KÍNH THƯA CAC NT VÀ CÁC BẠN
TÌNH TRẠNG BẤY GIỜ TRUNG HOA VÀ NHẬT THỰC LỰC NHƯ HIỆN NAY-
KHÔNG BIẾT LỊCH SỬ CÓ TÁI DIỄN TƯƠNG TỰ KHÔNG.
CHIẾN TRANH TRUNG NHẬT 1895
tka23 post
Chiến tranh Nhật-Thanh (theo cách gọi ở Nhật Bản, tiếng Nhật: 日清戦争, Nisshin Sensō), hay Chiến tranh Giáp Ngọ
(theo cách gọi cũ ở Trung Quốc, tiếng Trung: 甲午戰爭, Jiǎwǔ Zhànzhēng) là
một cuộc chiến tranh giữa Đại Thanh và Đế quốc Nhật Bản diễn ra từ 1
tháng 8 năm 1894 đến 17 tháng 4 năm 1895. Cuộc chiến tranh này đã trở
thành biểu tượng về sự suy yếu của nhà Thanh và chứng tỏ sự thành công
của quá trình hiện đại hóa do công cuộc Minh Trị duy tân mang lại so với
Phong trào Dương vụ ở Trung Quốc. Kết quả của cuộc chiến này là một sự
chuyển dịch sự chi phối khu vực châu Á từ Trung Quốc sang Nhật Bản và
là một đòn chí mạng vào nhà Thanh và truyền thống Trung Quốc. Các xu
hướng này sau đó đã dẫn đến cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911.
|
Bối cảnh và nguyên nhâ
Nhật Bản từ lâu đã mong ước mở rộng lãnh địa của mình vào đại lục
Đông Á. Trong thời kỳ cai trị của Toyotomi Hideyoshi vào cuối thế kỷ 16,
Các cuộc xâm lược Triều Tiên của Nhật Bản (1592-1598) nhưng sau thành
công ban đầu đã không thể giành được thắng lợi và kiểm soát hoàn toàn
Triều Tiên.
Sau hai thế kỷ, chính sách đóng cửa đất nước dưới thời Mạc phủ
Tokugawa đã đi đến kết thúc khi Nhật Bản bị Hoa Kỳ ép mở cửa giao thương
vào năm 1854. Những năm tiếp theo cuộc Minh Trị duy tân năm 1868
và sự sụp đổ của chế độ mạc phủ, Nhật Bản đã tự chuyển đổi từ một xã hội
khá lạc hậu và phong kiến sang một quốc gia công nghiệp hiện đại. Nhật
đã cử các phái đoàn và sinh viên đi khắp thế giới để học và hấp thụ khoa
học và nghệ thuật phương Tây, điều này đã được thực hiện nhằm giúp Nhật
Bản tránh khỏi rơi vào ách thống trị của nước ngoài và cũng giúp cho
Nhật có thể cạnh tranh ngang ngửa với các cường quốc phương Tây.
Xung đột về Triều Tiên
Là một quốc gia mới nổi, Nhật Bản chuyển hướng sự chú ý của mình
đến Triều Tiên. Để bảo vệ an ninh và các lợi ích của mình, Nhật Bản vừa
muốn sáp nhập Triều Tiên trước bất kỳ một cường quốc nào khác chiếm.
Triều Tiên vẫn duy trì được nền độc lập của mình bằng cách phát triển
và cải cách chính trị. Như cố vấn người Phổ của quân đội Minh Trị đã
nói, Triều Tiên là “con dao chỉ thẳng vào trái tim nước Nhật”.
Nhật Bản cảm thấy một cường quốc khác có sự hiện diện quân sự tại bán
đảo Triều Tiên sẽ bất lợi cho an ninh quốc gia Nhật Bản, và vì vậy Nhật
Bản quyết tâm chấm dứt quyền bá chủ của Trung Quốc với Triều Tiên. Hơn
nữa, Nhật Bản nhận ra rằng có
thể tiếp cận với than và quặng sắt Triều Tiên sẽ có lợi cho sự phát
triển nền tảng công nghiệp Nhật Bản.
Triều
Tiên vẫn nạp cống phẩm theo truyền thống và tiếp tục chịu ảnh hưởng của
nhà Thanh. Triều đại này cũng có ảnh hưởng lớn đến những vị quan bảo
thủ Triều Tiên tập hợp xung quanh Hoàng gia của nhà Triều Tiên. Trong
khi đó, nội bộ Triều Tiên bị chia rẽ. Những người cải cách muốn thiết
lập quan hệ chặt chẽ hơn với Nhật Bản và các nước phương Tây.
Sau Chiến tranh Nha phiến và Chiến tranh Pháp-Thanh, Đại Thanh
đã yếu hơn và không thể kháng cự lại sự can thiệp chính trị và xâm phạm
lãnh thổ của các cường quốc phương Tây (xem Hiệp ước bất bình đẳng).
