Sự thật về Thác Bản Giốc
Đảng cộng sản việt nam phải tội tru di
đối với dân tộc việt nam,vì đã dâng đất
cho kẻ thù bành trướng phương bắc.
Sự thật về Thác Bản Giốc
Mai Thái Lĩnh
Kỳ 2 – TRUNG QUỐC XÂM CHIẾM THÁC BẢN GIỐC NHƯ THẾ NÀO?
Dựa theo những tin tức do Đảng cộng sản Việt Nam công bố qua nhiều
thời kỳ, chúng ta có thể tóm tắt quá trình xâm chiếm Thác Bản Giốc của
phía Trung Quốc như sau:
Bước 1: Sửa bản đồ
“Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt
Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu
một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của
Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác
Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác
Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong” [18].
Đó là một đoạn được trích từ bản “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, mémorandum)
do Bộ Ngoại giao ViệtNam công bố vào năm 1979. Điều chưa được làm rõ là
Trung Quốc đã “sửa ký hiệu” như thế nào? Cho đến nay đã trải qua hơn 30
năm, tài liệu này vẫn còn nằm trong vòng bí mật.
Việc bản đồ Việt Nam tỷ lệ 1/100.000 bị Trung Quốc sửa chữa với ý đồ
không tốt chính là lý do khiến cho phía Việt Nam lâu nay không dám công
bố bản đồ của mình, hầu hết các bản đồ được công bố đều là bản đồ của
Trung Quốc. Hơn thế nữa, vẫn còn một câu hỏi chưa được trả lời: phía
Việt Nam đã biết được hành vi “sửa bản đồ” này vào thời điểm nào và tại
sao mãi đến năm 1979 mới công bố?
Bước 2: Thực hành việc lấn chiếm
Năm 1976, Trung Quốc bắt đầu tiến hành kế hoạch lấn chiếm mà họ đã
chuẩn bị từ giữa thập niên 1950. Theo lời tố cáo của Bộ Ngoại giao Việt
Nam, “phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ
trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác
Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một
đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm
việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và
ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc”.
Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong 20 năm sau khi đã “sửa bản đồ”
cho thấy kế hoạch xâm chiếm Thác Bản Giốc được chuẩn bị từ trước chứ
không phải là hành động ngẫu nhiên.
Bước 3: Dời cột mốc 53
Để tăng cường thêm bằng chứng cho “hồ sơ pháp lý” nhằm hợp pháp hóa
việc lấn chiếm, nhà cầm quyền Trung Quốc đã dời cột mốc số 53 từ vị trí
như ta đã thấy trên bản đồ đến một vị trí khác xa hơn về phía thượng lưu
nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”, đúng
như kế hoạch đã hoạch định từ giữa thập niên 1950. “Cột mốc biết đi”
này chính là căn cứ để “hai bên đàm phán” xác định cột mốc mới 835 như
chúng ta đã thấy ở phần trên, bởi vì hai cột mốc 53 cũ và 835 mới nằm
sát cạnh nhau.
Thử so sánh bản đồ về đường biên giới mới và các cột mốc mới tại vùng
này (ảnh 25) với bản đồ “ Trùng Khánh 6354-IV” năm 1979 do Quân đội
Nhân dân Việt Nam in năm 1980 [19]. Mặc
dù địa hình của cồn Pò Thoong và khu vực lân cận cũng như vùng đất phía
tả ngạn ở hạ lưu của Thác Bản Giốc đã bị phía Trung Quốc làm biến đổi
khá nhiều nhằm che giấu việc chiếm đất, chúng ta vẫn có thể dễ dàng nhận
ra sự khác biệt giữa hai đường biên giới mới và cũ. Cột mốc số 53 đã bị dời về phía tây-nam để tạo ra cột mốc mới 835 đối
diện với cồn Pò Thoong. Vì thế, đường biên giới đáng lẽ chỉ trùng với
trung tuyến của dòng sông ở hạ lưu thác lại đi ngang cồn Pò Thoong ở
phía thượng lưu và sau đó chia cắt một nửa phần thác chính cho phía
Trung Quốc.
