NHẤT LINH: KẺ ĐÃ CHỌN CÁI CHẾT ĐỂ GIỮ MÌNH LƯƠNG THIỆN!
*NGUYỄN THIẾU NHẪN
“Đời tôi để lịch sử xử. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập
quốc gia sẽ là một tội nặng, sẽ làm mất nước trong tay Cộng Sản…”
Thoắt mà đã 47 năm, kể từ ngày văn hào Nhất Linh, người đã dùng
thuốc độc hủy mình “để cảnh cáo những người chà đạp lên mọi thứ tự do”. Đất nước
đã thực sự lọt vào tay Cộng Sản 12 năm sau di chúc lịch sử của văn hào Nhất
Linh được công bố.
Nhà văn Nhật Tiến, giải thưởng văn chương toàn quốc với truyện
dài “Thềm Hoang”, cách đây hơn 30 năm, đã đại diện một nhóm nhà văn độc lập, đọc
trước linh cữu Nhất Linh khi hạ huyệt những lời vĩnh biệt:
“Kính thưa anh hồn văn
hào Nhất Linh,
Thật vô cùng đau đớn
và xót xa cho chúng tôi khi chúng tôi nhận được tin văn hào đã quyết tâm từ bỏ
hoàn cảnh sống nhỏ nhen và tăm tối này để đi về chốn thanh cao.
Đại diện cho một nhóm
nhà văn độc lập, không phụ thuộc một màu sắc chính trị, không gia nhập một đảng
phái, hôm nay trước anh hồn của văn hào, chúng tôi xin được bày tỏ lòng tiếc
xót của chúng tôi.
Trọn một đời gian khổ,
không ngại khó khăn, không màng danh vọng, văn hào đã tận tụy hy sinh, từ bỏ
mọi quyền lợi riêng để tranh đấu cho lý tưởng tự do, cho cuộc sống hạnh phúc
của dân tộc.
Văn hào đã hoàn thành
sứ mạng của người cầm bút.
Văn hào đã nêu cao sĩ
khí bất khuất của truyền thống những nhà văn chân chính.
Cái chết của văn hào
sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi sáng con đường tăm tối của chúng tôi đang đi, là
niềm khích lệ lớn lao cho những khó nhọc mà chúng tôi sẽ gặp gỡ, là một tấm
gương sáng láng mà mãi mãi những kẻ cầm bút đi sau như chúng tôi phải soi vào
để suy gẫm.
Chúng tôi xin nguyện
trước anh hồn của văn hào là chúng tôi sẽ nhất quyết theo đuổi con đường cao
đẹp mà văn hào đã vạch ra.
Đó là sự hoàn thành sứ
mạng cao quý của các nhà văn.
Đó là sự chống đối mãi
mãi bạo quyền và bạo lực.
Đó là sự đòi hỏi đến
kỳ cùng quyền tự do được sống làm người của toàn thể dân tộc, như ý muốn của
văn hào trước khi nhắm mắt.
Ôi! Nói làm sao cho
xiết nỗi lòng thống thiết của chúng tôi trong những giờ phút đau đớn này.
Chúng tôi chỉ xin cầu
nguyện cho anh hồn của văn hào sớm tiêu diêu miền Cực Lạc, cũng như xin văn hào
linh thiêng chứng nhận những lời nói chân thành của chúng tôi trong giây phút
vĩnh biệt này”.
Tôi tin, cũng như nhiều người khác tin, những lời vĩnh biệt
rất văn hoa và đầy xúc động của nhà văn Nhật Tiến khi ông đọc trước linh cữu của
văn hào Nhất Linh - con người mang tên hai chữ Nhất Linh trong suốt cuộc đời đã
không làm điều gì vô ích, kể cả điều thông thường con người không có quyền làm
là sự chết - nói theo cách nói của luật sư Dương
Kiền.
Sau năm 1975, nhà văn Nhật Tiến đã ở lại Việt Nam, đã biết
thế nào là Cộng Sản, và sau đó đã vượt biển để biết thế nào là cái tâm trạng:
Ta thương ta kiếp
thuyền nhân
Một lần vượt biển muôn
phần đớn đau!
