Quang Trung Ðại Phá Quân Xiêm
Tại Ðịnh Tường
Vào
Những Ngày Sắp Tết 1785
MƯỜNG GIANG
Trên bán đảo Ðông Dương, Ðại Việt và
Xiêm La là hai con cọp lúc nào cũng muốn tranh giành ảnh hưởng chính trị với
hai nước yếu nằm giữa là Chân Lạp và Ai Lao, nên trong quá khứ đã có nhiều đụng
chạm giữa hai nước và lần nào người Xiêm cũng bị thảm bại trước sự dũng mãnh
phi thường của nước Việt.
Nhưng người Xiêm đã thật sự sợ dân
Việt hơn cọp, sau khi bị vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) tiêu diệt hơn 2 vạn quân,
đồng thời đốt rụi 300 tháp thuyền tại Vàm Rạch Gầm-Xoài Mút, tỉnh Ðịnh Tường,
vào những ngày sắp Tết năm 1785. Từ đó tới nay, Xiêm La (Thái Lan) thâm thù người
Việt đến tận xương tủy, nên hằng tìm đủ mọi cách để trả thù. Thảm kịch của đồng
bào tị nạn Nam VN trên biển Ðông do hải tặc Thái Lan gây ra, được chính quyền nước
này làm ngơ hay chỉ ngó tới một cách lơ là chiếu lệ, đã nói lên rõ ràng sự trả
thù của vua chúa nước này đối với VN, qua những hận nhục bại trận quá khứ. Ðây
cũng là một hệ lụy tất yếu của dân tộc hùng anh Ðại Việt, nhưng luôn bất hạnh
vì thiếu vắng những bậc minh quân tài trí đảm lược, nhất là trong thời cận sử
cho tới ngày nay, khiến cho nước ta hết bị Pháp Nhật đô hộ nay tới Nga Tàu,
không biết tới bao giờ mới ngẩn mặt được để làm người.
.
‘ tiếng ai than
khóc sầu thương
Nhị Hà nước
xuống trùng dương xa mờ
Chương Dương,
Hàm Tử ngàn xưa
Giờ sao sông
núi, bụi Hồ vấn vương .. ’
’ ’
1- NƯƠC XIÊM LA :
Xiêm La hay Thái Lan ngày nay có
diện tích 198.455 sq.ml hay 512.998 km2, dân số tính tới năm 2004 là 55.448.000
người, thủ đô là Bangkok (Vọng Các) chưa kể ngoại ô có 1.867.297 người. 95% người
Thái theo Phât giáo tiểu thừa.
Thật ra Xiêm không phải là quốc hiệu
của người Thái. Ðó là cái tên mà người Cao Mên và Chiêm Thành dùng để gọi họ.
Ngay từ thế kỷ thứ XI, danh từ SYAM đã thấy xuất hiện trên các văn bía của người
Chàm tại Trung phần VN, còn hình ảnh của người Syam, thì đầy rẩy nơi các di
tích của người Khmer, tại đền Angkor được dựng lên từ thế kỷ thứ XII sau TL.
Người VN theo cách gọi của Miên và
Chàm, cũng gọi là Xiêm. Riêng người Tàu qua lối phát âm Bắc Kinh đọc là Tiêm,
rồi ghép với tên của nước La Hộc tức là vùng Lyo ngày nay, thuộc Lopburi ở hạ lưu
sông Mê Nam, thành nước Tiêm-La. Còn người Pháp cũng dựa vào lối phiên âm Tàu
mà đọc là Siam, trong lúc người Anh thì nói trại là Saiam. Trong bộ Bách Khoa
Từ Ðiển của Ý Ðại Lợi (Enciclopedia Italiana), đã giải thích rằng Anh và Pháp
khi dùng tiếng Siam để chỉ người Thái, là căn cứ vào tiếng Saiam Sayang của người
Miến Ðiện dùng để chỉ người Xiêm, rồi đọc trại ra là Siam hay Saiam.
Nhưng căn cứ vào sử liệu ta thấy từ
ngày lập quốc đến nay, người Thái gọi mình là Thay, còn người Shan là Nghiện.
Riêng danh từ Siam
chỉ mới xuất hiện gần đây. Do trên thời xưa, nước Thái Lan được gọi là Mường
Thay hay Prathet Thay. Ðời vua Rama IV (1851-1868), quốc hiệu mới được đổi là
Sayam (Xiêm), để đánh dấu nước này canh tân theo văn minh tây phương. Năm 1939,
tướng Phibul Songgram lên làm thủ tướng, mới đổi quốc hiệu từ Xiêm sang Thái.
Từ 1945-1948, tên nước trở lại là Xiêm và sau đó tới ngày nay, chính thức là
Thái. Với người Anh, họ phiên âm Thay thành Thai, còn Prathet là Land, nên sau
này gọi nước Xiêm là Thailand. Theo cách đó, người Pháp viết là Thailande, còn
VN thì đọc là Thái Lan.
2 - NHỮNG GÂY CẤN GIỮA ÐẠI VIỆT VÀ THÁI LAN :
Từ đầu thế kỷ thứ XVII, người Việt đã
tới khai hoang tại vùng Ðồng-Nai và Mỏi-Xùy (nay là Biên-Hoà và Bà Rịa) của
Chân Lạp. Vì muốn thoát khỏi ảnh hưởng và sự kềm kẹp của Xiêm La đã có từ trước
đến nay, nên quốc vương nước này là Chey Chetia II sang cầu thân với Chúa
Nguyễn Nam Hà, để nhờ che chở. Nhân dịp đó, Chúa Hy Tôn-Nguyễn Phúc Nguyên đã
vì dân nước, nên đành đem con gái cưng của mình là Ngọc Vạn, gã cho vua này làm
Hoàng Hậu vào năm 1620, để lấy chỗ dựa cho dân Ðại Việt tới làm ăn tại Chân
Lạp. Chúa còn đem người con gái kế là Ngọc Khoa, gã cho vua Chàm để mượn đường
bộ từ Phú Yên vào Ðồng Nai, vì lúc đó nước Chiêm Thành vẫn còn. Do trên Xiêm La
đả kết thù với Ðại Việt, vì cả hai đều muốn giành giựt ảnh hưởng tại Lào và
Miên, vốn là hai nước nằm giữa rất yếu kém do nội loạn thường trực.
