LUYỆN PHÉP Ở NÚI TÀ LƠN
CUỐI NĂM MỜI CÁC NT VÀ CÁC BẠN
ĐI THĂM THẾ GIỚI BÙA NGÃI Ở MIÊN
LUYỆN PHÉP Ở NÚI TÀ LƠN
Huyền Sơn
tka23 post
Trước
khi sang Miên thám hiểm thánh địa Tà Lơn, tôi ghé thăm một ông bạn già
tên Ch., cư ngụ ở Tri Tôn, An Giang. Trong giới huyền thuật ở miền Tây
Nam phần , ông Ch. được nhiều nhiều người biết tiếng vì ông đã từng sang Tà lơn luyện bùa phép.
Ông
Ch. cũng rất nổi tiếng ở địa phương vì hàng chục lần bị kiểm điểm tội
truyền bá mê tín dị đoan. Với ông, phép thuật không thuộc loại "mê tín
dị đoan" mà là một "nét văn hóa tâm linh của người xưa truyền lại". Do
mải mê luyện bùa, ngải, phép thuật từ nhỏ nên ông không được đến trường
học chữ. Tất nhiên, ông mù chữ loại nặng.
Dù mù tất cả các loại chữ viết chính thống trên thế giới nhưng ông lại
rất rành các loại chữ bùa, từ chữ bùa Pàli đến chữ bùa Phạn, bùa Lèo,
bùa Năm Ông, bùa Lục Sơn (chữ Kh'mer cổ)…
Ông đã từng hội ngộ với rất nhiều đại pháp sư khu vực Đông Nam Á tại
đỉnh núi Tà Lơn. Những lần hội ngộ như vậy, ông và các đại pháp sư khác
quốc tịch, dị biệt ngôn ngữ phải nói chuyện với nhau bằng "tiếng bùa" và
"bắt ấn quyết" (tức ra dấu).
Trình
độ văn hóa của ông Ch. là con số không nhưng trình độ về bùa, chú, ngải
thì thuộc đẳng cấp "đại sư". Ông Ch. khẳng định, ai cũng biết đường
lên đỉnh Tà Lơn, nhưng đường
đến nơi tu luyện của các pháp sư thì chỉ có giới pháp sư thuộc cấp
trung sư mới có quyền biết. Đó là những địa điểm bí ẩn chưa có trên bản
đồ. Ông từ chối tháp tùng, mặc dù tôi đề nghị một giá tiền thưởg khá
cao. Không chịu đựng nổi sự nài nỉ , ông đành vẽ một bản sơ đồ kèm lời
khuyên: "Chú cứ chạy xe gắn máy qua bển. Đường xe hơi rộng mênh mông
nhưng giá thuê rất mắc. Với xe gắn máy, chú có thể luồn lách nhiều
chỗ ".
Tôi quyết định mang xe gắn máy sang đất Miên đề chinh phục đỉnh Tà Lơn.
Ông
Ch. diễn giải, theo tiếng Kh'mer thì "Tà Lơn" có nghĩa là "Ông thần
lớn", tức là vua của các vị thần linh. Đối chiếu với văn hóa tâm linh
Việt và tiếng Việt thì "tà" không có nghĩa tương xứng. Một số người cho
rằng dịch nghĩa "tà" sang tiếng Việt là "thần hoàng bổn cảnh". Tuy nhiên
đối chiếu theo văn hóa tín ngưỡng thì điều này sai biệt rất xa. Với
người Kh'mer, ông "Tà" là một pháp sư tài giỏi nhất khu vực. Ông Tà dùng
huyền thuật trừng trị bất kỳ ai dám chống lại ông, kể cả dân làng. Nếu
ai tuân phục ông Tà sẽ được huyền thuật của ông ta bảo vệ. Ông Tà rất
nóng tính và hung dữ.
Còn
"thần hoàng bổn cảnh" của người Kh'mer luôn luôn là phụ nữ. Theo truyền
thuyết Kh'mer, dãy núi Lục Sơn Tà Lơn do một vị thánh nữ được gọi là
Veang Kh'mau "cai quản". Người dân Kh'mer sinh sống dưới chân núi Tà Lơn
cho rằng, chủ của đất đai vùng này là hoàng tộc Monivong (quốc vương
Campuchia) nhưng khai khẩn vùng này là do một người phụ nữ Việt tên Nàng
Mau. Ngày xưa, người dân vùng này không biết trồng trọt. Nhờ Nàng Mau
dạy trồng lúa nước nên người dân không còn đói kém nữa. Và họ đã tôn
người phụ nữ này làm vị thánh đại diện cho lòng nhân ái. Người ta đã xây
một bức tượng Veang Kh'mau cao khoảng 20 mét đặt trên đỉnh Bokor.
