VIỆT NAM VÀ HOA KỲ CÙNG LÀ “NGƯỜI THÂN”?
Bản tiếng Anh, Việt:
Published on February 15, 2012 · No Comments
Trong thời gian hơn hai mươi
năm đất nước Việt Nam bị chia cắt vì hai chủ thuyết tư bản và cộng sản.
Từ năm 1954 đến năm 1975, miền Bắc theo Chủ Nghĩa Cộng Sản độc đảng
chuyên chế dưới sư trợ giúp tối đa của cường quốc cộng sản Liên Xô với
sức mạnh vũ khí và của Trung Cộng với sức mạnh nhân số, miền Nam được
chuyển đổi từ chế độ quân chủ sang chế độ Cộng Hòa pháp trị.
Ngay tại thời điểm năm 1954, lực lượng quân đội tại miền Bắc đã rất
đông với hàng trăm ngàn quân lính (240.000 lính chính qui và hơn một
triệu quân bán chính qui)* và được hai nước cộng sản lãnh đạo đàn anh,
Liên Xô và Trung Quốc, cung cấp đầy đủ về các mặt quân cụ, hậu cần và
kinh tế để tiến hành cuộc chiến chinh phục Miền Nam, chủ tâm thực hiện
chế độ cộng sản chuyên chính trên toàn lãnh thổ Việt Nam bằng vũ lực,
trong đại kế hoạch nhuộm đỏ toàn thế giới của cộng sản quốc tế.
Trong khi đó miền Nam Việt Nam vừa bắt đầu xây dựng một thể chế tự do
dân chủ theo phương cách của các chế độ tư sản và đa đảng trên thế
giới, chỉ có một lực lượng quân đội non trẻ và được Hoa Kỳ trợ giúp nhằm
khả dĩ có đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ nền cộng hòa. Thời gian miền
Nam được sống thực sự trong hòa bình để xây dựng đất nước thật rất ngắn
ngủi và có thể nói rằng không có được bao nhiêu ngày, nhưng phải lập tức
hứng chịu cuộc chiến tranh quốc cộng đẫm máu. Để ngăn chặn sự bành
trướng của chủ nghĩa cộng sản tại vùng Đông Nam Á và Châu Á, Hoa Kỳ đã
chủ động giúp đỡ miền Nam Việt Nam về quân sự và kinh tế để có đủ khả
năng chống lại lực lượng quân đội chính qui hùng hậu xâm nhập từ miền
Bắc Việt Nam và lực lượng du kích cài lại tại Miền Nam.
Thay vì để cho hai miền Nam-Bắc cùng sống chung và phát triển trong
hoà bình, thành phần lãnh đạo đảng Cộng Sản tại miền Bắc đã quyết tâm
sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả sinh mạng của toàn dân, cùng với sự chu
cấp không giới hạn toàn bộ vũ khí, quân dụng và hậu cần từ khối cộng sản
toàn cầu mà chính yếu từ Liên Xô và Trung Cộng, để đánh chiếm toàn Miền
Nam.
Trong tình trạng đó, miền Nam phải chống đỡ một cuộc chiến không cân
sức. Trợ giúp của Hoa Kỳ và quốc tế càng lúc càng giảm, và cuối cùng thì
bị cắt đứt toàn bộ. Hoa Kỳ phải chấm dứt tham chiến và ngưng viện trợ
quân sự cho Miền Nam Việt Nam do áp lực của các thế lực thiên cộng và
phản chiến mù quáng tại Mỹ và các nước. Cuộc nội chiến không cân sức Bắc
Nam đã chấm dứt với thắng lợi đương nhiên của chế độ cộng sản tại Miền
Bắc.
Tài liệu tiết lộ gần đây cho biết sau khi đã thương lượng và tái lập
được bang giao với Bắc kinh, Mỹ đã thoả thuận ngầm với Trung Cộng rời bỏ
Miền Nam Việt để được lợi ích nhiều hơn về cả sự hợp tác kinh tế với
Bắc Kinh và sách lược đối đầu với khối cộng sản Liên Xô.
