhận tất cả những hy
sinh gian khổ cùng những hiểm nguy mà chiến trường đã dành riêng cho
người lính. Và... chúng tôi đã cảm thấy vô cùng hãnh diện với việc làm
của mình.
Cũng
chính vì thế, chúng tôi đã lăn xả vào trận địa để trong mặt trận cuối
cùng, chính tôi đã để lại chiến trường một phần thân thể. Không kịp nói
lên một lời từ giã các Anh khi trực thăng bốc vội tôi về Quân Y viện.
Sáu tháng dài ở bệnh viện đủ cho tôi lấy lại được chút hơi tàn mà đủ sức
chống nạng khi di chuyển. Tôi rời khỏi quân đội trong một nỗi buồn
không tả được, cuộc chiến đã đến giai đoạn sau cùng và tôi vẫn theo dõi
tin tức của Miền Nam, nhất là bước tiến quân của đơn vị cũ của mình.
Ngày Miền
Nam hoàn toàn sụp đổ làm tôi chết lặng người, bạn bè đồng đội tôi sẽ ra
sao? và nhất là các Anh - những cấp chỉ huy của tôi sẽ ra sao? Mặc dù
đã bị cắt phần tiền thương tật, “học tập” ở xã hết 1 tuần, tôi đã phải
bán đi cái radio yêu quý đã theo tôi suốt đoạn đường chinh chiến để lấy
tiền tìm đến nhà của các Anh mà hỏi thăm tin tức.
Chị
nhà cho hay Anh đã bị tập trung “cải tạo”. Tôi buồn quá lủi thủi về
nhà, lòng vẫn luôn luôn van vái những an lành sẽ đến với các Anh. Bạn bè
đồng ngũ về quê tôi khá đông nhưng không có công việc làm nên càng bi
thảm hơn. Thằng vá xe đạp ở cuối phố, thằng khuân vác, thằng chạy xe ôm,
chúng tôi không từ chối bất cứ một việc làm gì để kiếm được chút đỉnh
tiền vừa để tạm sinh sống no đói qua ngày vừa gom góp lại được vài mươi
đồng nhờ Chị nhà có đi thăm nuôi thì mua một ít thức ăn và đồ dùng cần
thiết gởi đến Anh.
Nhưng
thực ra, ngày trong tù, rất nhiều người trong các anh hèn như con gà
chết, hèn như cọng bún thiu, sợ sệt, chui rúc, luồn cúi những thằng cán
binh nhỏ tuổi bằng thằng cháu nội của các anh
Chúng
tôi dù trong nhọc nhằn vẫn thường hay nhắc đến các Anh, ở trong tù dù
buồn nhưng nhận được quà của chúng tôi chắc các Anh cũng vui được phần
nào vì nghĩ rằng mấy thằng em vẫn còn nhớ đến ông thầy xưa.Đó ! Chúng
tôi chắt chiu những tình cảm trân quý, thủy chung gởi đến các Anh, mong
mỏi các Anh một ngày nào đó được tự do mà tính chuyện quang phục lại quê
hương mình.
Thằng
thượng úy trưởng Công an phường lợi dụng việc cấp giấy phép đi thăm
nuôi đã hãm hiếp bà Trung Úy Phúc, sự nhục nhã nầy đã khiến Bà Trung Úy
Phúc phải treo cổ tự tử. Tôi nghỉ từ trong tù các Anh buồn và hận lắm.
Ngày
Anh được ra tù chắc Anh còn nhớ chứ? Chúng tôi đã đón mừng các Anh như
đơn vị của mình được tái lập, bao nhiêu vui mừng không kể xiết, mừng đến
rơi lệ, mừng vui khi nỗi mong mỏi rửa nhục của chúng ta đã được gần kề.
Rồi
các Anh được sang Hoa Kỳ, niềm vui thật sự càng nhân lên gấp bội, ngày
chia tay rượu hồng đã pha nước mắt, tiễn các Anh đi mà lòng thầm mong
đợi một ngày về trong danh dự của các Anh.
Chúng
tôi - những người lính QLVNCH vẫn ấp ủ một niềm tin tưởng vào các Anh
như ngày xưa. Sự ra đi của các Anh là điều kiện thuận lợi cho công cuộc
đấu tranh với bọn Cộng sản vô thần đang thống trị quê hương.
Các
Anh a. ! Bây giờ thì buồn quá ! Các Anh - những sĩ quan hào hùng của
QLVNCH ngày nào, những người Anh của chúng tôi, những Đại bàng, những
Bắc Đẩu, Hắc Báo của một thời oanh liệt, một thời tung hoành ngang dọc
khắp các chiến trường, các Anh đã có một thời vinh quang và một thời
nhục nhã, giờ đây sau hơn 33 năm lặng lẽ, các Anh cũng bị nhòa đi hình
ảnh của ngày xưa? Các Anh đã quên rồi sao? Quên rồi những chiến sĩ thuộc
cấp của các Anh đã nằm xuống vĩnh viễn trên đất Mẹ thiêng liêng, quên
đi những đồng đội còn sống sót trong một tấm thân tật nguyền đau khổ,
sống lây lất ở đầu đường xó chợ.