Tiểu sử “thành phố ma”
Dãy núi Tà Lơn gồm 6 ngọn và ngọn chính có cái tên là
Phnom
Bokor, có nghĩa "Núi voi". Từ năm 2005, Chính phủ Campuchia đã quy
hoạch Pokor - một trong 6 ngọn vùng núi hoang sơ này thành khu du lịch:
Đền thờ Monivong - Công viên quốc gia Bokor. Đến đầu năm 2011, khu du
lịch này mới hoàn tất và đưa vào khai thác du lịch tâm linh. Vì thế,
muốn vào núi phải mua vé. Giá vé vào "cổng trời" chỉ 2.000 real, .
Đường
từ chân lên đỉnh núi dài 33 km được tráng nhựa rất phẳng, đẹp . Đó là
con đường độc đạo lên núi. Những cung đường ưỡn ẹo trên những con đèo
sâu hun hút và nhiệt độ khoảng 20oC khiến tôi có cảm giác như mình đang
chạy xe trên đoạn đèo Đà Lạt.
Năm
1890, Pháp truy lùng một số người Việt Nam ẩn cư giữa rừng sâu trên
đỉnh núi. Khi đó, họ phát giác khí hậu vùng hoang sơ này rất lý tưởng
cho việc nghỉ mát. Đến năm 1921, sau 9 tháng xây dựng, Pháp biến vùng
rừng hoang thành một thị trấn trên núi mang tên tiếng Anh là Bokor Hill
gồm: Nhà thờ Thiên Chúa giáo, bưu điện, bệnh viện, khách sạn. Các pháp
sư bị nhà cầm quyền cầm tù. Những cái am, những hang động tu luyện của
các pháp sư đều bị bỏ hoang phế. Một số pháp sư chạy sâu vào rừng tìm
những hang động vắng tiếp tục tu luyện.
Đến
năm 1940, thất trận trước quân đội Nhật hoàng, Pháp rút về Phnôm
Pênh, bỏ hoang thị trấn Bokor Hill. Sau năm 1945, khi Campuchia độc lập,
nhà vua Shihanuk (cha) đã cho xây một cung điện ở đây và tái sử dụng
các công trình của Pháp. Nhưng đến thời Kh'mer Đỏ , toàn bộ thị trấn nhỏ
này bị phá hoang tàn. Khi Campuchia được giải thoát khỏi Pôn Pốt,
người ta đã bỏ quên vùng núi hoang vắng này một thời gian dài. Suốt thời
gian đó, chỉ có các pháp sư và tín đồ của họ thỉnh thoảng đi lên núi
theo những con đường mòn hiểm trở để cúng bái và truyền phép thuật.
Bất
ngờ năm 2001, đạo diễn Hollywood Matt Dillon nghe câu chuyện về Bokor
bởi một đạo sĩ người Myanmar đã từng tu luyện nơi đây. Năm 2002, Matt Dillon cùng đoàn phim của ông đến tận Bokor thực hiện bộ phim City of Ghost.
Bộ
phim nổi tiếng đến nỗi, từ năm 2003, dân Tây du lịch đến Campuchia đều
đòi đến thăm "thành phố ma". Rừng thẳm, non cao của Bokor bị đánh thức.
Hiện
giờ, trên đỉnh Bokor, cung điện Hoàng gia đã được xây dựng lại thành
Bokor casino và một khách sạn casino Thansur Bokor Highland phục vụ du
khách ngoại quốc hoạt động ngày đêm.
Các điểm am, miếu tu luyện của pháp sư thời xa xưa trở thành một nơi du lịch tâm linh không thể thiếu của Bokor.
Tuy
nhiên, theo thông lệ hàng năm, các pháp sư Đông Nam Á vẫn tìm về Bokor
đi sâu hơn vào rừng, tìm những hang động hoang sơ để thu nạp tinh - khí -
thần của vùng thánh địa.
Huyền thoại những hang động vô danh
Bỏ qua casino tấp nập tiếp tục tiến cao hơn về đỉnh núi, tại một ngã rẽ, có tấm biển hướng dẫn đến ngôi chùa Wat Sampov Pram
mà giới pháp sư Việt gọi là chùa Năm Thuyền hoặc Nam Thiên. Đó chính là
nơi "đắc đạo" của nhiều giáo chủ tôn giáo xuất xứ từ miền Nam Việt Nam
và cũng là nơi luyện phép thần thông của các pháp sư vùng Đông Nam Á.
Trong các thư tịch, di ngôn,
di tự của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên - Giáo chủ đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương; Bổn Sư Núi Tượng Ngô Tư Lợi - Giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa; Phật
Trùm, Phật sống Cử Đa, Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Phật sống Trúc
Lâm Nương, Trịnh Công Hương v.v… cho thấy các vị này đều đạt chánh quả,
đắc đạo ở ngôi chùa Năm Thuyền này.
