Drive them crazy with Psywar - William Colby
( Lâm Lễ Trinh dịch)
(Mặt trận Gươm Thiêng Ái Quốc
và ÐảoThiên Ðàng )
Cuối năm
1962, William Colby, trưởng lưới CIA tại Sàigòn, về Hoa Thịnh Ðốn phụ
trách Nha Giám Ðốc Kế hoạch CIA Vùng Ðông Á. Tổng thống Kennedy ra lệnh
một mặt, điều nghiên lại các họat động bí mật thất bại của cơ quan này ở
Bắc Việt và mặt khác, "gấp tạo bất ổn trên đất địch như địch đang làm ở
Miền Nam".
Nhận
thức CSVN - cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác - nơm nớp lo sợ nội
loạn, gián điệp và phá họai, Colby chủ trương cần "làm họ điên đầu bằng
cách leo thang tâm lý chiến,".
Thời
Chiến tranh lạnh, tâm lý chiến gồm có lãnh vực tuyên truyền (radio,
truyền đơn, truyền hình, báo chí...) và những kỹ thuật khác thuộc khoa
tâm lý (dựng ra những mặt trân hay tổ chức đối kháng giả tạo...). Colby
chọn Herb Weisshart, từng phụ tá cho ông ở Sàigòn và làm việc trước đây
trong vùng Ðông Bắc Á châu, thay mặt CIA trong chiến dịch nàỵ Chủ đích
của tân chiến dịch là gì? "Buộc Bắc Việt xoay về bảo vệ hậu cần hơn là
dồn nổ lực viễn chinh ở Miền Nam. You couldn’t expect much more, Không
còn muốn gì hơn!", Herb Weisshart xác nhận như thế.
Năm
1963, theo chương trình chuyển tiếp Switchback, Ngũ Giác Ðài thay CIA
phụ trách chiến tranh bí mật chống Hà Nội vì "Quân đội có tiền, nhân lực
và khí cụ." Herb Weisshart và một số nhân viên CIA được biệt phái về
Phái bộ Quân sự HK tại VN, Military Assistance Command Vietnam, hay
MACV, để xúc tiến kế họach OP 39 tại cơ quan Nghiên cứu và Thám sát SOG,
Studies & Observation Group, do Ðại tá Clyde Russell. chỉ huỵ cho
đến ngày chấm dứt vào tháng 11.1968, dưới thời Tổng thống Lyndon
Johnson, kế hoạch OP 39., (còn được mệnh danh, Chương trình dương đông
kích tây, Diversionary Program) đã thực hiện một số công tác khá độc đáo
về chiến tranh
tâm lý chống Bắc Việt.
Căn
cứ vào hồ sơ vừa giải mật của Ngũ Giác Ðài, quyển sách "The Secret War
Against Hànội" của Richard H. Shultz, Jr., giáo sư chính trị học tại
Fletcher School of Law and Diplomacy, đã phân tích khá tinh vi những
công tác ấỵ Mặt trận Gươm Thiêng Ái Quốc, Sacred Sword of the Patriots
League.
Một
trong những mục tiêu phức tạp nhất của kế hoạch OP 38 là thử cấy trong
tâm trí người dân Miền Bắc ý niệm một tổ chức chống cộng, Về tình báo,
tổ chức này cần dựa vào một sự tích khả tin. Weisshart đã phỏng vấn
nhiều người Việt và nhờ họ, được biết chuyện "kiếm thần" của vua Lê Lợi.
Năm
1406, vua Minh xua quân Tàu xâm chiếm và đô hộ VN một cách dã man khiến
Lê Lợi, một chủ trại giàu có, khởi nghĩa tại Thanh Hóa. Lê Lợi nhờ có
những sáng kiến tuyệt vời về chính trị, tâm lý lẫn quân sự để tạo chính
nghĩa và thu hút sự ủng hộ của toàn dân. Sử chép rằng ngài dùng một bút
nhọn thấm mỡ súc vật viết "Lê Lợi là vì vua" trên các lá cây trong rừng.
Khi kiến ăn hết mỡ, câu này lộ ra, dân chúng cho rằng đây là điềm Trời.
Họ tung hô Lê Lợi và ào ạt tham gia kháng chiến.
Vì
thế địch quá mạnh, Lê Lợi phải rút vào vùng núi Hà Tịnh để đánh du
kích. Năm 1428, quân Minh đại bại, rút lui, Lê Lợi xưng vương với danh
hiệu Lê Thái Tổ và thành lập triều đại nhà Lê, trị vì VN hơn ba thế kỷ.
