Sunday, August 19, 2012

Bức ảnh đau lòng và ngậm ngùi cho người QG, CS tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn.


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành quyết:

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các
anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục
tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu
cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có
quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán các anh là giặc đỏ hay tôi là
ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo Cộng
Sản. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm".


*****************************************************************************************************




Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn: Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân

Phạm Phong Dinh

Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi ông còn là
một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở
Miền Tây. Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm
1960 đã để ý nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ,
về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh.
Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xõng lưng dẫn
quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường
đồng bằng sông Cửu Long. Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với
những chiến thắng. Chỉ trong vòng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã
được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 1
thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh “Tia Sét Miền Tây”. Lúc đó
trên lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những khuôn mặt chiến binh
dũng mãnh mà đã đƯợc ca tụng là những con mãnh hổ miền Tây, Đại Úy Hồ
Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này. Những vị còn lại gồm
những tên tuổi như sau:
- Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.
- Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân.
- Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.
- Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ21BB.
- Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ21BB.
Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu
phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng.
Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được vinh danh
là những anh hùng, vì những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc.

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch
Giá. Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dưới
sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Đại Tá Cẩn không may sinh
ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông
sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc
học của ông bị gián đoạn. Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới
được đi học lại, sau khi tình hình ở các thành phố trở lại yên tĩnh,
quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành
phố. Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được
bốn năm thì thân sinh của cậu quyết định xin cho
cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định. Có lẽ vị thân sinh của
người đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và
ý hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm
nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước

Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đã
17 tuổi, đã ngáng bước đi lên về mặt văn hóa. Theo học quy của Trường
Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ
được gửi đi học chuyên môn. Vì vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được
trường gửi lên Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ
Khí. Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung bình,
nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu. Ông
được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nhì CC2. Sau khóa học này
ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với
cấp bậc Binh Nhì. Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, thì ba
tháng sau, Binh Nhì Hồ Ngọc Cẩn sẽ
được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba
tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ. Trong vòng chín tháng kế tiếp, với
khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm
huấn luyện viên vũ khí cho trường.

Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng
quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn. Nhưng
định mệnh đã dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân
đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền
tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc. Tình
hình quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một
quân đội còn tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu
hụt. Bộ Quốc Phòng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ
năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng
đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến. Một may mắn lớn cho Trung
Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là
may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng
Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, một cựu Thiếu Sinh Quân,
đã nâng đỡ cho các đàn em TSQ. Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm
năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa
Sĩ Quan Đặc Biệt. Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại
Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh
Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy
Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh
Quân Đội, Lực Lượng Đặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng
không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các
Trường Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa
để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi
trẻ kế tiếp. Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học
Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ
huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại
Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Các tân Chuẩn Úy Đặc
Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp
bốn phương và sau này đã trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của
quân lực, lưu danh quân sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về
Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi
Sình Lầy của binh chủng Mũ Nâu. Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo
lệnh của TT Diệm, đã được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn. Khu
42 Chiến Thuật gồm lãnh thổ các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba
Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu
đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đó là Tiểu
Đoàn 42 Biệt Động Quân “Cọp Ba Đầu Rằn”, và Tiểu Đoàn 44 Biệt Động
Quân “Cọp Xám”. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu
Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng. Khả năng quân sự thiên bẩm, tài
chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã đem
nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách
nhiều lần tại mặt trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng

Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn. Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm
làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một
chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc
Cẩn. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác
phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính
phục. Cung cách đánh giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân
lên thập bội, khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các
chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông. Lời
yêu cầu này được thỏa mãn một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn
có thêm được sức mạnh cần thiết. Có lần ông tâm sự với một người bạn
lý do này: “Một là để dễ sai. Tất
cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn
em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi
vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để
tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy. Hai là
truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi. Vì
vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu
Thiếu Sinh Quân đều như tôi”.

Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn,
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972.
Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch
nã hàng ngàn quả ghìm đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc
Lộ 13 gần thị xã An Lộc, thì binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm
kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả
cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường
kích như bão lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang hố chiến
đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh
thần binh sĩ. Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà dường như
cái chết cũng sợ hãi và tránh xa con người
kiệt xuất ấy. Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất,
ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972. Dường như
giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào
hùng quả cảm giống như nhau. Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các
phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng
khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đã đứng giơ cao khẩu súng
Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như
vải trấu của địch quân: “Nếu đạn không trúng mình thì mình được tiếng
anh hùng, mà nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng luôn”!

Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81ly
và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn
quả lên vị trí của quân ta. Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc
theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm vì đạn pháo giặc. Để tránh bị
thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đã lệnh cho binh sĩ mỗi người đào
một hố nhỏ như những cái “miệng ve” để ẩn trú. Nếu pháo dội trúng cái
“miệng ve” nào, thì chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi.
Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy
trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung
bình mỗi mét vuông lãnh vài trái. Nếu tính theo lý thuyết toán học thì
mỗi chiến sĩ Trung Đoàn “ăn” từ
hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết.
Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật “cò ỉa miệng ve” của quân ta lại cứu
sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ. Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú
đầu lên điểm danh quân số, thì thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến
thương. Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao
chiến với quân địch, thì con số thương vong lên rất cao. Có nhiều đại
đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ còn
khoảng ba chục chiến sĩ.

Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng vì
pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương. Trung Đoàn Trưởng của một
trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn
Phó của một trung đoàn khác hy sinh vì pháo địch quá ác liệt. Trung Tá
Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang
có nhiều triển vọng đi lên thì ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ
sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài Gòn. Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ
21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm trung đoàn. Cuối cùng thì
dòng họ Nguyễn Viết đã cống hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú.
Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu
Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, thì Trung
Tá Cẩn đã lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn
pháo giặc dội như bão xuống các vị trí Trung Đoàn. Tất cả các vị chỉ
huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp
và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc. Vì những chiến công
ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là
chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25
Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các
loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.

Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh còn tăng viện cho các
trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền
biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang. Những tổn thất
và vết thương còn chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác
ra từng mảnh lớn khác. Nhưng có sá gì chuyện tử sinh, làm thân chiến
sĩ thì người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu
cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc. Một lần
nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức
khó khăn, khó có ai đảm đương nổi. Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương
Thiện, một tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với
cái gai nhọn nhức nhối mật
khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng
phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh. Chọn
Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết
chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện
chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng
tiến xuống Cần Thơ. Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn
cho lãnh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.

Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền
thoại khác về ông đã được kể lại. Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà
quân sự xuất chúng, mà còn là một nhà cai trị và bình định tài ba. Một
ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã ăn
mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một vòng tỉnh
lỵ Vị Thanh. Ông vào các sòng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và
những ổ điếm quan sát.

Ngày hôm sau, khi đã chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá
Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm
khắc về những tệ đoan xã hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông
này. Thay vào đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ quan mẫn cán và tài
năng. Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chãi của Đại Tá trong lĩnh
vực bình định, xã hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc
trong tỉnh. Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày
30.4.1975, chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời
gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh. Cùng đền ơn tổ quốc với
Trung Tá Đường còn có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo
Tỉnh. Đại Úy Bé đã làm điêu đứng
bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch
báo cáo tin tức, địch tình, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân,
Pháo Binh dội những cơn bão lửa lên đầu chúng. Trung Tá Đường và Đại
Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị
Thanh.

Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của mình được an toàn tối
đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lý do
Việt Cộng pháo kích hay tấn công. Đại Tá Cẩn thỏa mãn tối đa và được
báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực. Đại Tá
tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Phòng 3 chuẩn bị xe Jeep đi
xuống quận. Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng
rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta
dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh
dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được. Ông Quận Trưởng đang nằm trên
võng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh
đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền
thoại. Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem
bản đồ và ra lệnh cho ông Quận: “Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng
được nâng lên loại B. Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên
loại A”. Ngài Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết.
Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhãng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng
cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm
trừng phạt treo đung đưa trên đầu. Đúng ba tháng sau, nhận được báo
cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm,
sau khi đã trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này. Nếu tất cả
44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn
cán và tài ba như Đại
Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể lọt
vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được. Chúng ta
cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của
Việt Nam Cộng Hòa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có
35 tuổi.



Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều
không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đã tận tụy với nước
non, danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người
vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm
tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em. Một người bạn cũ trong
một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đã hỏi ông: “Anh
từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau
này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không”? Con người danh tiếng lừng lẫy trên
các chiến trường đã khiêm tốn trả lời: “Tôi lặn lội suốt mười bốn năm
qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là
cao rồi, mình phải
biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được. Làm Tỉnh Trưởng bất quá một
hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy
giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện
Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được
dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã
trải qua”. Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân tình với nước non và với
thế hệ chiến binh đàn em của người. Con người chân chính để lại cho
hậu thế những lời khí khái.

Cuối cùng thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến.
Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của
những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp còn chưa được
biết và nhắc nhở tới. Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận
tụy vì nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh
khiếp của chiến tranh. Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn
theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước. Chu vi phòng thủ của Tiểu
Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây
chặt lấy bốn phía. Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của
Chương Thiện nghiến răng ghì chặt tay súng, quyết một lòng liều sinh
tử với vị chủ tướng anh hùng của
mình. Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: “Chết thì chết chứ
không lùi”. Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời mình cũng co
ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày sình
lầy với Biệt Động Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9
Bộ Binh đi trong cơn bão lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư
Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dã, và
những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương
Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mãnh của ông trên những cánh đồng
Chương Thiện hoang dã. Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào
ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng
khó khăn đến như thế này.

Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương
Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng,
Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu
Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng
Lê Văn Hưng. Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đã
đưa Bà Hưng lên văn phòng Bộ Tư Lệnh. Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai,
bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn. Như
vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn còn đang chiến đấu ác liệt và không
tuân lệnh hàng cùa tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối
30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam
đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh
lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự
sát ngay trong đêm. Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết
chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính cách thiên bẩm
của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết thì Đại Tá Cẩn phải chết
hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa công chính. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy
Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đã đánh một trận tuyệt
vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa vòng vây
của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày
1.5.1975, quân ta không còn gì để bắn nữa, Đại
Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng. Khi những người lính Cộng chỉa
súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị
Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng
sự đều có mặt. Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa
khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng:”Anh Cẩn, tội anh đáng
chết vì những gì anh đã gây ra cho chúng tôi”. Đại Tá Cẩn cười nhạt
không trả lời.
Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc
Cẩn ngày 14-8-1975.

Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đã có kế hoạch làm nhục
người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta. Các sĩ quan tham mưu
được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn thì không, địch áp giải ông sang
giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện. Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu
Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn. Để làm
nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy
nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa. Mỗi
buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa
khiêng thùng phân đi đổ. Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó
Tỉnh Trưởng. Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hãy để cho mọi người
làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết
đày đọa Đại Tá Cẩn. Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung
dung làm công việc của mình. Chúa Jesus đã chẳng từng nói khi lên thập
giá: “Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm” đó sao. Bà
Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đã đem cậu con trai duy
nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn
náu và thay đổi lý lịch nhiều lần. Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đã
liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh tìm đến Ty Cảnh Sát đứng
bên này bờ con rạch nghẹn ngào nhìn vào sang dãy tường rào kín bưng.
Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đã tìm cách dẫn Đại Tá Cẩn
ra. Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo ký ức của
bà Đại Tá Cẩn đến suốt
khoảng đời còn lại của bà. Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều
chết vượt biển. Thượng Đế đã dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất
của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mã Lai.
Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ
cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản
bắn chết tại Việt Nam.


Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm
nhục quân dân Miền Tây. Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành
cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, vì
là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa
được tự tử. Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm
tư với thuộc cấp trước khi ra trận: “Sống chết nằm trong tay Chúa”. Vì
vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng
nước Nam không thiếu anh hùng.

Quân dân Miền Tây đã tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn
Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt
Nam. Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày
14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút lìa
đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn sói lang đã áp giải
người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh
loan báo địa điểm, giờ phút hành hình người anh hùng cuối cùng của
Quân Lực Việt Cộng Hòa. Bọn tiểu nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình
kính phục khí phách của người đối địch, thì chúng lại lấy lòng dạ của
loài khỉ và loài quỷ để đòi máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm
giết Đại Tá Cẩn để đánh đòn tâm lý
phủ đầu lên những người yêu nước nào còn dám tổ chức kháng cự lại bọn
chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và
người con trai còn phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của
Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, vì sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên
bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.

Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về … và phủ
cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa … mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho
lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà.
Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm
súng bao quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho
phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để
lại cho lịch sử lời khẳng khái: “Tôi chỉ có một mình, không mang vũ
khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn
tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”. Dĩ
nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn. Đại Tá Cẩn còn muốn nói thêm
những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn
nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh
hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho
người là không bịt mắt, để người nhìn
thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi
người ngạo nghễ ra đi.

Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại
sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận
Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn. Thiếu Tá Tiếp đã
cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng
ngày 1.5.1975 thì ông bị sa vào tay giặc. Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan
xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đã từng gây rất nhiều tổn thất nặng
nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đã gọi B
52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn
này. Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào
chúng, thì chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh
hùng cuối cùng của miền Tây đã
vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại.

Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây
phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đã dõng dạc hét lớn: “Việt Nam Cộng Hòa
Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản”! Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như
lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn
nhẫn.



Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không
dám nhìn. Bà nghe trong cõi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ
chát chúa. Khi bà mở mắt ra thì thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh
thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.
Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn,
vì người đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân.
Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy từ lâu,
Tư Lệnh Quân Khu IV đã tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy
thăng Chuẩn Tướng cho người. Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã thăng
thiên. Tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người
hãy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam còn đang chìm đắm
trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy ban cho những người còn
đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Để cùng nhau đứng dậy lật
đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó
vào vực thẳm lạnh lẽo
nhất của địa ngục.

Phạm Phong Dinh







Reference link:
http://daitahongoccan.blogspot.com/
__._,_.___
RECENT ACTIVITY: 

No comments:

Post a Comment