Trong thời gian 1954 -1975 Hoa Kỳ đã viện trợ cho Miền Nam Việt Nam
tổng cộng khoảng 26 tỷ USD, trong đó viện trợ quân sự 16 tỷ USD, viện
trợ kinh tế khoảng 6 Tỷ USD. Tổng số chi phí cho cuộc chiến tại Việt Nam
mà Hoa Kỳ phải gánh chịu lên đến hơn 900 tỷ USD, gấp hơn 3 lần so với
chi phí của Hoa Kỳ cho thế chiến thứ 2. Chi phí của các nước trong khối
cộng sản cũng rất cao, tuy họ không chính thức công bố nhưng cũng lên
đến hằng trăm tỷ USD.**
Về sinh mạng: Riêng Việt Nam, tổng số thương vong lên đến gần 6 triệu
người, khoảng 1/8 dân số của hai Miền Nam Bắc Việt Nam tại thời điểm
năm 1975 (năm 1954: 24 triệu, 1975: 49 triệu), có khoảng 1 triệu 500
ngàn quân nhân Việt Nam của hai phía bị tử trận và hơn 4 triệu thượng
dân bị chết hoặc bị thương; trong đó miền Bắc: 1,1 triệu quân nhân bị tử
trận và mất tích, 600.000 quân nhân bị thưong, và khoảng 2 triêu thường
dân chết và bị thương; miền Nam: 320,000 quân nhân tử trận và mất tích,
1,2 triệu quân nhân bị thương, và 2 triệu thường dân chết và bị thương.
Các lực lượng quân đội nước ngoài tham chiến tại Việt Nam bị tổn thất
cao nhất là Hoa Kỳ với 58.200 quân nhân tử trận,1900 mất tích, và
khoảng 300.000 quân nhân bị thương; kế đến Nam Hàn với 5.000 quân nhân
tử trận, 11.000 bị thương; Phi Luật Tân với 552 quân nhân tử trận; Úc
với 426 quân nhân tử trận và 1360 bị thương; Thái Lan với 351 quân nhân
tử trận và 1200 bị thương;Tân Tây Lan với 55 quân nhân tử trận và 212 bị
thương. Trong khối cộng sản tham chiến tại Việt Nam có Trung Cộng, Liên
Xô, Bắc Hàn, các nước cộng sản tại Đông Âu với số tử trận và thương
vong tuy không được công bố chính thức nhưng cũng đáng kể, nhất là Trung
Quốc và Liên Xô.**
Hoa Kỳ là nước trực tiếp tham chiến cùng với quân đội và dân chúng
miền Nam Việt Nam và là quốc gia bị thiệt hại về nhân mạng cao nhất
ngoài Việt Nam. Không chỉ với 58.200 quân nhân tử trận mà nó liên hệ đến
gần 5 triệu lượt thanh niên trong lứa tuổi 20 – 40 đã trực tiếp chiến
đấu trong tổng số hơn 6 triệu người Mỹ tham gia chung vào cuộc chiến
ngăn chặn chế độ cộng sản bành trướng tại Miền Nam Việt Nam. Như vậy có
thể nói rằng từ 5 đến 6 triệu gia đình người Mỹ đã trực tiếp liên hệ đến
Việt Nam, một đất nước trước đó thật xa lạ đối với đa số người dân Mỹ
bình thường.
Sau 37 năm tính từ năm 1975, con số khoảng 6 triệu gia đình người Mỹ
có liên hệ trực tiếp (có người thân chiến đấu, hy sinh và bị thương vong
hay có liên hệ gia đình vợ chồng) và có nhiều kỷ niệm với Việt Nam. Bên
cạnh đó là khoảng hơn 1.5 triệu người Việt và gia đình họ đã phải rời
khỏi Việt Nam đến lánh nạn và lập nghiệp tại quốc gia này sinh sản thêm.
Nếu chỉ nhân 2 hay 3 (số 7 hay 8 triệu người này lập gia đình và sinh
sản thêm trong thời gian 37 năm) thì đến hôm nay con số người tại Mỹ có
mối liên hệ tình thân và tình thâm “ruột thịt” trực tiếp với Việt Nam có
thể lên đến con số khoảng từ 10 đến 15 triệu người, trong tổng số
khoảng 300 triệu người dân Hoa Kỳ.