Có điều tôi không hiểu, tôi cũng nghĩ rằng nhiều người khác
không hiểu, về những việc làm của nhà văn Nhật Tiến trong vài ba năm trở lại đây.
Ông tuyên bố rùm beng trên báo chí trước khi trở về Việt Nam “để tìm chất liệu
sáng tác”. Ông đã mang sách “Trăm hoa
vẫn nở trên quê hương” về Việt Nam. Sau đó, trở ra hải ngoại chỉ thấy ông
im hơi, lặng tiếng. Có điều gì sai chạy chăng? Nhà văn vẫn theo đuổi những điều
đã hứa trước linh cữu của văn hào Nhất Linh là “hoàn thành sứ mạng cao quý của
các nhà văn… chống đối mãi mãi bạo quyền và bạo lực” với tư cách một nhà văn độc
lập hay giờ đây ông đã “phụ thuộc một màu sắc chính trị”?
*
Hoàng Phủ Ngọc Tường,
là người đã cùng Hoàng Phủ Ngọc Phan,
Nguyễn Đắc Xuân là “những người đã làm vỡ mộng bao cô gái Huế sau Tết Mậu
Thân” - nói theo cách nói của nhà thơ Cao
Mỵ Nhân.
Trong tạp ghi “Không Chung Một Bầu Trời”, nhà thơ Cao Mỵ Nhân
viết về buổi lễ kỷ niệm 20 năm Tết Mậu Thân được tổ chức vào mùa Xuân 1988 tại
Nhà Văn Hoá Thanh Niên thành phố Hồ Chí Minh như sau:
“… Hội trường chật cứng những người, ai cũng muốn biết cái gì
là quan điểm của bên kia về Tết Mậu Thân Huế. Có lẽ cái đinh của buổi “20 Năm Tết
Mậu Thân Huế” hôm đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường, hay nói cách khác, Hoàng Phủ Ngọc
Tường nói gần như hụt hơi, Phan không lên máy vi âm “cứu bồ” chỉ đứng tại chỗ
phía dưới khi ban tổ chức giới thiệu, Nguyễn Đắc Xuân cũng vậy, nay Xuân tóc bạc
trắng, dung nhan phờ phạc, mơ hồ, không còn nét đấu tranh kiểu “tâm ca” xa xưa,
trước thuở vô bưng.
Vì cả ba người Tường, Phan, Xuân đều hoạt động văn nghệ Cộng
Sản với bút pháp Nguyễn Tuân, nhưng Tường vốn làm thơ, nên buổi nói chuyện đã
chuyển qua không khí một đêm… thơ, hơn là đặc công du kích, chắc muốn cho vơi bớt
hận thù.
Phàm là một người làm thơ, nếu lỡ có tàn ác, gian xảo, tồi tệ,
xấu xa… đến đâu, hình như cũng có lúc “thật mình” như thế, mới đúng là thi sĩ
chăng? Hoàng Phủ Ngọc Tường làm thơ không nhiều, nhưng riêng về mặt thơ thôi,
thì lại có vẻ thi phong, thi cốt:
Thôi em, cảm tạ chờ
mong,
Ngày anh đi hái phù
dung chưa về.
Đêm qua, hương đã tàn mê,
Mày ai còn dấu trăng
thề như in…
Rõ ràng những chờ mong tuổi trẻ đã tàn phai, lầm lỡ, như sắc
hoa phù dung: sáng đỏ, trưa hồng, tối trắng hay là phù dung thì sớm nở, tối tàn.
Và khi đã tàn cơn mê, thì nét vẽ chân mày cong lên như dấu trăng thề in rõ rành
rành tức là nhướng mắt nhìn sự bất lực của mình:
Bây giờ đã hết trò
chơi,
Đã tàn cuộc rượu, để
người ra đi.
Đêm qua, không biết
làm gì,
Muốn tìm về gã Trương
Chi nghe đàn.
Và hai câu kết bài thơ “Đêm qua” tức là qua rồi giấc mơ chẳng
đẹp đẽ gì, chỉ toàn là ác mộng:
Đêm qua nhớ lũ đười
ươi,
Lang thang rũ một trận
cười trong mây.