Xin
cảm ơn các Anh về những đồng Dollars mà các Anh đã gởi về cho chúng tôi
trong chương trình giúp đỡ thương phế binh QLVNCH. Những đồng tiền đó
dù có giúp cho chúng tôi trong một thời gian ngắn, dù có an ủi cho những
đớn đau vật chất được đôi phần nhưng cũng không làm sao giúp chúng tôi
quên đi nỗi nhục mất nước.
Chúng tôi cần ở các Anh những chuyện khác, các Anh có thấu hiểu cho chúng tôi hay không?Tôi đã hiểu vì sao thằng khuân
vác ở xóm trên, thằng vá xe đạp ở đầu đường, thằng chống nạng đi bán vé
số ở cạnh nhà lại ghét cay ghét đắng đám Việt Kiều. Họ là những người
lính năm xưa, họ đã từng tuân hành lệnh của Đại bàng, Thần Hổ xông pha
nơi trận mạc, họ đã từng chắt chiu từng đồng bạc nghĩa tình chung thủy
gởi vào tận chốn tù đày cho các Anh, họ đã từng uống với các Anh chung
rượu ân tình ngày đưa tiễn các Anh lên Phi cơ về vùng đất mới, họ đã
từng nuôi nấng một hoài vọng, một kỳ vọng trong ngày về vinh quang của
QLVNCH.
Nhưng
chính các Anh đã làm họ oán ghét, oán ghét đến độ khinh bỉ khi các Anh
áo gấm về làng, chễm chệ ngồi dựa ngữa ở nhà hàng khách sạn 5 sao, tung
tiền ra để chứng tỏ mình là một "Việt Kiều yêu nước” là "Khúc ruột xa
ngàn dặm" về thăm "quê hương là chùm khế ngọt". Thậm chí có những Anh
còn đú đởn với những đóa hoa biết nói biết cười tuổi đáng con hoặc đáng
cháu nội cháu ngoại mình.
Các
Anh có biết không? Từ trong sâu thẳm của cuộc đời, những người lính của
QLVNCH đang lê lết ở ngoài cửa các nhà hàng mà các Anh đang ăn uống vui
chơi, đang nhìn các Anh với một ánh mắt hận thù. Hận thù lớn nhất của
người lính là sự bội bạc, là sự phản bội. Không biết khi tôi kết tội các
Anh là phản bội có quá đáng hay không, nhưng các Anh tự suy nghĩ một
chút sẽ hiểu rõ hơn chúng tôi.
Tôi
không tin là tất cả các Anh đã biến thái thành những tên Việt gian,
nhưng sự trở về như các Anh trong hiện tại là đồng nghĩa với sự phản
bội. Các Anh đã phản bội lại Tổ quốc và rõ ràng nhất các Anh đã phản bội
lại chúng tôi.
Chống
Cộng không phải là hàng năm tổ chức những buổi chào cờ đầu năm, hàng
năm tổ chức những buổi họp mặt thường niên tại các trà đình tửu quán,
hàng năm tổ chức họp mặt các hội đồng hương, hàng năm tố chức các cuộc
họp hội doàn rình rang, mang hia đội mão, tranh nhau lên khán đài đọc
diễn văn, tranh nhau đọc những lời nói khoác lác, láo khoét, nói dai,
nói dài và nói dở
Rồi
đến khi về Việt Nam, vừa bước chân đến phi trường Tân Sơn Nhất là cúi
mọp lưng, chắp tay xá dài những thằng Công An Cửa Khẩu trẻ như cháu nội
của các Anh
Rồi
khi về đến nhà thì các anh lại tiếp tục khom lựng cúi đầu với bọn Công
An Phường, Công An Xã không khác chi khi các anh đang ở phi truờng TSN
Các Anh chống Cộng mà cứ về Việt Nam hà rằm thì còn chống Cộng gì nữa? Ôi ! không lẽ nỗi nhục nầy đời ta không rửa được?
Các Anh kính quý,
Chúng
tôi là những người lính năm xưa của các Anh đây. Toàn thể quân nhân và
đồng bào đang tin tưởng vào các Anh. Tin tưởng một ngày về rửa nhục, để
Mẹ Việt Nam không còn cất lên tiếng than ai oán, để chúng ta cùng nhau
trở lại kiếp làm người, chấm dứt đêm trường u tối đã phủ trùm lên Tổ
quốc hơn 33 năm dài. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh của cấp chỉ
huy, nhưng qua bức thư góp ý nầy, mong các Anh thứ lỗi cho những suy
nghĩ của chúng tôi.
Các
Anh, cho dù đã chậm, nhưng chúng tôi vẫn mong mỏi trong các anh còn có
một số nhỏ, biết suy nghĩ, còn lương tâm để chuẩn bị cho một ngày về
quang phục lai quê hương, con số dù có ít ỏi, nhưng cũng còn một chút
nào bảo vệ được danh dự cho các anh
Trân trọng,
WashingtonDC
|
No comments:
Post a Comment