Hiện nay, với khoảng 15 triệu dân Mỹ chính thống và người tỵ nạn Việt
Nam tại Mỹ cùng với con cháu Mỹ-Việt của họ sẵn có mối tình thân, tình
thâm “ruột thịt” với 85 triệu dân Việt của nước Việt Nam, có thể kết
luận rằng: Việt Nam và Hoa Kỳ cùng là “người thân”! Đây là một mối thâm
tình “ruột thịt” đặc biệt có được giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ.Trong
số những quân nhân và chuyên viên trẻ Hoa Kỳ đã từng sát cánh chiến đấu
với quân đội Miền Nam Việt Nam cách đây hơn 30 năm, nhiều vị đang nắm
giữ các chức vụ và công tác quan trọng trong quân đội và các bang ngành
dân sự. Họ hầu hết có cảm tình đặc biệt với dân chúng Miền Nam Việt Nam
(Việt Nam Cộng Hòa).
Với bản chất “nhiễu điều phủ lấy giá gương” ngàn đời cùa người dân
Việt, một khi ai đó trong gia đình gặp khó khăn cả về vật chất lẫn tinh
thần thì chính những người thân “ruột thịt” sẽ là người đầu tiên đứng ra
hết lòng giúp đỡ, bảo vệ cho người thân của mình. Vì tình thân, tình
thâm “ruột thịt” mà trong hơn ba mươi năm qua người Việt tại nước ngoài
đã liên tục chia sẻ chắt chiu và cưu mang người thân nghèo khổ của mình
tại trong nước mỗi năm với số tiền hằng chục tỷ USD, tuy rằng trước kia
họ đã từng bị đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam ngược đãi, bị tước
đoạt tài sản, bị xua đuổi khỏi quê hương, và phải chịu nhiều tan thương
và chết chóc lên đến cả triệu người trên con đường vượt biển vượt biên
tỵ nạn tìm tự do.
Cho đến hôm nay, sự đùm bọc trong tình thâm “ruột thịt” giữa Hoa Kỳ
và Việt Nam chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ tài chánh có tính cách cá
nhân vì bức tường ý thức hệ ngoại lai “cộng sản” do chính chế độ cộng
sản hiện nay tại Việt Nam dựng ra.
Khi điều kiện tự do và dân chủ tại Việt Nam được phục hồi đầy đủ thì
làm sao khoảng 10-15 triệu thân nhân “ruột thịt” người Mỹ và chừng 3
triệu người Việt tại Hoa Kỳ cùng khoảng 2 triệu người Việt Nam và thân
nhân “ruột thịt” tại các nước tự do khác như Canada, Anh, Úc, Pháp,
Đức,Tân Tây Lan… không cùng 85 triệu dân Việt trong nước chung sức xây
dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam trước nguy cơ xâm lược từ kẻ thù phương
Bắc? Những dấu hiệu và hành động phát xuất từ nhân dân và chánh quyền
Hoa Kỳ với Việt Nam trong thời gian gần đây trước những hành động xâm
lược trắng trợn của bá quyền Trung Cộng đã một phần minh xác mối thâm
tình “ruột thịt” này.***
Do đó chỉ có một con đường duy nhất là chế độ chính trị hiện nay tại
Việt Nam phải nhanh chóng được thay đồi từ một chế độ cộng sản chuyên
quyền độc tài đảng trị sang một chế độ thật sự tự do dân chủ, đa nguyên
đa đảng, trong đó mọi đảng phái chính trị, mọi người dân đều được đối xử
bình đẳng không phân biệt quá khứ hay chính kiến. Khi đó guồng máy điều
hành quốc gia mới đuợc chính trực, quốc nạn bè phái lộng quyền, kiêu
binh bất trị của đảng viên đảng cộng sản Việt Nam hiện nay mới bị tiêu
diệt tận gốc.**** Có như vậy thì mối tình thân và thâm tình “ruột thịt”
giữa người Việt Nam trong và ngoài nước, tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác
trên thế giới, mới được phát huy và tận dụng. Và khi đó đất nước Việt
Nam thân yêu của chúng ta mới nhanh chóng được hoàn toàn tự do, kinh tế
được phát triển thực sự và nhanh chóng, và ý đồ xâm lược của kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc Việt Nam, Trung Cộng, mới bị triệt tiêu.