Ngoài công trình dựng nước hiễn hách, vua Lê Lợi còn là đầu đề của một
huyền thoại khác. Tục truyền rằng một ngày nọ Ngài du thuyền trên Hổ Lục
Thuỷ giữa đế đô Hànội, bổng có kim quy nổi lên mặt nước, vua liền phóng
kiếm, kim quy lặn mất mang theo thanh kiếm.. Theo dân chúng truyền
tụng, Lê Lợi đã nhận thần kiếm để dẹp giặc và thống nhất sơn hà, nay sứ
mạng hoàn tất, kiếm phải trả lại Thượng Ðế.
Ðể
tưởng nhớ câu chuyện vừa nói, Hồ Lục Thủy được đổi tên thành Hồ Hoàn
kiếm, The Lake of the Returned Sword. Dân Việt, già trẻ, đều thuộc nằm
lòng sự tích, họ hãnh diện về Lê Lợi, người anh hùng quốc gia điển hình,
xuất thân từ cái nôi cách mạng Hà Tịnh, đã dùng du kích đuổi kẻ thù
nghìn kiếp Trung hoa ra khỏi xứ.
Ðảng CS cũng kính nể nhưng xếp Lê Lợi sau "Bác" Hồ!
SOG
chọn cốt chuyện Lê Lợi để đặt tên cho Mặt trận Gươm Thiêng Ái quốc,
MTGTAQ, (The Sacred Sword Patriots League, gọi tắt SSPL) vì nghĩ rằng kỷ
niệm của vị minh chúa nhà Lê có đủ hấp lực để phát động moat phong trào
bí mật chống cộng sản vong quốc và thu hút quần chúng Bắc Việt vẫn câm
thù vụ cải cách ruộng đất đẫm máu từ 1953 đến 1956, theo lệnh của Bắc
Kinh.
SOG
sắp xếp lớp lang chi tiết để tạo tính cách khả tin cho tổ chức giả tưởng
vừa nói: "Trong phiên Ðại hội vào tháng chạp 1961, Mặt Trận đồng thanh
bầu Lê Hưng Quốc - nhân vật ma -làm Chủ tịch; Mặt trận ra Tuyên ngôn
chống sự can thiệp của tất cả ngoại bang vào nội tình VN và yêu cầu mọi
lực lưọng võ trang, cố vấn và ảnh hưởng của các nước ngoài phải rút khỏi
hai Miền Nam, Bắc; đặc biệt, Tuyên ngôn đả kích nhóm lãnh đạo Hànội làm
tay sai cho Trung cộng, tái diễn trò nô lệ của thời xưa và đẩy đất nước
vào thế nạn nhân trong cuộc tranh chấp Mỹ- Hoa.
Kết
thúc MTGT kêu gọi Hànội thay đổi gấp chính sách" Về mặt tuyên truyền,
MTGT rêu rao không ngừng phát triển mạnh trong lãnh vực chính trị lẫn
quân sự, đã cho thành lập nhiều tổ ở khắp nơi và năm 1965, có 10,000
đảng viên, trong đó 1,600 được võ trang. Chứng minh thư có đóng dấu
triện "MTGTAQ Xứ Ủy Nam Bộ", do Uûy viên Thường vụ Lê Hùng Cường ký tên,
được phát cho một số "cán bộ quân sự nồng cốt... sinh họat với các Tổ
Tỉnh trên toàn xứ".
Tiến
thêm một bước, vào tháng tư 1965, Ðài Tiếng nóí của Mặt Trận, Voice of
the Secret Sword of the Patriots League,VOSSPL, tự xưng đặt trên vùng
núi Hà Tịnh, phát thanh thường xuyên về phiá Bắc Việt. SOG thuê moat số
phi công gốc Ðài loan (từng côïng tác với CIA trong thập niên 50) dùng
phi cơ không mang dấu hiệu rải truyền đơn ban đêm trên vĩ tuyến 17.
Truyền đơn tung tin có khu giải phóng "dưới vĩ tuyến 19". Ðể bên kia
chiến tuyến tin MTGTAQ là một thực thể, kế hoạch OP 39 tổ chức quy mô -
như trong phim giả tưởng Hollywood - một vùng tự do, liberated zone.
Thiên Ðàng đảo, Paradise Island. Làm thế nào cơ quan SOG có thể lập một
khu giải phóng cho MTGT khi Hoa Thịnh Ðốn từ chối cho phép giữa năm 1963
kế hoạch OPLAN 34A gài du
kích vào Bắc Việt? OP 39 giải quyết trở ngại bằng cách chọn dưới vĩ
tuyến 17, ngoài khơi Ðà nẳng, Cù lao Chàm (được Mỹ đặt tên Paradise
Island) và xây cất tại đây những làng giống hệt ngoài Bắc để cài giáo số
ngư phủ gốc Bắc bị các thuyền mang cờ MTGT bắt được trong lãnh hải Bắc
Việt kể từ tháng 5.1964.