Nhật Bản thấy được cơ hội của mình trong việc thay thế ảnh hưởng của
Trung Quốc với Triều Tiên.
Ngày 27 tháng 2 năm 1876, sau khi các sự kiện nào đó và đối đầu
với những người chủ trương cô lập Triều Tiên và người Nhật, Nhật Bản áp
đặt Hòa ước Giang Hoa lên Triều Tiên, ép Triều Tiên phải tự mở cửa cho
người Nhật và ngoại thương và tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc trong
quan hệ đối ngoại.
Năm 1884 một nhóm các nhà cải cách thân Nhật lật đổ nhanh chóng
chính quyền bảo thủ thân Trung Quốc trong một cuộc đảo chính đẫm máu.
Tuy vậy, phe thân Đại Thanh, với sự giúp đỡ của quân đội nhà Thanh dưới
quyền Viên Thế Khải, đã giành lại được quyền kiểm soát bằng một cuộc lật
đổ không kém phần đẫm máu, dẫn đến cái chết của rất nhiều người cải
cách. Họ còn đốt cháy Công sứ quán Nhật Bản và gây ra cái chết của vài
người bảo vệ tòa công sứ và công dân Nhật.
Điều này dẫn đến một sự xung đột giữa Nhật Bản và Đại Thanh,
nhưng cuối cùng được giải quyết bằng Điều ước Thiên Tân năm 1885, theo
đó hai phía đồng ý:
(a) đồng thời rút quân đội viễn chinh khỏi bán đảo Triều Tiên;
(b) không gửi chuyên gia quân sự đến để huấn luyện quân đội Triều Tiên; và
(c) thông báo cho phía bên kia trước khi một bên quyết định điều quân đến Triều Tiên. Tuy vậy, người Nhật Bản nổi giận vì những nỗ lực liên tiếp của người Trung Quốc nhằm làm xói mòn ảnh hưởng của họ tại Triều Tiên.
Vị thế của hai quân đội
Nhật Bản
Những cải cách của Nhật Bản dưới thời Thiên hoàng Minh Trị đã cho
phép Nhật Bản có lực lượng lục quân và hải quân thực sự hiện đại. Nhật
Bản gửi rất nhiều sĩ quan hải quân ra nước ngoài huấn luyện, và có sức
mạnh và chiến thuật tương đương của lục quân và hải quân châu Âu.
Hải quân Đế quốc Nhật Bản
Tham chiến chính |
---|
Hộ tống hạm |
Matsushima (kỳ hạm) |
Itsukushima |
Hashidate |
Naniwa |
Takachiho |
Yaeyama |
Akitsushima |
Yoshino |
Izumi |
Tuần dương hạm |
Chiyoda |
Thiết giáp hộ tống |
Hiei |
Kongō |
Chiến hạm bọc thép |
Fuso |
Hải quân Đế quốc Nhật Bản được xây dựng theo mẫu Hải quân Hoàng gia
Anh, khi ấy là cường quốc hải quân hàng đầu thế giới. Các cố vấn người
Anh được gửi đến Nhật Bản để huấn luyện, cố vấn và huấn luyện về tổ chức
hải quân. Đồng thời, các sinh viên Nhật được gửi đến Liên hiệp Anh để
học và nghiên cứu Hải quân Hoàng gia Anh. Qua tập luyện và giảng dạy với
các hướng dẫn viên của Anh, Nhật Bản đã xây dựng được một lực lượng hải
quân rất thành thạo trong việc bắn đại bác và điều khiển tàu.[1]
Thời gian đầu chiến sự, Hải quân Đế quốc Nhật Bản bao gồm một hạm
đội (mặc dù thiếu chủ lực hạm) có 12 chiến hạm hiện đại (Tuần dương hạm
Izumi (Hòa Tuyền) được bổ sung trong thời gian chiến sự), một tuần dương
hạm (Takao) (Cao Hùng), 22 thuyền phóng lôi, và rất nhiều thương hạm vũ trang và tàu thủy được chuyển thành tàu chiến.
Nhật Bản không đủ nguồn lực để có một chủ lực hạm và vì vậy phải lên kế hoạch khai triển học thuyết "Jeune Ecole" (hạm đội nhỏ) với các tàu chiến nhỏ, chạy nhanh, đặc biệt là tuần dương hạm và tàu phóng lôi, chống lại các tàu chiến lớn.
Rất nhiều tàu chiến chính của Nhật được đóng tại các xưởng tàu của
Anh và Pháp (8 chiếc ở Anh, 3 ở Pháp, và 2 ở Nhật) và 16 thuyền phóng
lôi đã được đóng tại Pháp và tập hợp lại ở Nhật Bản.
