Sự thật về Thác Bản Giốc (Phần II)
Đăng vào ngày 11/02/2012 @10:11 Sáng
(Tiếp theo và hết)
4. Đâu là vị trí thật sự của cột mốc số 53?
Nhìn vào tấm bản đồ trích từ Bản đồ giao thông năm 2004
(ảnh 16), chúng ta thấy dòng chính của sông Quây Sơn chảy vào lãnh thổ
Việt Nam tại một điểm gần cửa khẩu Pò Peo và rời lãnh thổ nước ta tại
một điểm gần cửa khẩu Lý Vạn. Điều đáng chú ý là tại một điểm ở gần Thác Bản Giốc, dòng sông lại trở thành đường biên giới (có nghĩa là trung tuyến của dòng sông chính là đường biên giới). Điểm
đó có liên quan đến cột mốc số 53, vì thế cột mốc này là căn cứ chủ yếu
để xác định chủ quyền đối với Thác Bản Giốc. Nói cách khác, nếu cột mốc
này bị dời đến một vị trí khác thì chủ quyền của Việt Nam đối với Thác
Bản Giốc sẽ bị ảnh hưởng.
Trong khi sưu tầm tài liệu về Thác Bản Giốc, tác giả Trương Nhân Tuấn
đã tìm được một số chứng cứ quan trọng liên quan đến vị trí của cột mốc số 53 [13]:
- Trước hết là biên bản Pháp-Thanh ký ngày 19-6-1894 trong đó xác
định: cột mốc số 53 có tên là Pan-Ngô (Bách-Nga Khẩu百峨口 ), được cắm “
bên lề một con đường, ở phía Tây-Nam và trên phần nối dài của một khu
rừng nhỏ” (Au bord du chemin et au SO et sur le prolongement d’un petit
bois). Cột mốc số 54 có tên là Lung Trang (Lũng Tằng Sơn 隴曾山) được đặt
tại vị trí “giữa chân của các núi đá và ranh giới của các ruộng lúa phía trước mặt Ban Mong” (Entre le pied des rochers et la limite des cultures en face Ban-Mong).
Bài Liên Quan: |
- Cuốn “Nhật Ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng-Ban đến Ðèo-Lương, nhân dịp đảm nhận việc cắm mốc (28-6-1894)”, trong đó có một đoạn xác định vị trí của các cột mốc, được trích dẫn như sau: “Après
la porte de Dốc-Khánh la frontière est tracée à l’intérieur du massif
rocheux, laissant au Tonkin de petit cirques peu importants débouchant
dans Lung-Piac, près les deux cirques difficilement accessibles de
Lung-Deng et Lung-Moi que traversent les chemins conduisant à Thin-Thang
par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55) jusqu’à l’abornement, les
habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient l’impôt aux Chinois. La
frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de
Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus
chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de
Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à
Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers
de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance constante.
(…) A partir de la belle cascade de 50m qui se trouve un peu en aval de
la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré entre des mamelons élevés”. (Đoạn văn này sẽ được dịch ở phần sau)
Câu hỏi đặt ra là: cột mốc 53 nằm ở thượng lưu hay hạ lưu của thác? Theo suy luận của ông Trương Nhân Tuấn thì “cột mốc chỉ có thể ở phía hạ lưu của thác Bản Giốc”. Thế nhưng điều này lại mâu thuẫn với ý kiến của trung úy Détrie vì ông này ghi nhận thác nước “nằm cách một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53” (qui se trouve un peu en aval de la borne 53), nghĩa là “cột mốc nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác nước”.
- Về bản đồ: có một tấm bản đồ tìm được trong một thư khố ở Pháp liên
quan đến vùng này (xem ảnh 18). Theo ghi chú của tác giả, đây là bản đồ
có tỷ lệ 1/50.000 do Nha địa dư Đông Dương (Service géographique de
l’Indochine) thực hiện. Thật ra, nếu so sánh tấm bản đồ này với các bản
đồ của miền Nam Việt Nam phát hành trước năm 1975, chúng ta có thể thấy
rõ đây không phải là bản đồ tỷ lệ 1/50.000.
Để độc giả dễ phân biệt, tôi đã trích đoạn và phóng to một phần nhỏ
của bản đồ và xoay bản đồ cho đúng hướng bắc-nam (ảnh 19). Chúng ta có
thể nhận thấy: từ cột mốc 54 (B.54) phía tây-bắc đến cột mốc 53 (B.53,
chữ viết tắt của borne 53) phía đông-nam, có
một dải đất ven sông nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Điều này giải thích lý
do tại sao trước đây người Việt có thể qua lại giữa hai bờ sông một
cách dễ dàng. Ngoài ra, còn có một chi tiết khiến chúng ta có thể bác bỏ
ý kiến của ông Lê Công Phụng cho rằng “cột mốc nằm trên một cồn giữa
suối cách thác vài trăm mét”. Trên tấm bản đồ này, cột mốc 53 (B.53)
hoàn toàn nằm trên bờ trái (tả ngạn của sông Quây Sơn), không liên quan
gì đến một “cồn” nào đó trên sông Quây Sơn. Tấm bản đồ này cũng cho thấy
có một đồn của Trung Quốc (Fort Chinois) nằm trên đỉnh núi.