Hơn thế nữa, về phía tây-bắc của Thác Bản Giốc, ở gần Bản Mom, cột mốc mới 831 cũng xâm phạm vào lãnh thổ Việt Nam một cách hết sức rõ ràng.
Việc thay đổi cột mốc này giúp cho phía Trung Quốc chiếm gọn cao điểm
787 (Yao Tan Shan) trong khi đường biên giới cũ chia đôi ngọn núi này,
mỗi bên một nửa.
Tóm lại, cột mốc 53 cũ không nằm đúng vị trí của nó, và việc dời cột
mốc chỉ nhằm để hợp lý hóa cho việc chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác
Bản Giốc. Thế nhưng ông Lê Công Phụng lại hết sức nhiệt tình che đậy sự
vi phạm trắng trợn này của “nước bạn” bằng cách khẳng định rằng “Cột
mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời nhà Thanh, xác định chỉ có chưa
được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta”. Để củng cố cho lập luận
của mình, ông ta còn biện bạch: “Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa
thuận pháp lý Thanh – Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện
có mà dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi
cả”. Không rõ “người dân địa phương” nào lại dám khẳng định cột mốc đó
từ xưa đến nay chưa ai thay đổi?
Cũng theo lời ông Lê Công Phụng: “Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng
nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc
phải là của chúng ta hoàn toàn được”. Vì không có một nhân vật cấp cao
nào trong Đảng đính chính lại lời phát biểu này, chúng ta có thể hiểu
đây chính là quan điểm chung của các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chứ không phải là ý kiến riêng của một cá nhân nào [20].
Có một điều mà các nhà lãnh đạo ViệtNamcố tình tránh né: đó là ý
nghĩa của cồn Pò Thoong và bờ bắc của sông Quây Sơn xét về mặt quốc
phòng. Không cần phải là chuyên gia về quân sự, chúng ta có thể thấy rõ:
với việc lấn chiếm 3 phần 4 cồn Pò Thoong và toàn bộ phần đất ở tả ngạn
– từ thượng lưu cho đến hạ lưu Thác Bản Giốc, phía Trung Quốc chẳng
những có được lợi thế từ trên cao mà còn có được một đầu cầu ngay phía
trên thác (cồn Pò Thoong) để khi cần, có thể làm bàn đạp đưa quân từ
phía hạ lưu nhằm tấn công vào bất cứ điểm nào trong vùng thung lũng dọc
sông Quây Sơn (xem ảnh 28). Đó là chưa kể đến việc lấn chiếm cao điểm
Yao Tan Shan (cao độ 787 m) giúp cho phía Trung Quốc có được một vị trí
để có thể dùng pháo binh khống chế vùng thung lũng này từ phía tây-bắc.
Bước 4: Hợp pháp hóa hành vi lấn chiếm
Như trên đã dẫn chứng, trong thực tế quân Trung Quốc đã chiếm đóng
cồn Pò Thoong kể từ năm 1976. Vì vậy việc đàm phán suy cho cùng chỉ xoay
quanh vấn đề: Trung Quốc tiếp tục chiếm đóng toàn bộ cồn Pò Thoong hay
trả lại chút ít cho phía ViệtNam?