Lục quân Đế quốc Nhật Bản
Chính quyền thời kỳ Minh Trị ban đầu xây dựng quân đội theo mẫu Lục
quân Pháp. Các cố vấn Pháp đã được gửi đến Nhật theo hai phái đoàn quân
sự (trong các năm 1872-1880 và 1884; đó được coi là các phái đoàn thứ
hai và thứ ba, phái đoàn đầu tiên là dưới thời Mạc phủ Tokugawa). Chế
độ quan dịch toàn quốc được thực thi từ năm 1873 và quân đội kiểu
phương Tây được hình thành; các kho vũ khí và trường quân sự cũng được
xây dựng.
Năm 1886, Nhật Bản chuyển hướng theo Lục quân Đức, đặc biệt là Phổ
như là nền tảng của lục quân. Học thuyết, hệ thống quân sự và cách tổ
chức của nó được học tập chi tiết và ứng dụng vào lục quân Nhật. Năm
1885, Jakob Meckel, một cố vấn người Đức ứng dựng những phương pháp mới,
ví dụ như tái tổ chức lại cấu trúc chỉ huy lục quân thành các sư đoàn
và trung đoàn, củng cố tiếp liêu, vận tải và công trình xây dựng của lục
quân (bằng cách ấy tăng cường khả năng cơ động); và thành lập các trung
đoàn pháo binh và công binh như những đơn vị độc lập.
Cho đến những năm 1890, Nhật Bản đã có một quân đội kiểu phương Tây
hiện đại, chuyên nghiệp, được trang bị và cung cấp tương đối tốt. Các
sĩ quan được du học nước ngoài và được đào tạo tốt về những chiếc lược
và chiến thuật. Cho đến đầu cuộc chiến, Lục quân Đế quốc Nhật Bản có
thể khai triển lực lượng 120.000 lính trong 2 tập đoàn quân và 5 sư
đoàn.
Cơ cấu Lục quân Đế quốc Nhật Bản 1894-1895 |
Tập đoàn quân số 1 |
---|
Sư đoàn địa phương số 3 (Nagoya) |
Sư đoàn địa phương số 5 (Hiroshima) |
Tập đoàn quân số 2 |
Sư đoàn địa phương số 1 (Tokyo) |
Sư đoàn địa phương số 2 (Sendai) |
Sư đoàn địa phương số 6 (Kumamoto) |
Lực lượng trừ bị |
Sư đoàn địa phương số 4 (Osaka) |
Lực lượng chiếm đóng Đài Loan |
Sư đoàn cận vệ |
Mặc dù Quân đội Bắc Dương - Lục quân Bắc Dương và Hạm đội Bắc Dương
– được trang bị tốt nhất và tượng trưng cho quân đội Thanh hiện đại,
song tham nhũng là một vấn đề nghiêm trọng làm xói mòn sức mạnh quân
đội. Các quan lại nhà Thanh biển thủ công quỹ một cách có hệ thống, thậm
chí ngay cả trong giai đoạn chiến tranh. Kết quả là, Hạm đội Bắc Dương
không có nổi một chủ lực hạm nào sau khi nó được thành lập vào năm 1868.
Việc mua sắm vũ khí dừng lại vào năm 1891, khi ngân sách được chuyển
sang xây dựng Di Hòa Viên ở Bắc Kinh. Tiếp liệu gặp khó khăn lớn do việc
xây dựng tuyến đường sắt Mãn Châu đã bị đình lại. Sĩ khí của quân đội
Thanh nói chung rất thấp vì thiếu lương và uy thế, việc sử dụng
thuốc phiện, và lãnh đạo kém góp phần vào những cuộc rút chạy nhục nhã
ví dụ như việc bỏ đồn Uy Hải Vệ được trang bị tốt và hoàn toàn có thể
phòng ngự.
Lục quân Bắc Dương
- Nhà Thanh không có lục quân quốc gia. Sau cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc, quân đội của nước đã bị chia cắt thành các quân đội Mãn Châu, Mông Cổ, Hồi Hột và Hán riêng, rồi được chia thành kiểu chỉ huy mang nặng tính độc lập địa phương. Trong chiến tranh, lực lượng tham chiến phía Thanh chủ yếu là Lục quân và Hạm đội Bắc Dương. Lời kêu gọi cứu viện từ quân đội Bắc Dương tới các quân đội khác hoàn toàn bị bỏ mặc vì vấn đề chia rẽ địa phương. Hoài quân và An Huy quân còn lớn hơn Lục quân Bắc Dương nhưng lại không tham chiến.