Nhược điểm của tấm bản đồ này là thiếu các vòng cao độ (contour
lines, courbes de niveau) cũng như các tọa độ địa lý cần thiết để xác
định một cách chính xác vị trí của cột mốc. Mặt khác, nó cũng không ghi
rõ vị trí của Thác Bản Giốc, cho nên rất khó xác định vị trí của cột mốc
số 53.
Thật ra, có một tấm bản đồ có thể giúp chúng ta tìm hiểu đường đi của biên giới từ cột mốc 57 cho đến cột mốc 53. Đó là tờ bản đồ địa hình (topographic map) mang tên Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 được tìm thấy ở Thư viện của Đại học Texas ở Austin (The University of Texas at Austin).[14] Tờ bản đồ này (ảnh 20) có tỷ lệ 1/50000, do quân đội Hoa Kỳ in vào năm 1965, dựa vào thông tin thu thập được vào năm 1964.
Thật ra, có một tấm bản đồ có thể giúp chúng ta tìm hiểu đường đi của biên giới từ cột mốc 57 cho đến cột mốc 53. Đó là tờ bản đồ địa hình (topographic map) mang tên Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 được tìm thấy ở Thư viện của Đại học Texas ở Austin (The University of Texas at Austin).[14] Tờ bản đồ này (ảnh 20) có tỷ lệ 1/50000, do quân đội Hoa Kỳ in vào năm 1965, dựa vào thông tin thu thập được vào năm 1964.
Làm thế nào mà quân đội Hoa Kỳ có được tờ bản đồ này? Căn cứ vào ghi
chú trên tờ bản đồ, chúng ta có thế ước đoán bản đồ này được biên soạn
dựa trên dữ liệu của Nha Địa dư Đông dương (Service géographique de
l’Indochine) trước kia và cả trên những thông tin do chính quân đội Hoa
Kỳ thu thập được.
Ngoài ra, còn có một tờ bản đồ mang tên Trùng Khánh, số hiệu 6354-IV
do Cục bản đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm
1980, rất giống với tờ bản đồ nói trên. Tờ bản đồ này nằm trong Bộ sưu
tập Bản đồ Việt Nam (Vietnam Archive Map Collection) do Đại học Kỹ Thuật
Texas (Texas Tech University) sưu tầm và công bố.[15] Tờ bản đồ này
được “in lần thứ hai” (1980) dựa theo bản đồ 1/50.000 in năm 1976 đã được “chỉnh lý bổ sung thực địa vào năm 1979”. Chúng ta có thể phỏng đoán tờ bản đồ này được biên soạn dựa vào bản đồ Trung Khanh Phu, sheet 6354-4
của quân đội Hoa Kỳ, vì sau ngày 30-4-1975 quân đội miền Bắc đã tiếp
quản toàn bộ kho bản đồ lưu trữ tại Nha Địa dư Quốc gia ở Đà Lạt.
Cần lưu ý là bản đồ này được in lần thứ nhất vào năm 1976 – cùng thời
điểm với việc Trung Quốc tấn công cồn Pò Thoong, có lẽ vì thế trên bản
đồ có ghi dòng chữ “quốc giới chưa xác định (vẽ sơ lược)”. Để độc giả dễ theo dõi, tôi trích bản đồ Trùng Khánh 6543-IV và phóng lớn thành hai tấm: từ mốc 58 đến mốc 54 (ảnh 21) và từ mốc 54 đến mốc 53 (ảnh 22).
Dựa vào bản đồ, chúng ta có thể thấy rõ đường biên giới từ cột mốc 57 (M. 57) đến cột mốc 55 (M.55) đúng như Détrie mô tả: “Sau
cửa Dốc-Khánh, đường biên giới được vạch trong lòng dãy núi đá, để lại
cho Bắc Kỳ các thung lũng hẹp ít quan trọng mở ra phía Lung-Piac (Lũng Phiắc). (Đường biên giới) chạy gần hai thung lũng rất khó thâm nhập là Lung-Deng (Lung Den) và Lung-Moi (Lung Noi); băng ngang qua các thung lũng này là những con đường dẫn đến Thin-Thang (T’ien-teng)
qua ngõ Ai-Thin-Thap (mốc 56) và Lung-Moi (Lung Noi, mốc 55) đến tận
vùng cắm mốc. Người dân của Lung-Deng (Lung Den) và Lung-Moi (Lung Noi) đóng thuế cho người Trung Hoa.”[16]
Détrie viết tiếp: “Tiếp đó, đường biên giới trở lại chân các núi
đá trước mặt làng Ban-Mong (Bản Mom, mốc 54), chạy dọc theo chân của các
núi đá ấy và dưới chân của đồn Pia-Mu của Trung Hoa, chạy dọc theo bìa
của một khu rừng nhỏ và cắt con đường Hang-Dong-Quan (mốc 53) để đi đến
dòng sông – dòng sông mà đường biên giới chạy xuôi theo cho đến tận
Ly-Ban (Lý Vạn). Con đường đi từ mốc 53 dẫn đến Dốc-Khánh (mốc 57) đi
ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp sắp đến phải được giám sát thường
xuyên. (…) Từ thác nước đẹp cao 50 m – nằm nhích một chút về phía hạ lưu
của cột mốc 53, sông Qui-Xuân[17] chảy thu hẹp lại giữa những ngọn đồi
cao.”