Tương tự như trường hợp ở Ải Nam Quan, nơi đây họ đã trả lại một
phần: thay vì lấy tất cả cồn Pò Thoong, họ trả lại cho Việt Nam 1 phần
4; thay vì lấy “phần lớn” thác chính thì lấy một nửa thác chính. Các nhà
lãnh đạo thuộc thế hệ Hồ Cẩm Đào – Ôn Gia Bảo xem ra có phần khôn ngoan
hơn cha ông của họ: làm ra vẻ nhún nhường, nhân nhượng để có tiếng là
“ôn hòa”, nhưng vẫn thực hiện được mục đích “chiếm một phần thác Bản
Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Đường biên giới mới được hoạch định theo thế có lợi cho phía Trung
Quốc đã được hiện đại hóa bằng một loạt các cột mốc dày đặc, được định
vị bằng các kỹ thuật hiện đại. Điều này sẽ khiến cho các thế hệ người
Việt Nam trong tương lai gặp khó khăn hơn rất nhiều trong việc đòi lại
các phần đất đã bị chiếm đóng – nhất là khi “ván đã đóng thuyền” bởi
hiệp ước 1999.
Cùng với Ải Nam Quan, trường hợp của Thác Bản Giốc cho thấy trong
việc đàm phán về biên giới, phía Việt Nam đã nhượng bộ cho phía Trung
Quốc đến mức cao nhất, phá bỏ hoàn toàn các nguyên tắc mà Đảng cộng sản
Việt Nam đã đề ra trước đó trong bản bị vong lục năm 1979.
Bước 5: Thác Bản Giốc biến thành Thác Đức Thiên
Không rõ khi vạch kế hoạch chiếm một phần Thác Bản Giốc, các nhà lãnh
đạo thuộc thế hệ Mao Trạch Đông – Chu Ân Lai có nhắm đến mục tiêu kinh
tế – du lịch hay không? Nhưng vào đầu thế kỷ 21, vài thập niên sau khi
tiến hành đường lối cải cách do Đặng Tiểu Bình vạch ra, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc đương nhiên phải nghĩ ngay đến việc kinh doanh du lịch để
góp phần phát triển kinh tế cho Tỉnh Quảng Tây, một vùng đất kinh tế còn
kém phát triển [21] nhưng lại là địa bàn chủ yếu của dân tộc Choang – dân tộc thiểu số đông nhất ở Trung Quốc hiện nay [22].
Ngay sau khi ký hiệp định 1999, phía Trung Quốc đã bắt đầu chuẩn bị
cho kế hoạch đưa Thác Bản Giốc vào khai thác du lịch chứ không chờ giải
quyết trọn vẹn việc cắm mốc ở vùng này. Ngay từ năm 2003, họ đã bắt đầu
xây dựng các cơ sở du lịch nghỉ dưỡng như khách sạn, nhà nghỉ, thuỷ
đình, nhà nổi… bên bờ Bắc.
Mặt khác, để cắt đứt mối quan hệ xa xưa, xóa dấu vết của cuộc xâm
chiếm bẩn thỉu, nhằm tô son trát phấn cho một lịch sử mới chỉ gồm toàn
những yếu tố “hữu nghị, anh em”, họ đặt cho thác nước một cái tên mới:
德天 (Detian, Đức Thiên). Ngày nay, chỉ cần lên mạng Internet, dùng một
công cụ tìm kiếm nào đó như Google hay Yahoo, chúng ta có thể thấy vô số
bài viết của các du khách nước ngoài về “Detian Falls” hay “Detian
Waterfall” (Thác Đức Thiên), được coi là thác nước biên giới lớn thứ tư
trên thế giới sau các thác nước Iguazu (Argentina-Brazil), Victoria
(Zambia-Zimbabwe) và Niagara (Hoa Kỳ-Canada), và là thác nước xuyên quốc
gia lớn thứ nhất ở châu Á [23].
Khi đặt tên mới cho Thác Bản Giốc, vẽ lại đường biên giới mới tại
vùng này, các nhà lãnh đạo của Trung Hoa cộng sản hy vọng sẽ xóa sạch
các vết tích đường biên giới cũ, để vài mươi năm nữa, các thế hệ trẻ
người Việt cũng như người Hoa không còn nhớ gì đến quá trình xâm lược
của một cường quốc chuyên thi hành chính sách đạo tặc đối với các quốc
gia lân bang – nhất là các quốc gia nhỏ bé mà ngày xưa các hoàng đế
Trung Hoa vẫn thường coi là “phiên thuộc”.