Hạm đội Bắc Dương
- Hạm đội Bắc Dương là một trong bốn đội hải quân hiện đại cuối thời nhà Thanh. Hải quân nhận được nhiều sự hậu thuẫn của Lý Hồng Chương, Tổng đốc Trực Lệ. Hạm đội Bắc Dương là hạm đội thống trị Đông Á trước Chiến tranh Nhật-Thanh, được coi là “hàng đầu Á Châu” và “lớn thứ 8 thế giới” trong thập kỷ 1880. Tuy vậy, các con tàu không được duy trì thích đáng và kỷ luật rất kém.[2]
khoảng 13 tàu phóng lôi, rất nhiều pháo hạm và thương hạm vũ trang
Mở đầu cuộc chiến
Năm 1893, nhà cách mạng Triều Tiên thân Nhật Bản, Kim Ngọc Quân (Kim Okkyun),
bị điệp viên của Viên Thế Khải ám sát tại Thượng Hải. Thi thể của ông
được mang lên một tàu chiến Trung Quốc và được gửi lại Triều Tiên, bị
cắt thành nhiều phần và trưng ra như một lời cảnh báo với các lực lượng
thân Nhật khác. Chính phủ Nhật Bản coi đó là một sự sỉ nhục trực tiếp.
Tình hình trở nên ngày càng căng thẳng khi triều đình Đại Thanh, theo
yêu cầu của vua Triều Tiên Cao Tông, gửi quân đến giúp đàn áp Phong trào
nông dân Đông học. Nhà Thanh thông báo cho chính phủ Nhật Bản biết về ý
định của mình gửi quân đến bán đảo Triều Tiên phù hợp với Điều ước
Thiên Tân, và cử tướng Viên Thế Khải làm đại diện toàn
quyền dẫn đầu 2.800 quân. Người Nhật đáp lại rằng họ coi hành động này
là một sự vi phạm Điều ước, và gửi quân đội viễn chinh 8.000 người đến
Triều Tiên (lữ đoàn hỗn hợp Oshima). Quân đội Nhật Bản sau đó bắt giam
Cao Tông, chiếm giữ Hoàng cung ở Seoul (Thủ Nhĩ) trước ngày 8
tháng 6 1894, và thay thế triều đình hiện tại bằng các thành viên từ phe
thân Nhật. Mặc dù quân đội Trung Quốc đã rời khỏi Triều Tiên vì tự thấy
mình không được chào đón ở đây, nhưng triều đình Triều Tiên thân Nhật
mới vẫn cho phép Nhật Bản quyền đánh đuổi quân đội Trung Quốc bằng vũ
lực. Nhật Bản đổ ngày càng nhiều quân vào Triều Tiên. Nhà Thanh không
thừa nhận triều đình mới của Triều Tiên. Chiến sự vì thế bùng nổ.
1 tháng 6 năm 1894: Quân nổi loạn Đông học tiến về Seoul. Triều đình Triều Tiên yêu cầu nhà Thanh giúp đỡ đàn áp cuộc nổi dậy.
6 tháng 6 năm 1894: Nhà Thanh thông báo cho chính phủ Nhật Bản theo
nghĩa vụ của Điều ước Thiên Tân về các chiến dịch quân sự của mình.
Khoảng 2.465 lính Thanh di chuyển đến Triều Tiên trong vài ngày.
8 tháng 6 năm 1894: Khoảng 4.000 lính bộ binh và 500 lính thủy đánh bộ Nhật đổ bộ xuống Jemulpo (Tế Vật Phổ, nay là (Incheon (Nhân Xuyên)) bất chấp sự phản đối của Triều Tiên và Đại Thanh.
11 tháng 6 năm 1894: Phong trào nông dân Đông học bị dập tắt.
13 tháng 6 năm 1894: Chính phủ Nhật điện tín cho Tư lệnh các lực
lượng Nhật Bản tại Triều Tiên, Otori Keisuke, rằng phải lưu trú tại
Triều Tiên càng lâu càng tốt bất chấp cuộc nổi dậy đã chấm dứt.
16 tháng 6 năm 1894: Ngoại vụ đại thần Nhật Bản Mutsu Munemitsu gặp
Uông Phượng Tảo, Đại sứ Thanh tại Nhật Bản, để thảo luận về vị thế
tương lai của Triều Tiên. Uông tuyên bố rằng triều đình Đại Thanh dự
định sẽ rút quân khỏi Triều Tiên sau khi cuộc nổi dậy bị dập tắt và hy
vọng Nhật Bản cũng làm điều tương tự. Tuy vậy, nhà Thanh cũng bổ nhiệm
một công sứ để chăm lo đến các lợi ích của mình ở Triều Tiên và để tái
bảo đảm vị thế chư hầu truyền thống của Triều Tiên với Trung Quốc.
22 tháng 6 năm 1894: Quân tiếp viện của Nhật tới Triều Tiên.
3 tháng 7 năm 1894: Otori đề nghị các cải cách với hệ thống chính
trị Triều Tiên, vốn bị những người bảo thủ và triều đình thân Trung Quốc
bác bỏ.