Những pháp sư nổi tiếng trước năm 1960 ở miền Nam như Thợ Đức Lỗ Ban;
Ông Ba "bùa gồng"; tướng cướp Đơn Hùng Tín; Đông Cung Phan Xích Long và
rất nhiều vị đại pháp sư khác cũng đã từng sang khu vực Năm Thuyền luyện
phép.
Theo các tài liệu của các pháp sư Việt thì đó là một ngôi am nhỏ do Vua
Monivong xây cất vào năm 1924 cho Hoàng tử Pre Thoong đến tu luyện. Pre
Thoong được một đại pháp sư người Việt có tên thường gọi là Ba Gang
hướng dẫn vào đây luyện phép tiên. Do nơi đây có 5 tảng đá hình chiếc
thuyền nên được gọi là Năm Thuyền. Ông Ba Gang và Cử Đa là hai phó tướng
của Quản cơ Trần Văn Thành - người chỉ huy cuộc khởi nghĩa Láng Linh -
Bảy Thưa trong giai
đoạn chống Pháp (1867 -1868). Sau khi kháng địa bị thất thủ, Quản cơ
Trần Văn Thành tử trận, Cử Đa và Ba Gang về núi Tà Lơn tu luyện phép
thuật chờ thời cơ. Lần lượt họ viên tịch tại nơi này và được dân địa
phương đúc tượng phong thánh.
Ngày
nay, Năm Thuyền không còn là ngôi chùa hoang vắng, u tịch. Nhà đầu tư
đã xóa hầu hết dấu tích người Việt và "cải biên" thành một khu du lịch
tấp nập người. Họ đã biến tượng Cử Đa và tượng Ba Gang thành "Phật
Kh'mer". Ông "lục cả" trụ trì ngôi chùa là người Việt Nam cũng không
còn.
Lần
theo sơ đồ ông Ch. "thầy pháp", tôi rời chùa Năm Thuyền, tiếp tục đi
sâu xuống vực núi để đến một nơi đặc biệt. Đó là nơi có nhiều hang động
huyền bí dành cho những pháp sư "thi tốt nghiệp cấp đại sư".
Vượt
qua con suối, trước mặt tôi hiện ra một bãi đá rộng đến hút tầm mắt.
Bãi đá mang nhiều hình thù quái dị chen lẫn với những loài cây cỏ dại.
Hàng ngàn khối đá đa hình thù xếp chồng lên nhau tạo thành những cái am
thiên nhiên lý tưởng và yên tịnh.
Dù
đang giữa trưa, mặt trời đứng bóng nhưng ánh nắng rất dịu mát. Thỉnh
thoảng, một làn mây xám bao phủ khiến cảnh vật trời đất trở nên âm u
huyền bí. Tôi có cảm giác như mình đang lạc vào cảnh thượng giới. Tôi đi
sâu vào bãi đá khoảng 1.000 mét. Ẩn dưới những khối đá, hàng hàng lớp
lớp hang động sâu hút. Rất nhiều hang có dấu tích con người. Trước cửa
một số hang ai đó đã đặt một bát nhang. Ông Ch. "thầy pháp" đã từng kể
cho tôi nghe chuyện một số pháp sư đến đây luyện phép và chết luôn trong
hang. Với trường hợp như vậy, các pháp sư cho rằng, người chết đã đạt
chánh quả và được phong thánh. Tuy nhiên, do không để lại tên tuổi nên
các pháp sư đến sau gọi
chung những "vị thánh" này theo tiếng Kh'mer là "tà phnum", có nghĩa là
thần núi.
Lấy can đảm, tôi thử chui
xuống một hang có bát nhang. Cửa hang hẹp vừa vặn thân người nên bên
dưới hang tối đen như mực. Chân tôi chạm một phiến đá phẳng khoảng 1m2.
Qua ánh đèn pin, tôi thấy trên phiến đá vẫn còn sót lại vài mẩu ngải
khô, vài mẫu vải mục đã biến màu. Bên cạnh phiến đá còn có một khe đá
sâu hun hút. Không mang theo dụng cụ leo núi, tôi đành bỏ cuộc rời khỏi
hang.
Tình cờ khi trở về chùa Năm Thuyền, tôi gặp được một người đàn ông.
Ông tên Vang, 46 tuổi, cư ngụ
tại phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, thuộc phái Trà
Kha. Ông Vang vừa hoàn tất ngày luyện phép thứ 49 dưới một hang nơi bãi
đá. Ông vui vẻ cho biết, nếu tôi đến đây sớm trước một tháng sẽ gặp ít
nhất 20 pháp sư như ông ta. Giờ họ đã rời núi, chỉ còn mỗi mình ông ở
lại cúng bái tạ ơn các "lục tà" ở chùa Năm Thuyền.
| ||||
Huyền Sơn |
__._,_.___
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic | Messages in this topic (1) |
No comments:
Post a Comment