Thay lời kết:
Mặc dù sự thật đã dần dần được bộc lộ theo thời gian, nhưng câu
chuyện về Thác Bản Giốc chưa hẳn đã đến hồi kết thúc. Vẫn còn nhiều điều
chưa sáng tỏ, nhiều câu hỏi cần được giải đáp:
1) Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta
đối với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít
nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm
1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc; [2] Tài
liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên
1960; [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm
1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân
dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử
dụng những tài liệu này trong đàm phán?
2) Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong và Thác Bản Giốc không phải là
hành động ngẫu nhiên, cũng không phải là chủ trương của một cá nhân hay
một phe phái nào trong Đảng cộng sản Trung Quốc. Kế hoạch này đã được
chuẩn bị ngay từ những năm 1955-56, nghĩa là vào lúc quan hệ Việt-Trung
được coi là “hữu hảo”, và được thực hiện từng bước qua từng giai đoạn
như đã trình bày ở phần trên. Điều này cho thấy đây là chủ trương chung
của Đảng cộng sản Trung Quốc qua nhiều thời kỳ, nhiều thế hệ lãnh đạo.
Nhưng Thác Bản Giốc không phải là trường hợp duy nhất. Căn cứ vào bản
sơ đồ in ở trang 8 cuốn bị vong lục (giác thư) năm 1979, chúng ta được
biết Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan chỉ là 2 trong số 12 trường hợp lấn
chiếm điển hình. Nếu tính tất cả các vi phạm lớn nhỏ, tính từ 1949 đến
1979 phía Trung Quốc (tức Trung Hoa cộng sản) đã lấn chiếm lãnh thổ Việt
Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt-Trung [24].
Như vậy không thể nói là quan hệ Việt-Trung chỉ xấu đi trong giai đoạn
1979-1989. Ngay từ giữa thập niên 1950, nghĩa là giữa lúc tình cảm cộng
sản Việt-Trung còn nồng thắm, đã bắt đầu hình thành những mầm mống xấu,
những âm mưu đen tối. Tương tự như thế, trong vấn đề lãnh hải, ngay khi
công bố “hải phận 12 hải lý” vào năm 1958, Đảng cộng sản Trung Quốc đã
nuôi dưỡng những mưu đồ quỷ quyệt. Ngay tại điều 4 của Bản tuyên bố, họ
đã ghi rõ “Tây Sa” (tức Hoàng Sa) và “Nam Sa” (tức Trường Sa) thuộc lãnh
thổ Trung Quốc. Đó chính là sự chuẩn bị cho việc hải quân Trung Quốc
chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và chiếm đảo Đá Gạc Ma
(Johnson South Reef) thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Vấn đề đặt ra là: trước một chính sách xâm lược nhất quán như thế,
tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thừa nhận quan hệ “16 chữ vàng” (láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai) và tinh thần “4 tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối
tác tốt), coi đó như những nguyên tắc căn bản chi phối toàn bộ đường
lối ngoại giao giữa hai quốc gia?
Có thể nói khi chấp nhận một chính sách đối ngoại như thế, Đảng cộng
sản Việt Nam đã đặt quyền lợi của Đảng cao hơn quyền lợi của Tổ quốc, đã
hy sinh quyền lợi của quốc gia – dân tộc để bảo vệ quyền lợi của chính
mình. Thử hỏi: với tình hình thực tế đó, làm sao nhân dân có thể tiếp
tục tin tưởng vào “sự lãnh đạo của Đảng” trong sự nghiệp bảo vệ chủ
quyền ở Biển Đông – nơi mà hàng ngày hàng giờ các thế lực dân tộc chủ
nghĩa của Trung Hoa cộng sản đang lăm le tiếp tục thực hiện kế hoạch xâm
lược mà họ đã chuẩn bị công phu từ hơn nửa thế kỷ?