Nhìn vào bản đồ, chúng ta thấy rõ con đường đi từ mốc 53 ở phía đông-nam đến mốc 57 ở phía tây-bắc “đi ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp”.
Con đường này chạy dưới chân các dãy núi đá, men theo các thung lũng,
có ý nghĩa quan trọng về mặt quốc phòng; vì thế Détrie cho rằng “sắp đến cần phải canh phòng thường xuyên”. Chúng ta cũng có thể thấy rõ đường biên giới cắt ngang “con đường Hang-Dong-Quan”
(le chemin de Hang-Dong-Quan) tại cột mốc số 53. Sau khi vượt qua biên
giới ở mốc 53 gần Thác Bản Giốc, con đường Hang-Dong-Quan chạy men bờ
sông (tả ngạn sông Quây Sơn), trên phần đất thuộc lãnh thổ Trung Hoa.
Vào thời kỳ đó (cuối thế kỷ 19) và có thể mãi cho đến năm 1979 (là lúc
phát hành tờ bản đồ Trùng Khánh 6354-IV của QĐNDVN), con đường đó chỉ là đường đất hoặc đường mòn.
Có thể nói hai tờ bản đồ 6354-4 mang tên Trùng Khánh Phủ và Trùng
Khánh hoàn toàn ăn khớp với những gì trung úy Détrie đã mô tả trong nhật
ký. Cả hai tờ bản đồ này cũng cho thấy thác nước “nằm nhích một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53”. Điều đó có nghĩa là cột mốc “nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác”,
nhưng không nằm sát bờ sông. Từ cột mốc 53, đường biên giới chạy theo
hướng tây bắc-đông nam dựa theo đường rãnh giữa thác nước và ngọn đồi
tiếp giáp, cắt một diện tích đất ở phía dưới chân thác cho phía Việt Nam
trước khi nhập vào đường trung tuyến của dòng sông (xem ảnh 23).
Như vậy, toàn bộ thác Bản Giốc đều thuộc về Việt Nam, toàn bộ dải đất
chạy dài từ dưới chân thác lên đến cột mốc 53, dọc theo chân dãy núi đá
cho đến tận cột mốc 54 cũng thuộc phía Việt Nam. Điều này giúp chúng ta
lý giải được tại sao toán lính người Việt dưới quyền chỉ huy của một
người Pháp lại có thể đi tuần tra từ bên kia sông và quay trở về bờ bên
này trong mùa nước cạn. Rõ ràng toán lính này đã tuần tra trên con đường
mòn ở phía tả ngạn mà Détrie đã nhắc đến, đi từ phía trên thác để xuống
chân thác, lội sông trở về phía hữu ngạn của sông Quây Sơn (xem bưu ảnh
số 832 của P. Dieulefils). Cũng nhờ đứng trên mảnh đất này, nhà nhiếp
ảnh mới chụp được tấm ảnh về Thác Bản Giốc được đăng trong cuốn sách của
nhà địa lý học Lê Bá Thảo (ấn bản năm 1977). Ngày nay, chúng ta không
thể đứng trên lãnh thổ Việt Nam để chụp được một tấm ảnh tương tự, bởi
vì dải đất này đã bị cắt cho phía Trung Quốc.
Mặt khác, đường biên giới từ mốc 54 đến mốc 53 chạy dọc theo chân của
dãy núi đá vôi. Với địa thế hiểm trở như ở vùng này (xem ảnh 24), cho
dù phía Trung Quốc có thể đóng đồn ở trên núi cao (trong bản đồ của Hoa
Kỳ ghi chữ fort, trong bản đồ của Việt Nam in chữ đồn),
quân đội của họ cũng không thể xâm nhập vào các thung lũng bên dưới.
Thế nhưng, tình hình hoàn toàn sẽ đổi khác nếu phía Trung Quốc đặt được
một đầu cầu xuống vùng thung lũng bên dưới. Đầu cầu đó giúp họ có thể
tấn công bất cứ điểm nào ở những thung lũng dọc sông Quây Sơn, với sự
yểm trợ của pháo binh đặt trên những điểm cao. Điều đó giải thích được
nguyên do tại sao phía Trung Quốc từ lâu đã có âm mưu chiếm cồn Pò
Thoong, một cồn có diện tích khoảng 2,6 hec-ta nằm ngay phía trên thác.
5. Trung Quốc xâm chiếm Thác Bản Giốc như thế nào?
Dựa theo những tin tức do Đảng cộng sản Việt Nam công bố qua nhiều
thời kỳ, chúng ta có thể tóm tắt quá trình xâm chiếm Thác Bản Giốc của
phía Trung Quốc như sau:
Bước 1: Sửa bản đồ:
“Năm 1955-56, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt
Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu
một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của
Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác
Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác
Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong.”[18]
Đó là một đoạn được trích từ bản “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, mémorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979. Điều chưa được làm rõ là Trung Quốc đã “sửa ký hiệu” như thế nào? Cho đến nay đã trải qua hơn 30 năm, tài liệu này vẫn còn nằm trong vòng bí mật.