Những
thuyền này cất dấu tại Ðànẳng, làm bằng cây để tránh bị radar địch phát
hiện và được điều động bởi nhóm thủy thủ Việt hoá trang. Khi sa vào lưới
của SOG, các ngư phủ bị bịt mắt và đưa về đảo. Họ ở đây ba tuần, tiếp
xúc với dân làng toàn nói giọng Bắc (để họ có cảm tưởng sống trong một
vùng giải phóng ở BV), được cho ăn uống no đủ, săn sóc sức khoẻ chu đáo
và, đồng thời, được cung cấp tin tức về tình trạng tham nhũng, hủ hoá và
bè phái trong giới lãnh đạo CS.
Trước
ngày bị bịt mắt lại để đưa trở về nguyên quán cũng bằng đường biển, mỗi
ngư phủ nhận được một ra dô pin, đã gài sẵn băng tầng Ðài Tiếng Nói
MTGT, và vài món quà thực dụng như xà phòng, quần aó v.v... Họ được chỉ
dẫn cách liên lạc bí mật với những tổ bạn hoạt động tại địa phương.
Năm
1966, có 353 dân BV được "huấn luyện" tại Thiên Ðàng đảo. Từ 1964 cho
đến 1968, tổng số lên đến 1.003. Ðể Hànội đừng khám phá ra mặt thật của
kế hoạch, OP 39 áp dụng một số phương pháp khác, với sự đồng ý của Hoa
Thịnh Ðốn. Thí dụ: Một Toà án MTGT tuyên xử tử hình, vì tội phản quốc,
các người bị bắt trong những trận đụng độ giữa thuyền bè Bắc Việt và Mặt
trận nhưng sau đó, họ được Măt trận ân xá và cho học tập. Trước ngày
hồi hương, họ tuyên thệ trung thành với MT. Một số nhận làm gián điệp và
đưa tin. Nếu họ quyết định đào ngũ và rời vĩnh viễn BV thì họ được định
cư trong Nam.
Hoa
Thịnh Ðốn, mặt khác, bác bỏ một số dề nghị "quá khích" của OP 39 như
dùng Ðài phát thanh của MTGT cổ võ nổi lọan ở BV và ám sát vài lãnh tụ
CS. Ðầu năm 1968, Bộ Tư lệnh MACV đưa ý kiến MTGT nên chuyển qua giai
đọan tổ chức đánh phá thật sự CS trên phần đất của họ, Toà Bạch ốc cũng
không chịu vì bốn lý do: hoạt động bí mật phải phản ảnh chính sách công
khai; không thể để tình thế vuột khỏi tầm tay kiểm soát; bị khiêu khích,
Hànội sẽ tăng cường mức độ xâm lăng Miền Nam; và Trung cộng không ngồi
yên trước cảnh đàn em BV tan rã.
Chiến dịch tấn công bằng truyền thanh, truyền đơn và tặng phẩm.
Ngoài
đài Tiếng Nói của MTGT, kế hoạch OP 39 còn xử dụng một số phương tiện
truyền thông cho nhiều mục tiêu riêng biệt. Một trong các chủ đích là
báo cho dân chúng trên vĩ tuyến 17 biết - để gây hoang mang - có hoạt
động chống chính phủ Hànội tại BV. Bằng kỹ thuật đánh lừa mệnh danh
snuggling, một đài phát thanh được đặt sát cạnh Ðài radio CS Hànội, cùng
chung một tầng số và mang cùng một tên, để khuấy phá.
Tháng
5.1965, Toà Bạch ốc cho thành lập cơ quan JUSPAO, Joint US Public
Affairs Office, do Barry Zorthian chỉ huy, để phối hợp tất cả các công
tác tâm lý chiến, dân sự và quân sự, kể luôn công tác mật tại BV và dài
theo đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào và Miên. Juspao điều hành đài rađô
Tiếng Nói Tự Do, Voice of Freedom (VOF) phát thanh 75 giờ mỗi tuần bằng 5
ngôn ngữ, chuyên đả phá Radio Hànội và đưa vào BV tin tức của thế giới
tự do, tin chiến trường xác thực, chương trình văn hoá và giải trí, bình
luận so sánh đời sống hai miền Nam, Bắc…
Hệ
thống tuyên truyền SOG gồm có Radio Red Flag, mệnh danh là tiếng nói của
nhóm chống đối trong đảng CS Bắc Việt. Ðài này không gay gắt với Nga sô
nhưng chỉ trích mạnh Chính trị bộ ngã theo Bắc kinh đem lại đau khổ và
chết chóc cho dân tộc. Ra dô Hồng Kỳ, đặt ở ngoại ô Sàigòn, xử dụng một
số cán bộ hồi chánh Việt và kỹ sư Phi Luật Tân. CIA điều hành từ Miền
Nam đài phát thanh riêng mang tên Sao Ðỏ, Red Star Radio, chủ trương đặc
biệt tố cáo Mặt trận Giải phóng Miền Nam là công cụ của CS Bắc Việt.