3) Quá trình xâm lấn đường biên giới Việt-Trung đã diễn ra từ rất
lâu, nhưng mãi đến ngày 15.3.1979, nghĩa là gần một tháng sau khi Trung
Quốc tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, người dân mới biết
được phần nào sự thật thông qua bản “bị vong lục” do Bộ Ngoại giao công
bố. Từ thời điểm đó cho đến nay, ngoài những chi tiết được công bố trong
cuốn sách, nhân dân không được biết thêm điều gì khác. Không có công
trình nghiên cứu mang tính độc lập nào để người dân có thể có thể so
sánh, đối chiếu.
Thật ra, có một số công trình nghiên cứu có thể giúp người dân tìm
hiểu vấn đề, nhưng những công trình này thường bị xếp vào ngăn kéo,
không được công bố rộng rãi. Vào năm 1996, khi cộng tác với nhà xuất bản
Thuận Hóa để tái bản cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời của học giả Đào Duy Anh, Viện Sử học đã viết trong Lời dẫn như
sau: “Năm 1975 tác giả có bổ sung và sửa chữa bản in lần thứ nhất, với ý
định tái bản ở miền Nam. Sau khi xem lại tác giả đã bỏ chương nói về
biên giới Việt Nam qua các đời vì thấy tài liệu chưa được đầy đủ. (…)
Trong lần tái bản này, chúng tôi đã thực hiện theo di cảo của tác giả
lưu lại sau khi qua đời” (sđd, tr. 15). Việc lược bỏ chương về
biên giới ấy là ý muốn thật của tác giả hay vì một áp lực nào khác? Đối
chiếu với “sự quên lãng” được dành cho những trận chiến đẫm máu trong
suốt thập niên 1980 như trận chiến tại dải đồi Núi Đất (Lão Sơn) ở Hà
Giang năm 1984, cuộc xâm chiếm đảo Đá Gạc-Ma ở Trường Sa năm 1988, v.v.
chúng ta có quyền hoài nghi tính chất tự nguyện của việc lược bỏ này.
Mãi cho đến ngày nay, hơn một thập niên sau ngày “Hiệp ước biên giới
trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa” được ký kết
(30-12-1999), thông tin về đường biên giới Việt-Trung vẫn là cái gì rất
mờ mịt. Mặc dù người dân có thể truy cập vào Internet để xem hình ảnh vệ
tinh của khu vực giáp giới giữa hai quốc gia, nhưng vẫn không thể nào
xác định được đường biên giới mới một cách chính xác. Ngay cả khi truy
cập vào Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ hay trang mạng của Ủy ban
Biên giới Quốc gia, người ta cũng chỉ có thể tìm ra một thứ “bản đồ” mù
mờ và kém chính xác như tấm “sơ đồ” xã Đàm Thủy đăng kèm theo đây (ảnh
31) [25].
Trong khi nhiều vị trí hiểm yếu ở vùng biên giới Việt-Trung đã trở
thành “chợ trời biên giới” (ví dụ: cửa khẩu Tân Thanh), trong khi hai
bên đang tích cực thúc đẩy sự ra đời của các “khu hợp tác kinh tế xuyên
biên giới” thì bản đồ chi tiết về vùng biên giới Việt-Trung vẫn còn là
“bí mật quốc gia”, thông tin về vùng này vẫn là thông tin một chiều, mù
mờ và không có giá trị khoa học. Người ta có cảm tưởng các cấp có thẩm
quyền vẫn tìm cách che giấu, không muốn cho ngýời dân hiểu biết rõ ràng,
cụ thể về tình hình đường biên giới mới. Việc vội vã nhổ bỏ các cột mốc
cũ để đưa vào “viện bảo tàng” lại càng làm tăng thêm sự nghi ngờ đó.