Việc bản đồ Việt Nam tỷ lệ 1/100.000 bị Trung Quốc sửa chữa với ý đồ
không tốt chính là lý do khiến cho phía Việt Nam lâu nay không dám công
bố bản đồ của mình, hầu hết các bản đồ được công bố đều là bản đồ của
Trung Quốc. Hơn thế nữa, vẫn còn một câu hỏi chưa được trả lời: phía
Việt Nam đã biết được hành vi “sửa bản đồ” này vào thời điểm nào và tại sao mãi đến năm 1979 mới công bố?
Bước 2: Thực hành việc lấn chiếm:
Năm 1976, Trung Quốc bắt đầu tiến hành kế hoạch lấn chiếm mà họ đã
chuẩn bị từ giữa thập niên 1950. Theo lời tố cáo của Bộ Ngoại giao Việt
Nam, “phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng
vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực
thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng
một đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm
việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và
ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc.”
Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong 20 năm sau khi đã “sửa bản đồ” cho thấy kế hoạch xâm chiếm Thác Bản Giốc được chuẩn bị từ trước chứ không phải là hành động ngẫu nhiên.
Bước 3: Dời cột mốc 53:
Để tăng cường thêm bằng chứng cho “hồ sơ pháp lý” nhằm hợp
pháp hóa việc lấn chiếm, nhà cầm quyền Trung Quốc đã dời cột mốc số 53
từ vị trí như ta đã thấy trên bản đồ đến một vị trí khác xa hơn về phía
thượng lưu nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”, đúng như kế hoạch đã hoạch định từ giữa thập niên 1950. “Cột mốc biết đi” này chính là căn cứ để “hai bên đàm phán” xác định cột mốc mới 835 như chúng ta đã thấy ở phần trên, bởi vì hai cột mốc 53 cũ và 835 mới nằm sát cạnh nhau.
Thử so sánh bản đồ về đường biên giới mới và các cột mốc mới tại vùng này (ảnh 25) với bản đồ “Trùng Khánh 6354-IV”
năm 1979 do Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980.[19] Mặc dù địa hình
của cồn Pò Thoong và khu vực lân cận cũng như vùng đất phía tả ngạn ở
hạ lưu của Thác Bản Giốc đã bị phía Trung Quốc làm biến đổi khá nhiều
nhằm che giấu việc chiếm đất, chúng ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra sự
khác biệt giữa hai đường biên giới mới và cũ. Cột mốc số 53 đã bị dời về phía tây-nam để tạo ra cột mốc mới 835
đối diện với cồn Pò Thoong. Vì thế, đường biên giới đáng lẽ chỉ trùng
với trung tuyến của dòng sông ở hạ lưu thác lại đi ngang cồn Pò Thoong ở
phía thượng lưu và sau đó chia cắt một nửa phần thác chính cho phía
Trung Quốc.
Hơn thế nữa, về phía tây-bắc của Thác Bản Giốc, ở gần Bản Mom, cột mốc mới 831 cũng xâm phạm vào lãnh thổ Việt Nam một cách hết sức rõ ràng.
Việc thay đổi cột mốc này giúp cho phía Trung Quốc chiếm gọn cao điểm
787 (Yao Tan Shan) trong khi đường biên giới cũ chia đôi ngọn núi này,
mỗi bên một nửa.
Tóm lại, cột mốc 53 cũ không nằm đúng vị trí của nó, và việc dời cột
mốc chỉ nhằm để hợp lý hóa cho việc chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác
Bản Giốc. Thế nhưng ông Lê Công Phụng lại hết sức nhiệt tình che đậy sự
vi phạm trắng trợn này của “nước bạn” bằng cách khẳng định rằng “Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời nhà Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta.” Để củng cố cho lập luận của mình, ông ta còn biện bạch: “Chúng
ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh – Pháp, căn cứ vào
biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là cột mốc đó
từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả.” Không rõ “người dân địa phương” nào lại dám khẳng định cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi?
Cũng theo lời ông Lê Công Phụng: “Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta
cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản
Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được.” Vì không có một nhân vật cấp cao nào trong Đảng đính chính lại lời phát biểu này, chúng ta có thể hiểu đây chính là quan điểm chung của các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chứ không phải là ý kiến riêng của một cá nhân nào.[20]
Có một điều mà các nhà lãnh đạo Việt Nam cố tình tránh né: đó là ý
nghĩa của cồn Pò Thoong và bờ bắc của sông Quây Sơn xét về mặt quốc
phòng. Không cần phải là chuyên gia về quân sự, chúng ta có thể thấy rõ:
với việc lấn chiếm 3 phần 4 cồn Pò Thoong và toàn bộ phần đất ở tả ngạn
– từ thượng lưu cho đến hạ lưu Thác Bản Giốc, phía Trung Quốc chẳng
những có được lợi thế từ trên cao mà còn có được một đầu cầu ngay phía
trên thác (cồn Pò Thoong) để khi cần, có thể làm bàn đạp đưa quân từ
phía hạ lưu nhằm tấn công vào bất cứ điểm nào trong vùng thung lũng dọc
sông Quây Sơn (xem ảnh 28). Đó là chưa kể đến việc lấn chiếm cao điểm
Yao Tan Shan (cao độ 787m) giúp cho phía Trung Quốc có được một vị trí
để có thể dùng pháo binh khống chế vùng thung lũng này từ phía tây-bắc.