Khẩu
hiệu của đài là "Miền Nam của dân Nam". Ðài Ra dô Hànội giả áp dụng kỹ
thuật điện tử ghosting để phá những buổi phát thanh của địch và thay thế
vào đó những tin tức hay chỉ thị trái ngược. Qua chiến dịch Peanuts,
nhiều chục nghìn chiếc máy ra dô pin tí hon Nhựt, với tầng số xếp sẵn,
được thả dù ban đêm bên kia vĩ tuyến hay đưa vào bằng đường biển, chung
với truyền đơn và những gói tặng phẩm đựng viết, đèn cầy, sách..vv..
Nhiều
bức thơ giả mạo được viết và gởi từ Paris, Hongkong, Tokyo, Bangkok...
về địa chỉ của một số cán bộ cao và trung cấp CS ở Hànội bịa ra những
mối liên lạc mật hay chỉ trích Trung ương Ðảng. Cơ quan kiễm duyệt gắt
gao của BV có thể sa vào bẩy. Các cán bộ CS hồi chánh ở Miền Nam cũng
được khuyến khích viết thơ cho thân nhân trên vĩ tuyến 17 đề cao đời
sống ở Miền Nam.
Chương
trình Soap Chips chuyên lo việc gắn vào xác của chiến binh BV thơ trối
trăn (giả) của họ gởi về gia đình, mô tả cảnh sống cơ cực trong Quân đội
Nhân dân và thái độ cư xử hống hách của cố vấn Tàu cộng. OP 39 cũng có
chương trình Eldest Son mua lại từ quốc gia đệ tam loại súng AK-47 và
súng cối 82 ly do Trung cộng chế tạo, để tháo gở ra, gài vào bên trong
chất nổ, xong ráp lại để thả dù tại vùng CS ở Lào và Miên. Những võ khí
này gây thiệt hại cho dối phương không ít. Trước khi qua đời vào năm
1969, Hồ Chí Minh có lệ hằng năm gởi thơ chúc Tết cán bộ tại ngũ.
Quần
chúng mỏi mệt và oán ghét Bắc kinh vì chiến cuộc kéo dài. Mùa Xuân 1971,
OP 39 cho in và phổ biến ở Lào, Miên và Miền Nam 22.000 tấm thiệp ký
tên Trường Chinh, nhân vật khét tiếng thân Trung cộng đề cao "trường kỳ
kháng chiến nhất định thắng công". Theo sự tiết lộ của Bob Andrews, một
chuyên viên Tâm lý chiến, SOG có đề nghị tràn ngập BV bằng giấy bạc giả
để làm suy sụp nền kinh tế CS nhưng "thượng cấp" không chấp nhận.
Thẩm lượng kế họach OP 39. Lý do thất bại:
Hoa kỳ
đã đầu tư rất nhiều tiền, sáng kiến và kỹ thuật vào tâm lý chiến chống
Hànội. Tuy nhiên, phần kết trong phúc trình thẩm lượng tháng hai 1968
của nhóm MACV Ad Hoc Evaluation Group, do Thiếu tướng AR. Brownfield,Jr.
chủ tọa, cho biết " Chương trình SOG không rõ ràng và quá rộng, not
clear and too broad." Ba Ðại tá chỉ huy liên tiếp SOG là Clyde Russel,
Don Balckburn và Jack Singlaub cũng thú nhận kế hoạch OP 39 không đem
lại kết quả mong muốn. Nếu đào sâu, sẽ thấy nhiều lý do:
1 -
Thiếu mục tiêu chiến lược, Lack of strategic purpose. Ðúng vậy, Hoa
Thịnh Ðốn không cho phép SOG tổ chức một phong trào chống đối thật sự
trên vĩ tuyến 17 hay khuyến khích dân chúng BV hành động. Năm 1956, vì
Ngoại trưởng John Foster Dulles chống đối, HK đã bỏ qua cơ hội tổ chức
dấy lọan để lật đổ CS Bắc Việt.