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là một người Việt Nam, một người
Huế sinh ra và trưởng thành ở Huế, quá đà mộng dữ, đã phản bội lại Huế hoa niên
của Tường, rồi cũng làm thơ, đến khi bắt gặp sự thật phũ phàng, mới thu hình về
sống cô đơn với chính mình, gã đã thấy cuộc chơi nguy hiểm, không còn hứng thú,
đành đi tìm nghe một tiếng đàn Trương Chi. Ai Việt Nam chẳng biết chàng Trương Chi
xấu xí nên thà là mờ mờ nhân ảnh, kính nhi viễn chi, cho “kim cương” biến thành
nước mắt:
Thôi em, cảm tạ con
người,
Đã thương, đã ghét
giữa trời mênh mông.
Đêm qua rơi xuống cội
lòng,
Vàng in chiếc lá ngô
đồng thiên thu…
Chao ôi, sắc “vàng” trừu tượng đã giấu vào thiên thu ký ức,
Hoàng Phủ Ngọc Tường với dư âm, dư ảnh Tết Mậu Thân Huế, sẽ mãi mãi ám ảnh người
dân Huế, không sao xóa nổi hận thù, gã sẽ như một thứ Trương Chi cụ thể, mà Huế
như hàng vạn công nương, gã có tương tư Huế đến đâu, Huế cũng không thể sống
chung bởi con người Hoàng Phủ Ngọc Tuờng đã lỡ phát sinh một khối uất hờn vô lý
nhất là khi “đánh Huế”. Nên thôi, suốt đời nhân dân Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường
chỉ cùng uống nước sông Hương mà không thể chung bầu trời tâm sự (có thể hiểu là
không đội trời chung đấy)”.
Hai mươi năm sau biến cố Tết Mậu Thân, người cầm bút miền
Nam, nhà thơ Cao Mỵ Nhân nghĩ về “người đi hái phù dung” (*) Hoàng Phủ Ngọc Tường
như thế, không biết có đúng không?
Thời “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc”, nhà thơ Quang Dũng chỉ vì:
Mắt trừng gửi mộng qua
biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm!
mà đã bị nhà cầm quyền Cộng sản “đì” suốt bao nhiêu năm trời.
Những người cầm bút chân chính chắc chắn có những xúc động thực lòng khi nghĩ về
quê hương, đất nước, con người trước khi viết ra. Nhưng sau đó, có thể vì những
suy nghĩ sai lầm, vì tham vọng cá nhân, vì ngộ nhận của dư luận… mà mọi chuyện,
sau đó, đã khác đi.
Người cầm bút cũng như bao nhiêu con người khác, họ cũng có
quyền sai lầm, vấp ngã. Điều quan trọng là sau khi vấp ngã có còn can đảm đứng
lên và bước tới?
Trong thập niên 40, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam giã từ con đường
văn học, bước vào chính trị. Năm 1948, sau khi Bảo Đại ký kết với Pháp thoả hiệp 5 tháng 6, Nhất Linh quyết định
giã từ chính trường. Sau đó ông vào miền Nam hoạt động văn hóa. Ông không tin ở chính trị mà ông tin ở lòng
người, ở một cái đạo ông tìm ra trong hương thơm của hoa phong lan. Và ông
đã chọn cái chết để giữ mình lương thiện:
Người đi, đi mãi không
về
Nhớ người dòng suối Đa
Mê gợi buồn!
Năm 1968, Hoàng Phủ Ngọc Tường tham gia đánh Huế trong biến
cố Tết Mậu Thân. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chít giải khăn sô cho hàng vạn công nương
Huế! Sau đó, Hoàng Phủ Ngọc Tuờng đã tự nhận mình là “người đi hái phù dung”. Phù dung là một loài hoa tam sắc túy: mới
trổ màu trắng, rồi hường, gần tàn biến đỏ:
Phù dung sớm nở, tối
tàn
Tiếng đồn rực rỡ, hỏi
nàng có không?