Bước 4: Hợp pháp hóa hành vi lấn chiếm:
Như trên đã dẫn chứng, trong thực tế quân Trung Quốc đã chiếm đóng
cồn Pò Thoong kể từ năm 1976. Vì vậy việc đàm phán suy cho cùng chỉ xoay
quanh vấn đề: Trung Quốc tiếp tục chiếm đóng toàn bộ cồn Pò Thoong hay
trả lại chút ít cho phía Việt Nam?
Tương tự như trường hợp ở Ải Nam Quan, nơi đây họ đã trả lại một
phần: thay vì lấy tất cả cồn Pò Thoong, họ trả lại cho Việt Nam 1 phần
4; thay vì lấy “phần lớn” thác chính thì lấy một nửa thác
chính. Các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ Hồ Cẩm Đào – Ôn Gia Bảo xem ra có
phần khôn ngoan hơn cha ông của họ: làm ra vẻ nhún nhường, nhân nhượng
để có tiếng là “ôn hòa”, nhưng vẫn thực hiện được mục đích “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Đường biên giới mới được hoạch định theo thế có lợi cho phía Trung
Quốc đã được hiện đại hóa bằng một loạt các cột mốc dày đặc, được định
vị bằng các kỹ thuật hiện đại. Điều này sẽ khiến cho các thế hệ người
Việt Nam trong tương lai gặp khó khăn hơn rất nhiều trong việc đòi lại
các phần đất đã bị chiếm đóng – nhất là khi “ván đã đóng thuyền” bởi hiệp ước 1999.
Cùng với Ải Nam Quan, trường hợp của Thác Bản Giốc cho thấy trong
việc đàm phán về biên giới, phía Việt Nam đã nhượng bộ cho phía Trung
Quốc đến mức cao nhất, phá bỏ hoàn toàn các nguyên tắc mà Đảng cộng sản
Việt Nam đã đề ra trước đó trong bản bị vong lục năm 1979.
Bước 5: Thác Bản Giốc biến thành Thác Đức Thiên:
Không rõ khi vạch kế hoạch chiếm một phần Thác Bản Giốc, các nhà lãnh
đạo thuộc thế hệ Mao Trạch Đông – Chu Ân Lai có nhắm đến mục tiêu kinh
tế – du lịch hay không? Nhưng vào đầu thế kỷ 21, vài thập niên sau khi
tiến hành đường lối cải cách do Đặng Tiểu Bình vạch ra, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc đương nhiên phải nghĩ ngay đến việc kinh doanh du lịch để
góp phần phát triển kinh tế cho Tỉnh Quảng Tây, một vùng đất kinh tế còn
kém phát triển[21] nhưng lại là địa bàn chủ yếu của dân tộc Choang –
dân tộc thiểu số đông nhất ở Trung Quốc hiện nay.[22]
Ngay sau khi ký hiệp định 1999, phía Trung Quốc đã bắt đầu chuẩn bị
cho kế hoạch đưa Thác Bản Giốc vào khai thác du lịch chứ không chờ giải
quyết trọn vẹn việc cắm mốc ở vùng này. Ngay từ năm 2003, họ đã bắt đầu
xây dựng các cơ sở du lịch nghỉ dưỡng như khách sạn, nhà nghỉ, thuỷ
đình, nhà nổi, … bên bờ Bắc.
Mặt khác, để cắt đứt mối quan hệ xa xưa, xóa dấu vết của cuộc xâm
chiếm bẩn thỉu, nhằm tô son trát phấn cho một lịch sử mới chỉ gồm toàn
những yếu tố “hữu nghị, anh em”, họ đặt cho thác nước một cái
tên mới: 德天 (Detian, Đức Thiên). Ngày nay, chỉ cần lên mạng Internet,
dùng một công cụ tìm kiếm nào đó như Google hay Yahoo, chúng ta có thể
thấy vô số bài viết của các du khách nước ngoài về “Detian Falls” hay “Detian Waterfall”
(Thác Đức Thiên), được coi là thác nước biên giới lớn thứ tư trên thế
giới sau các thác nước Iguazu (Argentina-Brazil), Victoria
(Zambia-Zimbabwe) và Niagara (Hoa Kỳ-Canada), và là thác nước xuyên quốc
gia lớn thứ nhất ở châu Á.[23]
Khi đặt tên mới cho Thác Bản Giốc, vẽ lại đường biên giới mới tại
vùng này, các nhà lãnh đạo của Trung Hoa cộng sản hy vọng sẽ xóa sạch
các vết tích đường biên giới cũ, để vài mươi năm nữa, các thế hệ trẻ
người Việt cũng như người Hoa không còn nhớ gì đến quá trình xâm lược
của một cường quốc chuyên thi hành chính sách đạo tặc đối với các quốc
gia lân bang – nhất là các quốc gia nhỏ bé mà ngày xưa các hoàng đế
Trung Hoa vẫn thường coi là “phiên thuộc”.