Chủ
trương của Tổng thống Kennedy năm 1961 tạo bất ổn ở Miền Bắc để trả đũa
cũng lần hồi xuống giọng. Năm 1963, William Colby đề nghị áp dụng "bài
học Hung gia Lợi" ở BV nhưng không được chấp nhận vì sợ Bắc kinh phản
ứng.
Chính
sách "vừa đánh, vừa thủ" của HK làm cho Bob Andrews, một trong chuyên
gia điều khiển OP 39, than trách: Think small, don’t think big, because
if you think big, you’ll never get it done."
2 -
Thiếu sự phối trí và bổ sung, lack of coordinated planning and
integration, giũa các phần bộ của kế hoạch OP 39 bị chia cách quá đáng,
viện lẽ cần tích cực bảo mật. Không có một kế hoạch đầu não não, không
ai trong OP 39 thật sự hiểu kế hoạch sẽ dẫøn đến đâu.
3 -
Nhân sự không có đủ kinh nghiệm về tâm lý chiến và không thông hiểu văn
hoá Việt Nam. Quân nhân Mỹ và nhân viên CIA biệt phái qua kế hoạch OP
39 không được huấn luyện thích hơp để thi hành công tác đúng đắn.
4 - Thẩm lượng không chính xác ảnh hưởng của những cuộc hành quân tâm lý chiến đối với mục tiêu Bắc Việt.
Trong
kế hoạch OP 39, Phòng Sưu tầm và Phân tích, Research & Analysis, có
trách nhiệm thu thập, đối chiếu và giải thích tin tức từ Miên Bắc để một
mặt, tìm ra các yếu điểm tâm lý của phe địch và mặt khác, ấn định hiệu
quả của việc áp dụng kế hoạch.
Mục
đích thứ hai không hề thực hiện được. Bill Rydell, nguời điều khiển chót
OP 39, cho rằng sự thẩm lượng này không dễ trong một chế dộ công an trị
sau bức Màn sắt. Ít khi đối phương chịu tiết lộ hiệu quả thật sự hay
phản đối công khai.
Bắc Việt chống trả mãnh liệt.
Vì bị
gián điệp ám ảnh thường xuyên và lo ngại HK tấn công bằng chiến tranh
tâm lý nên CS đề phòng bằng nhiều phương thức gắt gao như cho báo giới
liên tục kêu gọi dân chúng cảnh tỉnh, siết chặt mạng lưới công an khắp
nới, phổ biến sâu rộng tài liệu "Chỉ dẫn và Biên pháp" và ban hành luật
phạt tối đa (tử hình, khổ sai) những hành động "phản quốc, phá rối trật
tự."
Ðặc
biệt, từ 1965 đến 1967, CS tạo trong xứ một bầu không khí căng thẳng
tối đa ố hơn cả tình trạng bị xâm nhập thật sự - để thức tỉnh dân về
chiến dịch bí mật của Mỹ. Tháng sáu 1967, hai tờ báo Học Tập và Nhân Dân
công khai tố Mặt trận Gươm Thiêng Ái quốc là một tổ chức ma và cấm nhặt
quần chúng lén nghe các "đài phát thanh lậu", đọc truyền đơn và nhận
các góí tặng phẩm từ bên ngoài.
Tuy nhiên có một điều mà Hànội không biết rõ là Hoa Thịnh Ðốn không đồng ý cho lật đổ chính phủ CS bằng võ lực.
Ðầu
tháng 11.1968, Tổng thống Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt hai kế hoạch
OP 39 và OP 34 vì Bắc Việt chiụ bắt đầu nói chuyện hoà bình.
Ngũ
Giác Ðài đợi nhiều thập niên mới bạch hoá hồ sơ chiến tranh bất quy ước
chống Hànội sau khi thua cuộc chiến quy ước năm 1975. Ðây là một bài học
đắt giá khác cho Hoa kỳ bị đánh bại lần đầu tiên từ ngày lập quốc.
Trong bao nhiêu tính toán sai lầm, ít nữa có một điều mà trùm CIA William Colby đự đoán không trật:
Tâm lý chiến đã làm Cộng sản thật sự "phát điên" vì tạo cho họ một cuộc sống ngày đêm hoảng hốt.
Cuộc
chiến bằng trí óc này đáng lý đem lại kết quả khá hơn nếu thượng tầng
lãnh đạo Hoa kỳ quyết tâm đánh để thắng và thông suốt tâm lý Á châu.
Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm
No comments:
Post a Comment