Ngày 04 tháng 02 năm 2012
Nguyễn Hùng, Lê Quang Long, Ngô Khoa Bá
Gửi đăng tại TTXVA.org
ARE THERE EMOTIONAL AND FAMILY TIES BETWEEN VIETNAM AND THE UNITED STATES?
From 1954 to 1975, Vietnam was partitioned into North and South along
ideological differences. North Vietnam was ruled by a totalitarian
communist regime firmly supported by a militarily strong Soviet Union
and a populous Red China. South Vietnam adopted a Western-styled
republic.
Right from the start, in 1954 North Vietnam had a large army with
240,000 regulars and more than one million militiamen, equipped,
trained, and buttressed by the two leading countries of the communist
world–the Soviet Union and Red China, with an express aim to conquer
militarily South Vietnam, as part of an overarching plan to stain and
taint the world red with Communism. Meanwhile South Vietnam’s republican
government presided over a nascent army equipped and trained by the
United States. The peace enjoyed by the people in South Vietnam after
the partition was brief. Soon the people found themselves sucked into a
civil war initiated by North Vietnam. In order to stop the spread of
Communism in Southeast Asia, the United States gave military and
economic assistance to South Vietnam in its fight against the divisions
of the regular army of North Vietnam sent to the south and against the
guerrillas put in place by North Vietnam.
The civil war was never between the forces of equal strength. North
Vietnam enjoyed unstinted and committed support from the communist world
while the assistance provided by the United States and its allies was
hampered by pro-communist and misguided anti-war elements . Not long
after the U.S. Congress had voted to discontinue aid to South Vietnam,
the war ended with the triumph of the Vietnamese communists.
Recent disclosures (see Henry Kissinger’s On China, Penguin Press,
2011) have indicated that the U.S. was willing to leave Vietnam as part
of the secret negotiations to establish diplomatic relations with China
for establishing trade between the two countries and for forming a
quasi-alliance to stop the expansionist policies of the Soviet Union.
The following figures are some of the economic and human costs of the war:
The monetary aid provided to South Vietnam by the United States during the war amounted to 26 billion dollars, including $16 billion for military and $6 billion for economic assistance. The total war costs for the U.S. came up to $900 billion, three times of its expenditures in World War Two. There were no published figures from the communist side, but estimates ranged in hundreds of billions of U.S. dollars.
The monetary aid provided to South Vietnam by the United States during the war amounted to 26 billion dollars, including $16 billion for military and $6 billion for economic assistance. The total war costs for the U.S. came up to $900 billion, three times of its expenditures in World War Two. There were no published figures from the communist side, but estimates ranged in hundreds of billions of U.S. dollars.
The human casualties were simply staggering:
Vietnam: of course, bore the heaviest casualties. Out of the total population of 24 million in 1954 and 49 million in 1975, almost 6 million (1,500,000 military personnel and 4,500,000 civilians) were dead or wounded – 1/8 of Vietnam’s population in 1975.
North Vietnam:1,100,000 military personnel dead or missing, 600,000 military personnel wounded, 2,000,000 civilians dead or wounded.
South Vietnam: 320,000 military personnel dead or missing, 1,200,000 military personnel wounded, 2,000,000 civilians dead or wounded.
Vietnam: of course, bore the heaviest casualties. Out of the total population of 24 million in 1954 and 49 million in 1975, almost 6 million (1,500,000 military personnel and 4,500,000 civilians) were dead or wounded – 1/8 of Vietnam’s population in 1975.
North Vietnam:1,100,000 military personnel dead or missing, 600,000 military personnel wounded, 2,000,000 civilians dead or wounded.
South Vietnam: 320,000 military personnel dead or missing, 1,200,000 military personnel wounded, 2,000,000 civilians dead or wounded.