Câu hỏi đặt ra là: trong tình trạng bưng bít, che giấu thông tin như
thế, giới trí thức – nhất là các nhà khoa học nhân văn, phải làm gì để
có thể bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền quốc gia? Trông chờ Bộ Chính
trị Đảng cộng sản Việt Nam thành tâm thiện ý “nhìn thẳng vào sự thật” để
thực hiện một đường lối cởi mở hơn? Tha thiết “cầu xin” nhà cầm quyền
gia ân ban phát một “không gian tự do có giới hạn” để trí thức có thể
góp ý hay phản biện? Hay trí thức phải noi gương cụ Phan Châu Trinh và
các sĩ phu của Phong trào Duy Tân hồi đầu thế kỷ trước bằng cách tự mình vạch đường đi, nghĩa là mạnh dạn đảm nhận vai trò tiên phong trong công cuộc nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí bằng cách phá vỡ ách nô lệ tinh thần đã bao trùm đời sống tinh thần của cả nước ta từ gần nửa thế kỷ nay?
Có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ lịch sử: tự do có
được bằng sự gia ân chỉ có thể là một thứ tự do bị kiểm soát, chân lý có
được bằng sự thỏa hiệp chỉ là chân lý nửa vời hay một nửa của sự thật.
Mà trong lĩnh vực khoa học thì tự do bị khống chế hay một nửa – sự thật
chỉ có thể đem lại một thứ khoa học giả hiệu, một thứ khoa học hào
nhoáng nhưng phù phiếm với những huy chương và phẩm hàm tuy bề ngoài rất
“hoành tráng” và hấp dẫn, nhưng không thể trường tồn qua thời gian và
hoàn toàn vô nghĩa nếu xét trên bình diện lợi ích của toàn dân tộc. Bài
học của học thuyết Lysenko (Lysenkoism) đã từng ngự trị trong ngành sinh
học Liên Xô từ cuối thập niên 1920 cho đến tận năm 1964 trước khi bị
vứt vào thùng rác của lịch sử, là một ví dụ cực kỳ sinh động của thứ
khoa học thừa nhận sự lãnh đạo của một đảng chính trị trong một chế độ
độc tài toàn trị.
Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012,
M.T.L.
Tài liệu tham khảo:
[18] Vấn đề biên giới..., sđd, tr. 14.
[19] Tấm
bản đồ về đường biên giới mới đã được công bố trong bài viết của nhà
văn Trần Nhương nhan đề “Bên cột mốc biên giới Bản Giốc”, Blog Trần Nhương 1-11-2011:
[20] Ông
Lê Công Phụng sau khi hoàn thành sứ mạng “đàm phán” đã được bổ nhiệm
làm đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ một thời gian trước khi về hưu.
[21] Theo
thống kê năm 2010, mặc dù tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Quảng Tây xếp
thứ 18, nhưng nếu tính GDP trên đầu người, thì Quảng Tây đứng thứ 27
trong tổng số 31 thành phố, tỉnh và khu tự trị, chỉ đứng trên Tây Tạng,
Cam Túc, Vân Nam và Quý Châu.
[22] Người
Choang (壯, âm Hán-Việt đọc là Tráng) là dân tộc thiểu số đông nhất
Trung Quốc với dân số 18 triệu. Người Choang có cùng nguồn gốc với người
Tày và người Nùng ở Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Quảng Tây. Tên
gọi chính thức của tỉnh Quảng Tây là Khu tự trị dân tộc Choang (Guangxi Zhuang Autonomous Region).
[23] Trong
các trang quảng cáo du lịch của Trung Quốc, chiều cao của thác nước
được ghi là 60 m, thậm chí 70 m, trong khi những người Pháp đầu tiên
viết về thác nước chỉ phỏng đoán đến mức 40-50 m, và các sách địa lý của
nước ta xác định con số 34 m.
[24] Vấn đề biên giới.…, sđd, tr.8.
[25] Bản đồ này là bản đồ được cung cấp bởi địa chỉ www.gis.chinhphu.vn
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment