Việt Nam A và Việt Nam B
Cập nhật: 16:08 GMT - thứ tư, 19 tháng 9, 2012
Nicholas Bequelin, một
nhà quan sát chuyên về Trung Quốc đã từng nói nước này có Trung
Quốc A, Trung Quốc B để phản ánh sự phân chia tầng lớp xã hội sau sự
kiện “Thiên An Môn” năm 1989.
Ông cho rằng sau biến cố Thiên An Môn, tại
Trung Quốc hình thành thế giới: Trung Quốc A của những thành phố lớn,
nơi ở của những doanh nhân và nơi các quan chức ngoại giao nước ngoài
đến thăm.
Ở Trung Quốc A chỉ hiện hữu những vấn đề thường thấy ở bất kỳ một thành phố phát triển nào, như kẹt xe, tội phạm gia tăng.
Còn Trung Quốc B, vốn chiếm phần lớn dân số cũng
như diện tích lãnh thổ, là những vùng kém phát triển, nghèo nàn, chất
lượng giáo dục kém với những thiếu thốn về điều kiện sống cơ bản như
nước, đất, tài nguyên kinh tế, cơ sở hạ tầng.
Việt Nam, với mô hình Đổi Mới gần giống với
Khai Phóng của Trung Quốc, với mục đích xây dựng "nền kinh tế theo định
hướng xã hội" với doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo nhưng
cũng cho tư doanh được sản xuất, đã và đang đối diện những vấn đề tương
tự.
Hai thập niên xây dựng quan hệ với phương Tây và
Đông Á giúp Việt Nam đạt mức tăng trưởng đáng khen và đưa hơn 28
triệu người thoát nghèo, giảm tỷ lệ đói nghèo từ 58% năm 1993 xuống 12%
trong năm 2011.
Tuy nhiên, điều rõ ràng là trong khi chuyển sang
kinh tế thị trường, khoảng cách thu nhập ngày càng tăng đang biến Việt
Nam thành một đất nước với hai thế giới tách biệt.
Khoảng cách ngày càng lớn
Chỉ số Gini-coefficient của Việt Nam, mặc dù
thấp hơn một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan nhưng có dấu
hiệu tăng đều qua các năm qua kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu
Phát triển Kinh tế của Đại học Liên Hiệp Quốc (UNU-WIDER).
Chỉ số này được sử dụng để do khoảng cách giàu nghèo ở mỗi nước, với phạm vi từ 0 đến 1.
Con số Gini-coefficient gần đây nhất của Việt Nam được công bố là vào năm 2010, ở mức 0,43.
Tổng Cục Thống kê Việt Nam (GSO) cho biết, chỉ
số Gini-coefficient trên 0,4 được xem là báo động ở mức nguy hiểm đối
với khoảng cách thu nhập tại một quốc gia.
Chỉ số Gini-coefficient gần nhất của Trung Quốc
là ở mức 0,412 từ năm 2000. Đã hơn 11 năm nay, Chính phủ Trung Quốc từ
chối công bố chỉ số về khoảng cách giàu nghèo của mình.
Theo báo cáo của Cục thống kê Quốc gia Việt Nam
cho thấy, khoảng cách thu nhập giữa người giàu và nghèo tại Việt Nam đã
tăng từ 8,9 lần trong năm 2008 lên 9,2 lần trong năm 2011.
Thu nhập trung bình của khu vực thành thị như
thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2012 là 300 đôla/tháng, cao hơn gần gấp
10 lần thu nhập trung bình dao động ở mức 30 đôla/tháng của nhóm thu
nhập thấp.
Khảo sát của GSO cũng cho thấy chi tiêu giáo dục
của tầng lớp giàu có tại Việt Nam cao hơn 6 lần, khoản chi tiêu cho y
tế cao hơn 3,8 lần và các khoản chi tiêu vào giải trí, thể thao, văn hóa
cao hơn đến 131 lần so với tầng lớp thu nhập thấp.
'Việt Nam B'
Sản xuất lúa gạo vẫn đóng vai trò quan trọng
trong kinh tế Việt Nam, với số lượng lao động chiếm gần 30% tổng số lao
động cả nước.
Cho đến đầu năm 2012, Việt Nam xuất khẩu 7 triệu
tấn gạo, đưa nước này thành nước xuất khẩu gạo thứ nhì trên thế giới,
chỉ đứng sau Thái Lan, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam
lên hơn 3,5 tỷ đôla, theo số liệu của Hiệp hội Lương thực Việt Nam.
Ngân hàng Thế giới nhận xét: "Nông dân Việt Nam được giao nhiệm vụ nuôi cả dân tộc. Họ đã làm được và vượt mục tiêu này".
Tuy nhiên hiện tại đến 90% những người nghèo tại Việt Nam (3/4 dân số) sống ở khu vực nông thôn, cơ quan này đánh giá.
Ngân hàng Thế giới cũng ghi nhận đa số hộ trồng lúa ở Việt Nam có quy mô rất nhỏ.
Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, nếu tính trên cơ sở
30% lợi nhuận từ làm lúa giữ lại, thu nhập của mỗi người nông dân trồng
lúa chỉ ở mức 316.000 đồng/tháng, thấp hơn cả mức thấp nhất của ngưỡng
nghèo hiện nay (400.000 đồng/tháng).
Giống với Trung Quốc, Việt Nam không có hệ thống kiểm soát sự cân bằng đầu tư giữa thành thị và nông thôn.
"Có một sự phẫn uất ngày càng tăng cao từ những người nghèo đối với tầng lớp giàu có"
Carl Thayer, Giáo sư nghiên cứu Việt Nam
Khu vực nông thôn luôn phải chịu những bất cập
về nguồn nước sạch, giáo dục, cơ sở hạ tầng và diện tích đất canh tác
cũng như việc làm ngày càng bị thu hẹp trong quá trình công nghiệp hóa.
Thống kê của Bộ Lao Động Thương binh Xã hội nói
Việt Nam những năm qua đã mất khoảng 200.000 ha đất cho các dự án
công nghiệp, sân golf, căn hộ, biệt thự.
Điều này có nghĩa là gần 2,5 triệu lao động mất việc làm và người nông dân có tới 3-4 tháng nông nhàn mỗi năm.
Nông dân sau khi mất đất cũng không được giải quyết việc làm triệt để.
Một ví dụ ở Vinh cho thấy trong tổng số hơn 3000
lao động nông nghiệp được giải quyết việc làm, chỉ có khoảng 1/10 được
vào làm việc tại các nhà máy, khu công nghiệp với mức thu nhập từ 1,8
triệu đến 2,5 triệu đồng.
Lao động nông thôn ra thành thị làm bị trả công rẻ mạt và thường xuyên phải làm việc trong điều kiện rất kém.
Một điểm giống nhau nữa giữa Việt Nam và Trung Quốc, đó là hệ thống “hộ khẩu” (hukou trong tiếng Trung).
Nicholas Bequelin, làm việc cho Human Righst
Watch, đã lên án sự cố ý phân biệt đối xử với lao động nông thôn bằng
cách không cho phép người nông dân đăng ký hộ khẩu tại thành phố qua hệ
thống này: “Đây là một sự phân biệt lớn trong hệ thống đăng ký thường
trú."
“Điều này giải thích tại sao Trung Quốc có thể
tập trung nhiều tiền của và phát triển tại các thành phố, những tòa nhà
hào nhoáng mà chúng ta thấy ở khắp nơi, tất cả sự thịnh vượng, trật tự
và sạch sẽ này; bởi vì họ đã bỏ mặc tất cả những người góp phần xây dựng
chúng."
Khát vọng công bằng
Những tấm hình chụp những người tàn tật, già cả
hay những em bé hành khất trên những con đường sầm uất, cạnh những tòa
cao ốc hiện đại của các thành phố lớn ở Việt Nam có thể được tìm thấy ở
bất cứ đâu trên mạng.
Và cũng không phải là khó để tìm thấy hình ảnh
con cái hoặc những người có quan hệ thân cận với những quan chức cấp cao
trong hàng ngũ Đảng Cộng Sản trong những bộ cánh sang trọng, dù là ở
những bữa tiệc, họp báo hay khảo sát một công trình của công ty mà họ
được bổ nhiệm vị trí lãnh đạo ở độ tuổi còn rất trẻ.
Giáo sư Carl Thayer, một nhà nghiên cứu nổi
tiếng về Việt Nam bình luận:"Có một sự phẫn uất ngày càng tăng cao từ
những người nghèo đối với tầng lớp giàu có."
Nhận xét hệ thống Trung Quốc A, Trung Quốc B, Nicholas Bequelin nói:
"Chính phủ Trung Quốc nghĩ rằng có thể hy sinh
một phần dân số. Họ hiểu rằng phép màu của nền kinh tế Trung Quốc đến từ
đội ngũ lao động trẻ, đông đảo và rẻ mạt với khả năng đáp ứng lại nhu
cầu của các tập đoàn sản xuất cũng như các loại công việc cần được đáp
ứng ở các thành phố và khu vực phát triển."
"Việc không chấn chỉnh hệ thống hộ khẩu phục vụ
một mục đích: xây dựng một đội ngũ hạ lưu dễ nhân nhượng khi không có
quyền thường trú ... Họ sẽ đến, sẽ làm việc và hưởng những khoản lương
bèo bọt."
Giới phân tích nhận xét suốt những năm qua, tăng trưởng Việt Nam cũng đã dựa vào lực lượng lao động trẻ dồi dào với giá rẻ mạt.
Và cho đến nay, trước hệ thống hộ khẩu hiện tại
và hoạt động thu hẹp đất nông nghiệp liên tục những năm qua, dường như
nguồn cung cấp lực lượng này không hề thiếu.
Sự thao túng của Nhà nước trong chính sách kinh tế, xã hội, chính trị đang gần như không cho người dân một sự lựa chọn.
Phó thủ tướng Đức, ông Philipp Roesler trong
chuyến thăm Việt Nam đã phát biểu tại trường Đại học kinh tế Quốc dân
ngày 18/9 rằng “Với những người không được tự do để chọn cho
mình cách suy nghĩ và hành động độc lập, thì sẽ không có kinh
doanh, và thiếu tự do kinh tế cũng sẽ không có tự do xã hội,”
“Một đứa trẻ mồ côi thời chiến tại Việt
Nam được nhận làm con nuôi (nói về ông) mà có cơ hội vươn lên
trong một xã hội dân chủ như vậy, và gánh vác trách nhiệm lớn
thì đó là bằng chứng nền dân chủ có thể tạo ra sức mạnh như
thế nào.”, ông Roesler nói thêm.
Nhà báo Thomas Fuller có lẽ cùng đồng ý với
những ý kiến trên khi kết bài viết về khoảng cách giàu nghèo trên tờ New
York Times trong tháng Chín bằng câu ca dao Việt Nam:
“Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa lại quét lá đa,
Khi nào dân nổi can qua,
Con Vua thất thế lại ra quét chùa."
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2012/09/120919_vietnam_income_gap.shtml
__._,_.___
No comments:
Post a Comment