Thay lời kết:
Mặc dù sự thật đã dần dần được bộc lộ theo thời gian, nhưng câu
chuyện về Thác Bản Giốc chưa hẳn đã đến hồi kết thúc. Vẫn còn nhiều điều
chưa sáng tỏ, nhiều câu hỏi cần được giải đáp:
1) Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng minh chủ
quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng
có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ”
vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản
Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào
thập niên 1960, [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong
vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân
đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử
dụng những tài liệu này trong đàm phán?
2) Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong và Thác Bản
Giốc không phải là hành động ngẫu nhiên, cũng không phải là chủ trương
của một cá nhân hay một phe phái nào trong Đảng cộng sản Trung Quốc. Kế
hoạch này đã được chuẩn bị ngay từ những năm 1955-56, nghĩa là vào lúc
quan hệ Việt-Trung được coi là “hữu hảo”, và được thực hiện từng bước
qua từng giai đoạn như đã trình bày ở phần trên. Điều này cho thấy đây
là chủ trương chung của Đảng cộng sản Trung Quốc qua nhiều thời kỳ,
nhiều thế hệ lãnh đạo.
Nhưng Thác Bản Giốc không phải là trường hợp duy nhất. Căn cứ vào bản
sơ đồ in ở trang 8 cuốn bị vong lục (giác thư) năm 1979, chúng ta được
biết Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan chỉ là 2 trong số 12 trường hợp lấn
chiếm điển hình. Nếu tính tất cả các vi phạm lớn nhỏ, tính từ 1949 đến
1979 phía Trung Quốc (tức Trung Hoa cộng sản) đã lấn chiếm lãnh thổ Việt
Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt-Trung.[24] Như vậy không
thể nói là quan hệ Việt-Trung chỉ xấu đi trong giai đoạn 1979-1989. Ngay
từ giữa thập niên 1950, nghĩa là giữa lúc tình cảm cộng sản Việt-Trung
còn nồng thắm, đã bắt đầu hình thành những mầm mống xấu, những âm mưu
đen tối. Tương tự như thế, trong vấn đề lãnh hải, ngay khi công bố “hải phận 12 hải lý” vào năm 1958, Đảng cộng sản Trung Quốc đã nuôi dưỡng những mưu đồ quỷ quyệt. Ngay tại điều 4 của Bản tuyên bố, họ đã ghi rõ “Tây Sa” (tức Hoàng Sa) và “Nam Sa”
(tức Trường Sa) thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Đó chính là sự chuẩn bị cho
việc hải quân Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và
chiếm đảo Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) thuộc quần đảo Trường Sa vào
năm 1988.
Vấn đề đặt ra là: trước một chính sách xâm lược nhất quán như thế, tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thừa nhận quan hệ “16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) và tinh thần “4 tốt”
(láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt), coi đó như
những nguyên tắc căn bản chi phối toàn bộ đường lối ngoại giao giữa hai
quốc gia?
Có thể nói khi chấp nhận một chính sách đối ngoại như thế, Đảng cộng
sản Việt Nam đã đặt quyền lợi của Đảng cao hơn quyền lợi của Tổ quốc, đã
hy sinh quyền lợi của quốc gia – dân tộc để bảo vệ quyền lợi của chính
mình.
Thử hỏi: với tình hình thực tế đó, làm sao nhân dân có thể tiếp tục tin tưởng vào “sự lãnh đạo của Đảng”
trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông – nơi mà hàng ngày hàng
giờ các thế lực dân tộc chủ nghĩa của Trung Hoa cộng sản đang lăm le
tiếp tục thực hiện kế hoạch xâm lược mà họ đã chuẩn bị công phu từ hơn
nửa thế kỷ?
3) Quá trình xâm lấn đường biên giới Việt-Trung đã
diễn ra từ rất lâu, nhưng mãi đến ngày 15.3.1979, nghĩa là gần một tháng
sau khi Trung Quốc tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, người
dân mới biết được phần nào sự thật thông qua bản “bị vong lục”
do Bộ Ngoại giao công bố. Từ thời điểm đó cho đến nay, ngoài những chi
tiết được công bố trong cuốn sách, nhân dân không được biết thêm điều gì
khác. Không có công trình nghiên cứu mang tính độc lập nào để người dân
có thể có thể so sánh, đối chiếu.
Thật ra, có một số công trình nghiên cứu có thể giúp người dân tìm
hiểu vấn đề, nhưng những công trình này thường bị xếp vào ngăn kéo,
không được công bố rộng rãi. Vào năm 1996, khi cộng tác với nhà xuất bản
Thuận Hóa để tái bản cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời của học giả Đào
Duy Anh, Viện Sử học đã viết trong Lời dẫn như sau: “Năm 1975 tác
giả có bổ sung và sửa chữa bản in lần thứ nhất, với ý định tái bản ở
miền Nam. Sau khi xem lại tác giả đã bỏ chương nói về biên giới Việt Nam
qua các đời vì thấy tài liệu chưa được đầy đủ. (…) Trong lần tái bản
này, chúng tôi đã thực hiện theo di cảo của tác giả lưu lại sau khi qua
đời.” (sđd, tr. 15). Việc lược bỏ chương về biên giới ấy là ý muốn thật của tác giả hay vì một áp lực nào khác? Đối chiếu với “sự quên lãng”
được dành cho những trận chiến đẫm máu trong suốt thập niên 1980 như
trận chiến tại dải đồi Núi Đất (Lão Sơn) ở Hà Giang năm 1984, cuộc xâm
chiếm đảo Đá Gạc-Ma ở Trường Sa năm 1988, v.v… chúng ta có quyền hoài
nghi tính chất tự nguyện của việc lược bỏ này.