7 tháng 7 năm 1894: Hòa giải giữa Đại Thanh và Nhật Bản do Đại sứ Anh làm trung gian kết thúc với thất bại của nhà Thanh.
19 tháng 7 năm 1894: Thành lập Hạm đội liên hợp Nhật Bản, bao gồm
gần như toàn bộ các tàu lớn của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, để chuẩn bị
cho cuộc chiến sắp tới.
Lục quân Đế quốc Nhật Bản
quyền đánh đuổi Lục quân Bắc Dương khỏi Triều Tiê23 tháng 7 năm 1894:
Quân đội Nhật tiến vào kinh đô Seoul, bắt giam Triều Tiên Cao Tông và
thành lập triều đình thân Nhật mới, hủy bỏ mọi Điều ước Thanh-Triều .
Các sự kiện trong chiến tranh
Khai chiến
Cho đến tháng 7 năm 1894, quân Thanh ở Triều Tiên có khoảng
3.000-3.500 lính và chỉ có thể tiếp tế bằng đường biển qua vịnh Asan.
Quân Nhật có kế hoạch là ban đầu phong tỏa quân Thanh tại Asan và sau đó
bao vây họ bằng bộ binh.
Đắm tàu Cao Thăng
- Tàu Cao Thăng là một tàu buôn của Anh nặng 2.134 tấn do Indochina Steam Navigation Company ở Luân Đôn làm chủ, do thuyền trưởng T. R. Galsworthy chỉ huy và thủy thủ đoàn gồm 64 người. Chiếc tàu được triều đình Thanh thuê chở quân Thanh đến Triều Tiên. Ngày 25 tháng 7, Cao Thăng khởi hành tới Asan để tiếp viện cho quân Thanh ở đó với 1.200 lính cộng thêm lương thực và trang bị. Một sĩ quan pháo binh Đức, Thiếu tá von Hanneken, cố vấn cho quân Thanh cũng ở trên tàu.
Ngày 25 tháng 7 năm 1894, các tuần dương hạm Yoshino, Naniwa,
Akitsushima của hạm đội cơ động Nhật Bản, vốn đang tuần tra Asan, đụng
đầu với Phóng lôi hạm Tế Viễn và Pháo hạm Quảng Ất. Những con tàu này đang đi ra khỏi Asan (Nha Sơn) để gặp một pháo hạm Trung Quốc khác, chiếc Pháo hạm Thao Giang, đang hộ tống tàu Cao Thăng đến Asan. Sau một cuộc chạm trán nhanh chóng, khoảng 1 giờ đồng hồ, chiếc Tế Viễn chạy thoát trong khi chiếc Quảng Ất bị mắc cạn, và kho thuốc súng của nó phát nổ.
Tuần dương hạm Naniwa (Lãng Tốc) (dưới sự chỉ huy của
thuyền trưởng Togo Heihachiro) chặn đường Thao Giang và Cao Thăng. Thao
Giang cuối cùng bị bắt sống. Người Nhật sau đó ra lệnh cho Cao Thăng đi
theo Naniwa và yêu cầu những người châu Âu trên tàu chuyển qua tàu Naniwa.
Tuy vậy, 1.200 quân Thanh trên tàu muốn trở về Taku, và đe dọa giết
thuyền trưởng người Anh, Galsworthy và thủy thủ đoàn. Sau 4 giờ đàm
phán, Thuyền trường Togo ra lệnh nổ súng vào con tàu. Những người châu
Âu nhảy lên boong đều bị quân Thanh bắn hạ. Người Nhật cứu được vài
người trong thủy thủ đoàn. Việc chiếc Cao Thăng bị đánh chìm tạo ra một
trục trặc ngoại giao giữa Nhật Bản và Anh, nhưng hành động này được chỉ
dẫn phù
hợp với luật pháp quốc tế theo điều khoản đối xử với người làm binh
biến.
Giao chiến ở Triều Tiên
- Được triều đình Triều Tiên thân Nhật mới ủy nhiệm đánh đuổi quân Thanh khỏi lãnh thổ Triều Tiên bằng vũ lực, Thiếu tướng Oshima Yoshimasa dẫn lữ đoàn hỗn hợp Nhật Bản gồm 4.000 binh sỹ hành quân nhanh chóng từ Seoul xuống phía Nam đến vịnh Asan đối mặt với 3.500 quân Thanh đang đóng tại đồn Sŏnghwan (Thành Hoan) phía Đông Asan và Kongchu (Công Châu).