Khi đưa tay hái đoá phù dung, Hoàng Phủ Ngọc Tường có biết đâu
đã sẵn đau thương đợi chờ!
Cách đây 30 năm, nhà văn Nhật Tiến đã đọc bài điếu văn làm xúc
động lòng người trước linh cữu văn hào Nhất Linh. Cách đây vài năm, Nhật Tiến bị
dư luận “lên án” vì có tác phẩm “hoà giải” hoặc “trung lập”. Nhà văn này đã nói
rằng tuy sống ở xã hội tự do nhưng: “Tôi
thấy rõ người cầm bút ở đây chưa thực sự có tự do cầm bút”.
Câu tuyên bố của nhà văn Nhật Tiến quả có điều khó hiểu.
Cho đến năm 1987, vào hai ngày 6 và 7 tháng 10, trong một cuộc
nói chuyện với hơn 100 văn nghệ sĩ ở trong nước, Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ, xác
nhận 2 điều:
-
Đảng đã đánh giá thấp vai trò, vị trí của văn học, nghệ
thuật;
-
Đảng thiếu dân chủ, trói buộc văn nghệ sĩ, nhiều khi độc
đoán, sát phạt.
Lời xác nhận như những hồi trống giáo đầu của vở kịch “Cao
trào Văn nghệ Phản kháng” từ bấy đến nay với màn vĩ thanh như thế nào chắc nhà
văn Nhật Tiến đã rõ.
Không biết nhà văn Nhật Tiến thích loại hoa nào: hoa phong
lan hay hoa phù dung?!
Bài viết này lẽ ra đã được kết luận với câu kết như trên nếu
tôi không tình cờ đọc được bài phỏng vấn của báo Thanh Niên của Cộng sản Việt
Nam được tạp chí Cuộc Đời số 19, tháng 1-1995, đăng lại. Bài phỏng vấn nhan đề “Nhật Tiến - Quê Hương: Chiếc nôi nuôi
dưỡng nguồn cảm hứng sáng tạo”.
Nhà văn Nhật Tiến tuyên bố với phóng viên báo Thanh Niên là “quê hương đã có nhiều thay đổi, nhất là
về chính sách kinh tế và ngoại giao”, Nhà văn cho biết là ông và Nhật Tuấn (em ruột của ông) sẽ in chung
tập truyện ngắn “Quê Hương - Quê Người”. Sách sẽ do nhà xuất bản Văn Hóa ở
trong nước xuất bản.
Trong cuộc phỏng vấn, Nhật Tiến cũng cho biết là “trong 15 năm xa quê, tôi chỉ in được vài
ba tập truyện ngắn, một truyện dài và một tập bút ký viết chung với hai ký giả
khác”.
Được hỏi: “Lựa chọn quê hương là nơi đầu tiên ra mắt cho tác
phẩm, điều đó với ông mang ý nghĩa gì?”
Nhật Tiến đã trả lời như sau: “Đó là sự lựa chọn có ý thức và
với tôi mang nhiều ý nghĩa. Trước hết là tôi luôn mong mỏi những sáng tác của
mình tới được tay độc giả trong nước, bởi vì dẫu sao quê hương, đồng bào, dân
tộc vẫn là cái nôi nuôi dưỡng nguồn cảm hứng sáng tạo cho tất cả văn nghệ sĩ.
Sau nữa, việc in chung tác phẩm với một nhà văn trong nước ngay tại quê nhà
cũng là một bước cụ thể trong tiến trình hòa hợp trên tinh thần dân tộc để xây
dựng một đất nước phồn thịnh mà tôi vẫn hằng suy nghĩ từ gần hơn 10 năm qua”.