South Vietnam’s Allies:
The United States: 58,200 dead, 1,900 missing, 300,000 wounded.
South Korea: 5,000 dead, 11,000 wounded.
The Philippines: 552 dead.
Australia: 426 dead, 1360 wounded.
Thailand: 351 dead, 1,200 wounded.
New Zealand: 55 dead, 212 wounded.
The United States: 58,200 dead, 1,900 missing, 300,000 wounded.
South Korea: 5,000 dead, 11,000 wounded.
The Philippines: 552 dead.
Australia: 426 dead, 1360 wounded.
Thailand: 351 dead, 1,200 wounded.
New Zealand: 55 dead, 212 wounded.
Once again, there were no figures available for human casualties for
North Vietnam’s communist allies : The Soviet Union, China, The Eastern
European countries, North Korea, Cuba…, specially The Soviet Union and
China.
Next to Vietnam, the United States was the country most impacted by
the Vietnam War. Besides the 58,200 dead, 1,900 missing, and 300,000
wounded, it was estimated that up to 5 million Americans of the ages
between 20-40 did the active military services among about 6 million
personnel served their tour of duty in Vietnam during the war. Thus,
this could be stated that about 6 million American families did have
direct connections with Vietnam, a country at that time they knew very
little about
Thirty-seven years after the war ended, these 6 million Americans and
the 1.5 million Vietnamese who fled Vietnam and settled in the U.S.
have probably multiplied to 10-15 million strong out of the total
population of 313 million. It is not far-fetched to assume most of these
10-15 million people regard Vietnam with nostalgia and the 85 million
Vietnamese living in Vietnam with affection. Among those, a number of
them are holding positions of authority in the armed forces and federal
government (for instance, Senators John McCain, John Kerry, Congressman
Chris Smith,..).
The Vietnamese have a tradition of taking care of their kin and kind,
no matter how far away they are. The Vietnamese-Americans have upheld
that tradition. Every year they have remitted tens of billions of $U.S.
dollars to help their relatives and friends in Vietnam despite of the
fact that they had been severely mistreated by the Vietnamese Communist
Party and its government , stripped off their assets, expelled from
their homes and persecuted to the point millions of them had to flee
Vietnam by walking across land to reach Thailand, and taking to sea in
small and unseaworthy boats to seek freedom, resulting in more than a
million of them perished at sea or at the hands of the Thai pirates.
Up to now, the tie between Vietnam and the U.S. is mostly based on
individual blood ties and emotional attachment. The totalitarian, single
party, corrupt, nepotism-laden, communist system of government in
Vietnam has prevented the tie from deepening and flourishing
Once Vietnam restores full democracy, there is no reason why those 15
million strong American “relatives” together with more than 3 million
Vietnamese expatriates in the U.S. and other countries such as Canada,
France, Germany, Australia, and New Zealand and their host sympathizers
will have no compelling reasons to rebuild Vietnam and assist in its
fight to thwart China’s efforts to take over Vietnam! The recent signs
and activities from the American people (statement of Senator John
McCain in his visit to Vietnam on 19 Jan 2012) and authorities
(Assistant U.S. State Secretary Kurk Campell’s visit to Vietnam on 02
Feb 2012 as well as pronouncement of U.S. State Secretary Hilary Clinton
and the despatch of US naval vessels into South China Sea before) in
response to China’s actions in South China Sea show this “family tie”
sentiment.
The only route Vietnam must take is to transform itself into a
multi-party system democracy with due respect to freedom and basic human
rights. Only then, corruptions, abuses of power by public figures and
factionalism which are rampant within the Vietnamese Communist Party are
stamped out. Only then, the strong “emotional and family ties” between
Americans, as well as other nationals, and the Vietnamese from inside
Vietnam and all over the world will be fully enhanced and utilized. Only
then, Vietnam will be free, its economy thriving, its people
prosperous, and China’s territorial expansionist ambitions against
Vietnam will be stopped.
February 04, 2012
Hung Nguyen, Quang Long Le, Khoa Ba Ngo
Hung Nguyen, Quang Long Le, Khoa Ba Ngo
No comments:
Post a Comment