Ngày 28 tháng 7 năm 1894, quân hai bên chạm trán ngay ngoài Asan
trong một trận đánh kéo dài đến 7 giờ 30 phút sáng ngày hôm sau. Quân
Thanh dần dần mất trận địa vào quân Nhật đông hơn và mạnh hơn; cuối cùng
tan vỡ và chạy về Pyongyang (Bình Nhưỡng). Thương vong phía quân Thanh
là khoảng 500 người bị chết và bị thương. Phía quân Nhật là 82 người.
Chiến tranh Nhật-Thanh chính thức được tuyên bố vào ngày 1 tháng 8 năm 1894.
Quân Thanh còn lại ở Triều Tiên, cho đến ngày 4 tháng 8, rút lui
đến thành phố phía Bắc Bình Nhưỡng, nơi họ hợp cùng đội quân mới được
gửi đến. Lực lượng phòng thủ 13.000-15.000 người chuẩn bị và củng cố kỹ
lưỡng cho thành phố, hy vọng sẽ cản trở được bước tiến của quân Nhật.
Lục quân Đế quốc Nhật Bản chia làm vài mũi cùng kéo về Bình Nhưỡng
vào ngày 15 tháng 9 năm 1894. Quân Nhật đột kích vào thành phố và cuối
cùng tiêu diệt quân Thanh nhờ một cuộc tấn công từ cánh. Quân Thanh đầu
hàng. Tuy vậy, lợi dụng trận mưa lớn và đêm tối, lực lượng quân Thanh
còn lại hành quân ra khỏi Bình Nhưỡng và tiến lên phía Bắc đến bờ biển
và thành phố Uiju (Nghĩa Châu). Thương vong của quân Thanh là
2.000 người chết, 4.000 người bị thương. Của phía Nhật là 102 người
chết, 433 người bị thương và 33 người mất tích. Toàn quân Nhật tiến vào
Bình Nhưỡng sáng sớm ngày 16 tháng 9 năm 1894.
Tiêu diệt hạm đội Bắc Dương
- Hải quân Đế quốc Nhật Bản tiêu diệt 8 trong số 10 tàu chiến của Hạm đội Bắc Dương trên biển Hoàng Hải gần cửa sông Áp Lục ngày 17 tháng 9 năm 1894. Quyền thống trị mặt biển của người Nhật được khẳng định. Tuy vậy, quân Thanh vẫn đổ bộ được 4.500 lính ở gần sông Áp Lục.
Xâm lược Mãn Châu Lý
- Sau thất bại ở Bình Nhưỡng, nhà Thanh bỏ Bắc Triều Tiên và chuyển sang giữ thế thủ trên các đồn ở sông Áp Lục bên phía Trung Quốc gần Áp Lục Giang. Sau khi nhận được quân cứu viện, ngày 10 tháng 10 quân Nhật nhanh chóng tiến về phía Bắc hướng đến Mãn Châu.
Đêm ngày 24 tháng 10 năm 1894, quân Nhật vượt được sông Áp Lục mà
không bị phát hiện nhờ dựng các cầu phao. Chiều hôm sau, ngày 25 tháng
10 lúc 5 giờ chiều, họ tấn công đồn Hushan, phía Đông Áp Lục Giang. Lúc
10 giờ 30 tối, quân Thanh phòng thủ bỏ vị trí của mình và cho đến ngày
hôm sau đã rút lui toàn bộ khỏi Áp Lục Giang. Với việc chiếm được Áp Lục
Giang, Tập đoàn quân số 1 của Tướng Yamagata đã chiếm được ngoại ô
thành phố Đan Đông. Trong khi đó, đội quân tháo chạy của Lục quân Bắc
Dương nổi lửa đốt thành phố Phụng Thành. Quân Nhật đã đứng vững chắc
trên lãnh thổ Trung Quốc với chỉ 4 người bị giết và 140 người bị thương.
Tập đoàn quân số 1 sau đó chia làm 2 hướng với Sư đoàn địa phương
số 5 của Tướng Nozu Michitsura tiến đến thành phố Thẩm Dương và Sư đoàn
địa phương số 3 của Trung Tướng Katsura Taro đuổi theo tàn quân Thanh về
phía Tây đến bán đảo Liêu Đông. Cho đến tháng 12, Sư đoàn địa phương số
3 đã chiếm được các thị trấn Ta-tung-kau, Ta-ku-shan, Tự Nham,
Tomu-cheng, Hai-cheng, và Kang-wa-seh. Sư đoàn địa phương số 5 hành quân
chống lại thời tiết khắc nghiệt ở Mãn Châu Lý tiến đến Thẩm Dương.
Tập đoàn quân số 2 của Oyama Iwao đổ bộ xuống phía Nam bán đảo Liêu
Đông ngày 24 tháng 10 và nhanh chóng chiếm được Tiến Hiền và Đại Liên
vào các ngày 6-7 tháng 11. Quân Nhật bao vây cảng chiến lược Lữ Thuận.