Mãi cho đến ngày nay, hơn một thập niên sau ngày “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa”
được ký kết (30-12-1999), thông tin về đường biên giới Việt-Trung vẫn
là cái gì rất mờ mịt. Mặc dù người dân có thể truy cập vào Internet để
xem hình ảnh vệ tinh của khu vực giáp giới giữa hai quốc gia, nhưng vẫn
không thể nào xác định được đường biên giới mới một cách chính xác. Ngay
cả khi truy cập vào Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ hay trang mạng
của Ủy ban Biên giới Quốc gia, người ta cũng chỉ có thể tìm ra một thứ “bản đồ” mù mờ và kém chính xác như tấm “sơ đồ” xã Đàm Thủy đăng kèm theo đây (ảnh 31).[25]
Trong khi nhiều vị trí hiểm yếu ở vùng biên giới Việt-Trung đã trở thành “chợ trời biên giới” (vd: cửa khẩu Tân Thanh), trong khi hai bên đang tích cực thúc đẩy sự ra đời của các “khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới” thì bản đồ chi tiết về vùng biên giới Việt-Trung vẫn còn là “bí mật quốc gia”,
thông tin về vùng này vẫn là thông tin một chiều, mù mờ và không có giá
trị khoa học. Người ta có cảm tưởng các cấp có thẩm quyền vẫn tìm cách
che giấu, không muốn cho người dân hiểu biết rõ ràng, cụ thể về tình
hình đường biên giới mới. Việc vội vã nhổ bỏ các cột mốc cũ để đưa vào “viện bảo tàng” lại càng làm tăng thêm sự nghi ngờ đó.
Câu hỏi đặt ra là: trong tình trạng bưng bít, che giấu thông tin như
thế, giới trí thức – nhất là các nhà khoa học nhân văn, phải làm gì để
có thể bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền quốc gia? Trông chờ Bộ Chính
trị Đảng cộng sản Việt Nam thành tâm thiện ý “nhìn thẳng vào sự thật” để thực hiện một đường lối cởi mở hơn? Tha thiết “cầu xin” nhà cầm quyền gia ân ban phát một “không gian tự do có giới hạn”
để trí thức có thể góp ý hay phản biện? Hay trí thức phải noi gương cụ
Phan Châu Trinh và các sĩ phu của Phong trào Duy Tân hồi đầu thế kỷ
trước bằng cách tự mình vạch đường đi, nghĩa là mạnh dạn đảm nhận vai trò tiên phong trong công cuộc nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí bằng cách phá vỡ ách nô lệ tinh thần đã bao trùm đời sống tinh thần của cả nước ta từ gần nửa thế kỷ nay?
Có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ lịch sử: tự
do có được bằng sự gia ân chỉ có thể là một thứ tự do bị kiểm soát, chân
lý có được bằng sự thỏa hiệp chỉ là chân lý nửa vời hay một nửa của sự
thật. Mà trong lĩnh vực khoa học thì tự do bị khống chế
hay một nửa – sự thật chỉ có thể đem lại một thứ khoa học giả hiệu, một
thứ khoa học hào nhoáng nhưng phù phiếm với những huy chương và phẩm hàm
tuy bề ngoài rất “hoành tráng” và hấp dẫn, nhưng không thể
trường tồn qua thời gian và hoàn toàn vô nghĩa nếu xét trên bình diện
lợi ích của toàn dân tộc. Bài học của học thuyết Lysenko (Lysenkoism) đã
từng ngự trị trong ngành sinh học Liên Xô từ cuối thập niên 1920 cho
đến tận năm 1964 trước khi bị vứt vào thùng rác của lịch sử, là một ví
dụ cực kỳ sinh động của thứ khoa học thừa nhận sự lãnh đạo của một đảng
chính trị trong một chế độ độc tài toàn trị.
Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012
© Mai Thái Lĩnh – Dân Luận
________________________________________
________________________________________
Chú giải:
[13] Trương Nhân Tuấn, “Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc”, 01-11-2011
[14] Trung Khanh Phu (topographic) Sheet 6354-4, 1:50,000 U.S. Army Map Service 1964 (10.1MB) [GeoPDF]:
http://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/trung_khanh_phu-6354-4.pdf
[15] AMS 1:50000 Maps in Vietnam Archive Map Collection:
http://www.vietnam.ttu.edu/resources/maps/maps1-50000.pdf
[16] Những địa danh in nghiêng là địa danh ghi trên bản đồ.
[17] Do không có trong tay bản sao nhật ký của Détrie cho nên đoạn văn này hoàn toàn dựa vào nguyên văn do ông Trương Nhân Tuấn công bố. Trong bản văn này, dòng sông Quây Sơn được ghi là Qui-Xuan chứ không phải là Qui-Thuan như trong cuốn sách của Thiếu tá Famin. Nếu quả thật Détrie ghi là Qui-Xuan thì tên sông này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải chỉ mới xuất hiện gần đây.