Ở hải ngoại, cũng một vấn đế người ta có thể có nhiều cách nhìn nhận, đánh
giá khác nhau và đôi khi hơi ồn ào. Trong giai đoạn đầu, khoảng 1991-1992, tôi
cùng một số bạn bè văn nghệ hết sức tán thành và hỗ trợ cho bất cứ tờ báo nào
thực hiện được chủ trương hòa hợp dân tộc như tôi đã nói trên. “Hợp Lưu” là một
trường hợp cụ thể. Riêng tôi, vì báo chí không phải là ngành chuyên môn, lại
không có thời gian dành cho lãnh vực văn nghệ nên chỉ hỗ trợ cho “Hợp Lưu” trên
phương diện tinh thần là chính. Sau này, cảm thấy tự ngượng, vì thực tế, nhất
là những năm 1993-1994, mình chẳng đóng góp được điều gì thiết thực, cụ thể cho
tờ báo mà vẫn được để tên trong ban chủ trương nên tôi tự động rút tên. Đây
hoàn toàn chỉ là vấn đề tự trọng và sự lương thiện trí thức đối với độc giả mà
thôi”.
Tôi tin nhà văn Nhật Tiến đã có “vấn đề tự trọng và sự lương
thiện trí thức” khi trả lời câu phỏng vấn của báo Thanh Niên của Cộng Sản Việt
Nam: “Hình như tinh thần dân tộc đó đã được ông thể hiện bằng cách hành động và
đã nhận lãnh nhiều “búa rìu” dư luận tại hải ngoại. Có phải ông là một trong những
người chủ trương tạp chí Hợp Lưu”?
Trong cuộc sống, có người đi bên này sông, có người đi bên
kia sông, có người lội xuống giữa dòng mà đi. Ai cũng có quyền thương yêu thù hận
trong đời.
“Những người cầm bút,
có người coi sự hoạt động chính trị như phản lại sự độc lập của ngòi bút và khước từ tham gia chính trị
với quan điểm rằng công việc của nhà văn giản dị là chỉ có viết mà thôi; có
người lại chủ trương tham gia hoạt động cộng đồng như một công dân và tham gia
chính trị với ý nghĩa tích cực nhất” - như kịch tác gia Vaclav Havel, đương kim Tổng thống Tiệp
Khắc, đã phát biểu trong Đại hội Văn Bút vào năm 1995.
Dù chọn lựa thái độ nào thì sáng tác của những người cầm bút
cũng phải gắn liền với thời đại mà anh ta đang sống. Và phải chịu sự phán xét của
độc giả. Và người cầm bút nào cũng phải biết rằng những cái còn lại là sau khi
anh ta đã nằm xuống.
Trong quyển “Godfather”,
một quyển truyện găng-tơ nổi tiếng của Mario
Puzo, hai nhân vật chính: “Bố Già Bố” Vitto
Corleon và “Bố Già Con” Michael
Corleon, không ám ảnh tôi bằng hai người vợ của hai nhân vật này.
Hai người đàn bà, một người là mẹ chồng, một người là nàng dâu.
Cả hai người đều là vợ của hai ông Trùm Quyền Lực giới găng-tơ trong tiểu thuyết
của Mario Puzo, mỗi cuối tuần đều đến nhà thờ cầu nguyện cho linh hồn của chồng
mình.
Cách đây vài năm, trên một nhật báo, tôi có đọc được tin là
bà Đỗ Phương Khanh, vợ của nhà văn Nhật Tiến mỗi tối đều lên chùa để cầu
nguyện khi nhà văn này về Việt Nam.
Tôi không nhớ rõ lý do bài báo viết vì sao bà Phương Khanh
phải lên chùa cầu nguyện. Mãi cho tới bây giờ, tôi cũng không biết rõ lý do. Bà
Phương Khanh cầu nguyện - như bà Vitto Corleon và bà Michael Corleon cầu nguyện
cho linh hồn của chồng mình vì biết chồng mình làm chuyện gian ác mà không thể
ngăn cản được? Hay là vì lý do bà chỉ là một Phật tử?
Có điều tôi biết chắc chắn rằng hoa phong lan thanh tao, cao
quý hơn hoa phù dung tam sắc túy!
Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đã chít giải khăn sô cho
hàng vạn công nương Huế tự nhận mình là người đi hái phù dung không có gì khó
hiểu.
Chỉ tiếc cho nhà văn
Nhật Tiến!
NGUYỄN THIẾU NHẪN
http://nguyenthieunhan.wordpress.com
__._,_.___
No comments:
Post a Comment