- Ngày 21 tháng 11 năm 1894, quân Nhật đã chiếm được thành phố Lữ Thuận. Quân Nhật được cho là đã thảm sát hàng ngàn thường dân Trung Quốc, trong một sự kiện gọi là Đại tàn sát Lữ Thuận (Lữ Thuận đại đồ sát).
Ngày 10 tháng 12 năm 1894, Kaipeng (ngày nay là Cái Huyện, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc) mất về tay Tập đoàn quân số 1 Nhật Bản.
Uy Hải Vệ thất thủ và sau trận đánh
- Hải quân Thanh sau đó rút lui đến sau các công sự tại Uy Hải Vệ. Tuy vậy, họ lại bị lục quân Nhật Bản đột kích vào sườn quân phòng ngự bến cảng. Trận Uy Hải Vệ kéo dài 23 ngày bao vây với lực lượng bộ binh và thủy quân lớn diễn ra từ 20 tháng 1 đến 12 tháng 2 năm 1895.
Sau sự thất thủ của Uy Hải Vệ vào ngày 12 tháng 2 năm 1895 và thời
tiết mùa đông bớt khắc nghiêt, quân đội Nhật tiến sâu hơn nữa xuống phía
Nam Mãn Châu và Bắc Trung Quốc. Cho đến tháng 3 năm 1895, quân Nhật đã
chiếm được các đồn kiểm soát đường biển đến Bắc Kinh. Đây sẽ là những
trận đánh lớn cuối cùng, tuy vậy, hàng loạt các vụ xung đột lẻ tẻ vẫn
tiếp diễn. Trận Doanh Khẩu diễn ra ngoài thành Doanh Khẩu, Mãn Châu Lý
vào ngày 5 tháng 3 năm 1895.
Xâm lược Đài Loan và Bành Hồ
- Ngày 26 tháng 3 1895, quân Nhật xâm lược và chiếm quần đảo Bành Hồ ngoài khơi Đài Loan mà không bị thương vong, trong khi đó vào ngày 29 tháng 3 năm 1895, quân Nhật dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Motonori Kabayama đổ bộ xuống phía Bắc Đài Loan và tiến lên chiếm toàn bộ .
Kết thúc chiến tranh
Hòa ước Mã Quan ký ngày 17 tháng 4 1895 theo đó nhà Thanh công nhận
sự độc lập hoàn toàn của Triều Tiên, nhượng lại bán đảo Liêu Đông (ngày
nay là phía Nam tỉnh Liêu Ninh) cho Nhật Bản "vĩnh viễn". Thêm vào đó, Thanh phải trả cho Nhật Bản 200 triệu lượng bạc bồi thường chiến phí.
Nhà Thanh cũng ký hiệp ước thương mại cho phép tàu của Nhật tiến vào
sông Trường Giang, mở các nhà máy gia công ở các cảng theo điều ước và
mở thêm bốn bến cảng nữa cho ngoại thương. Tuy vậy, các nước phương Tây
đã can thiệp buộc Nhật phải từ bỏ bán đảo Liêu Đông để đổi lấy 30 triệu
lạng bạc (450 triệu yen).
Bồi thường chiến phí
Sau chiến tranh, theo học giả Trung Quốc, Jin Xide, nhà Thanh phải
trả tổng cộng 340.000.000 lạng bạc cho Nhật Bản cho cả bồi thường chiến
phí và chiến lợi phẩm, tương đương với 510.000.000 yên Nhật, bằng khoảng
6,4 lần thu ngân sách Nhật Bản. Tương tự, học giả Nhật Bản, Ryoko
Iechika, tính toán rằng nhà Thanh đã trả tổng cộng 21.000.000 dollar Mỹ,
bằng 1/3 tồng thu của triều Thanh để bồi thường chiến phí cho Nhật Bản,
hay khoảng 320.000.000 yên Nhật, tương đương với thu ngân sách Nhật Bản
trong vòng 2,5 năm.
Hậu chiến
Chiến thắng của Nhật Bản trong chiến tranh là kết quả của hai thập kỷ nỗ lực công nghiệp hóa và hiện đại hóa trước đó. Chiến tranh thể hiện sự vượt trội của chiến thuật và huấn luyện của người Nhật nhờ áp dụng kiểu quân sự Tây phương.