[18] Vấn đề biên giới…, sđd, tr. 14.
[19] Tấm bản đồ về đường biên giới mới đã được công bố trong bài viết của nhà văn Trần Nhương nhan đề “Bên cột mốc biên giới Bản Giốc”, Blog Trần Nhương 1-11-2011
[20] Ông Lê Công Phụng sau khi hoàn thành sứ mạng “đàm phán” đã được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ một thời gian trước khi về hưu.
[21] Theo thống kê năm 2010, mặc dù tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Quảng Tây xếp thứ 18, nhưng nếu tính GDP trên đầu người, thì Quảng Tây đứng thứ 27 trong tổng số 31 thành phố, tỉnh và khu tự trị, chỉ đứng trên Tây Tạng, Cam Túc, Vân Nam và Quý Châu.
[22] Người Choang (壯, âm Hán-Việt đọc là Tráng) là dân tộc thiểu số đông nhất Trung Quốc với dân số 18 triệu. Người Choang có cùng nguồn gốc với người Tày và người Nùng ở Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Quảng Tây. Tên gọi chính thức của tỉnh Quảng Tây là Khu tự trị dân tộc Choang (Guangxi Zhuang Autonomous Region).
[23] Trong các trang quảng cáo du lịch của Trung Quốc, chiều cao của thác nước được ghi là 60m, thậm chí 70m, trong khi những người Pháp đầu tiên viết về thác nước chỉ phỏng đoán đến mức 40-50m, và các sách địa lý của nước ta xác định con số 34m.
[24] Vấn đề biên giới…., sđd, tr.8.
[25] Bản đồ này là bản đồ được cung cấp bởi địa chỉ www.gis.chinhphu.vn
[14] Trung Khanh Phu (topographic) Sheet 6354-4, 1:50,000 U.S. Army Map Service 1964 (10.1MB) [GeoPDF]:
http://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/trung_khanh_phu-6354-4.pdf
[15] AMS 1:50000 Maps in Vietnam Archive Map Collection:
http://www.vietnam.ttu.edu/resources/maps/maps1-50000.pdf
[16] Những địa danh in nghiêng là địa danh ghi trên bản đồ.
[17] Do không có trong tay bản sao nhật ký của Détrie cho nên đoạn văn này hoàn toàn dựa vào nguyên văn do ông Trương Nhân Tuấn công bố. Trong bản văn này, dòng sông Quây Sơn được ghi là Qui-Xuan chứ không phải là Qui-Thuan như trong cuốn sách của Thiếu tá Famin. Nếu quả thật Détrie ghi là Qui-Xuan thì tên sông này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải chỉ mới xuất hiện gần đây.
[18] Vấn đề biên giới…, sđd, tr. 14.
[19] Tấm bản đồ về đường biên giới mới đã được công bố trong bài viết của nhà văn Trần Nhương nhan đề “Bên cột mốc biên giới Bản Giốc”, Blog Trần Nhương 1-11-2011
[20] Ông Lê Công Phụng sau khi hoàn thành sứ mạng “đàm phán” đã được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ một thời gian trước khi về hưu.
[21] Theo thống kê năm 2010, mặc dù tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Quảng Tây xếp thứ 18, nhưng nếu tính GDP trên đầu người, thì Quảng Tây đứng thứ 27 trong tổng số 31 thành phố, tỉnh và khu tự trị, chỉ đứng trên Tây Tạng, Cam Túc, Vân Nam và Quý Châu.
[22] Người Choang (壯, âm Hán-Việt đọc là Tráng) là dân tộc thiểu số đông nhất Trung Quốc với dân số 18 triệu. Người Choang có cùng nguồn gốc với người Tày và người Nùng ở Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Quảng Tây. Tên gọi chính thức của tỉnh Quảng Tây là Khu tự trị dân tộc Choang (Guangxi Zhuang Autonomous Region).
[23] Trong các trang quảng cáo du lịch của Trung Quốc, chiều cao của thác nước được ghi là 60m, thậm chí 70m, trong khi những người Pháp đầu tiên viết về thác nước chỉ phỏng đoán đến mức 40-50m, và các sách địa lý của nước ta xác định con số 34m.
[24] Vấn đề biên giới…., sđd, tr.8.
[25] Bản đồ này là bản đồ được cung cấp bởi địa chỉ www.gis.chinhphu.vn
Bài Viết khác:
- Sự thật về Thác Bản Giốc (Phần I)
- Sự suy thoái chính trị và trường hợp của Vương tộc Lý
- Một người vợ Trung Quốc khác của Hồ Chí Minh
- Chiến thuật mới: Đốt ngay người tự thiêu
- Cựu Bảo Kim: Chỉ Thiếu Một Đồng
- Dân mình tội nghiệp thật
- Viết bên mộ chị Đặng Thùy trâm
- Nổi khổ của dân oan Dak Nông
- Hollywood, made in China
- Dung Nhan Của Đảng & Diện Mạo Kẻ Thù (II)
Ý kiến Bạn đọc
(VANGANH.INFO không chịu trách nhiệm về nội dung của những ý kiến đóng góp từ bạn đọc) Required fields are marked *