Lục quân và Hải quân Đế quốc Nhật Bản có thể giáng cho quân Thanh hàng
loạt thất bại qua tầm nhìn xa, tính nhẫn nại, chiến lược và sức mạnh tổ
chức. Uy thế của nước Nhật tăng lên trong mắt quốc tế. Chiến thắng này
đánh dấu việc Nhật Bản vươn lên thành một thế lực trong khu vực (nếu
không phải là một cường quốc theo nghĩa tương đương với phương Tây và là
thế lực thống trị ở Á Đông.[3]
Cuộc chiến cũng đã hé lộ sự thiếu hiệu quả của triều đình, các
chính sách, sự tham những trong hệ thống hành chính và sự mục nát của
nhà Thanh (điều đã được nhận rõ từ hàng thập kỷ trước đó). Tình cảm bài
ngoại công khai tăng lên và sau này lên tới cao điểm trong cuộc khởi
nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn 5 năm sau đó. Trong suốt thế kỷ 19, nhà Thanh không
thể ngăn ngừa được sự xâm phạm lãnh thổ của nước ngoài—điều này cùng
với lời kêu gọi cải cách và nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn sẽ là nhân tố chủ
chốt dẫn đến cuộc cách mạng năm 1911 và sự sụp đổ của nhà Thanh năm
1912.
Mặc dù Nhật Bản đã đạt được điều mình mong muốn, là chấm dứt ảnh
hưởng của Trung Quốc với Triều Tiên, Nhật miễn cưỡng phải trả lại bán
đảo Liêu Đông (Lữ Thuận) để đổi lấy sự bồi thường tài chính lớn hơn. Các
cường quốc phương Tây (đặc biệt là Nga) trong khi không có mục đích nào
với các điều khoản của hiệp ước, cảm thấy rằng nước Nhật không nên có
được cảng Arthur, vì chính họ cũng có tham vọng với khu vực này của thế
giới. Nga thuyết phục Đức và Pháp cùng với họ tạo áp lực ngoại giao với
Nhật, dẫn đến cuộc Tam Cường can thiệp ngày 23 tháng 4 1895.
Năm 1898 Nga ký hợp đồng thuê bán đảo Liêu Đông trong vòng 25 năm
và tiếp đó xây dựng một trạm hải quân tại cảng Lữ Thuận. Mặc dù việc này
làm người Nhật tức điên, họ vẫn lo ngại với sự xâm lấn của nước Nga đến
Triều Tiên hơn là đến Mãn Châu Lý. Các cường quốc khác, ví dụ như Pháp,
Đức và Anh, lợi dụng tình hình của Trung Quốc mà nhận được các nhượng
bộ về bến cảng và thương mại trả giá bằng sự suy tàn của nhà Thanh.
Thanh Đảo và Giao Châu nhượng lại cho Đức, Vịnh Quảng Châu cho Pháp, và
Uy Hải Vệ cho Anh.
Căng thẳng giữa Nga và Nhật leo thang trong những năm sau chiến
tranh Trung-Nhật. Trong cuộc nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn Liên quân 8 nước
được cử đến để đàn áp cuộc nổi dậy; Nga cử quân đội tiến vào Mãn Châu Lý
như là một phần của liên quân. Sau khi đánh bại Nghĩa Hòa Đoàn, chính
phủ Nga quyết định bỏ trống vùng này. Tuy vậy, cho đến năm 1903, họ thực
tế lại tăng số lượng quân tại đây. Đàm phán giữa hai quốc gia
(1901–1904) để thiết lập sự công nhận lẫn nhau về phạm vi ảnh hưởng (Nga
với Mãn Châu Lý và Nhật với Triều tiên) liên tục bị người Nga làm cho
đình đốn một cách có chủ đích. Họ cảm thấy rằng họ có đủ sức mạnh và sự
tự tin để không chấp nhận bầy kỳ một sự thương lượng nào và tin rằng
Nhật Bản
sẽ không dám khai chiến với một cường quốc Âu Châu. Nga cũng có ý định
sử dụng Mãn Châu Lý làm bàn đạp để mở rộng hơn nữa lợi ích của mình tại
vùng Viễn Đông.
Năm 1902, Nhật Bản lập liên
minh với Anh, các điều khoản của liên minh này chỉ rõ nếu Nhật Bản tham
chiến tại Viễn Đông, và một cường quốc thứ ba tham chiến chống Nhật
Bản, Anh quốc sẽ đến cứu viện người Nhật. Điều này có tác dụng
ngăng cản cả Đức lẫn Pháp có bất kỳ một can thiệp quân sự nào trong cuộc
chiến tương lai với Nga. Lý do của người Anh khi tham gia liên minh này
cũng là để ngăn chặn việc nước Nga mở rộng ảnh hưởng xuống Thái Bình
Dương, qua đó đe dọa các lợi ích của nước Anh.
Căng thẳng gia tăng giữa Nhật và Nga là kết quả của việc Nga không muốn
tham gia thương thuyết và triển vọng Triều Tiên sẽ rơi vào tay người
Nga, vì thế sẽ làm xói mòn các lợi ích của nước Nhật, từ đó, nước Nhật
buộc phải hành động. Điều này là yếu tố quyết định và chất xúc tác để
dẫn đến cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904–05).
BKTT
__._,_.___
Recent Activity:
No comments:
Post a Comment