Năm 1672, Chey Croetha III làm loạn, giết cha vợ là vua Batom Reachea và
dắt quân Xiêm từ Nam Vang xuống Sài Côn chiếm lại tất cả thành trì, đồng thời đuổi
giết người Việt đang khẩn đất làm ăn tại Ðồng-Nai, Mõ Xùy. Năm 1674 Hiền Vương
Nguyễn Phúc Tần sai binh tướng sang Thủy Chân Lạp, đánh đuổi quân Xiêm chạy về
biên giới Miên-Thái, giết vua Nặc Ông Ðài. Sau đó lập Năc Thu làm vua Lục Chân
Lạp đóng tại Nam Vang và Năc Nộn là phó vương miền Thủy Chân Lạp tại Sài Côn.
Từ đó người Miên thần phục Chúa Nguyễn.
Năm 1687 quân Xiêm lại vào cướp phá đất
Hà Tiên, bắt Mạc Cửu đem về giam lỏng tại Muang Garaburi nhưng sau đó, ông đã
trốn được về nước vào năm 1700. Từ đó Mạc Cửu đem đất đai Hà Tiên và binh sĩ dưới
quyền xin thần phục Nam Hà, nên được Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu phong chức tổng
binh.
Năm 1717 quân Xiêm tấn công Hà Tiên,
Mạc Cửu binh ít chống cự không nổi, nên phải bỏ thành lui về giữ Long Kỳ. Quân
Xiêm vào tàn phá Hà Tiên thành bình địa nhưng sau đó chiến thuyền bị bão đánh đắm
trong vịnh Phú Quốc, nên phải rút về nước. Mạc Cửu trở về kiến tạo lại Hà Tiên
và đắp thành ngăn giặc vào năm 1718.
Năm 1769, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh
đem quân thủy bộ tấn công Hà Tiên, lại đặt đại bác trên núi Tô Châu bắn vào
thành sát hại nhiều dân chúng vô tội. Tổng binh Mạc Thiên Tứ vì binh ít và
không có tiếp viện, nên phải bỏ thành, cùng các con Mạc Tử Hoàng, Tử Thương, Tử
Duyên.. lui về Trấn Giang (Cần Thơ). Nhưng quân Xiêm đã bị các tướng lãnh trấn
thủ Long-Hồ và Ðông Khấu là Tống Phước Hợp và Nguyễn Hữu Nhân, đánh đuổi phải
bỏ Hà Tiên chạy về cố thủ thành Nam Vang.
Năm 1772, Duệ Vương Nguyễn Phúc
Thuần sai chưởng cơ Nguyễn Cửu Ðàm, thống suất hai đạo Bình Khánh và Bình
Thuận, gồm 10.000 quân thủy bộ và 30 chiến thuyền chiếm lại Hà Tiên và Chân
Lạp, rồi đưa Nặc Tôn về Nam Vang làm vua trở lại. Từ đó quân Nguyễn đóng luôn ở
Nam Vang, bảo hộ và làm cố vấn cho quốc vương Chân Lạp.
Năm 1780 vì tàu buôn bị cướp ở Hà
Tiên, vua Xiêm nghe theo lời xúi của quan Chân Lạp tên Bồ Công Giao, bắt cha
con Mạc Thiên Tứ, Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên cùng sứ thần của chúa Nguyễn là
Nguyễn Phúc Xuân.. đem xử trảm. Mạc Thiên Tứ lúc đó trên 70 tuổi, uất ức tự tử
chết. Riêng gia quyến của họ đều bị đầy lên tận biên giới Miến-Thái.
Năm 1782, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh
bị hai tướng Chất Trí và Sô Sĩ giết chết. Chất Trí lên làm vua Xiêm, xưng Phật
Vương (Rama 1), tha những người Việt bị đầy , đồng thời giao hảo với chúa
Nguyễn Ánh lúc đó đang bị quân Tây Sơn đuổi giết tận tuyệt
Năm 1784, mượn cớ sang giúp Nguyễn
Ánh, vua Rama 1 sai 2 vạn thủy quân và 300 tháp thuyèn, do hai người cháu là
Chiêu Sương, Chiêu Tăng sang xâm lăng Nam Phần. Quân Xiêm chiếm các đạo Kiên
Giang, Trấn Giang, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Ðéc.. đồng thời cướp của giết người,
không ai có thể ngăn cản nổi. Sự kiện trên làm cho Nguyễn Ánh cũng phẫn uất nhưng
phải bó tay ví không còn binh lực để kềm chế giặc.
Cuối tháng chạp cùng năm, được tin
quân Xiêm đã tới Ðịnh Tường, nên Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn Huệ từ Qui Nhơn
đem quân thủy bộ vào chận đánh, phá tan 2 vạn quân Xiêm tại vàm Rạch Gầm-Xoài
Mút. Từ đó người Xiêm sợ Ðại Việt như sợ cọp.
Năm 1817, sau khi chiếm được Stung
Treng và Vạn Tượng của Lào. Quân Xiêm tràn sang chiếm một phần cao nguyên Trung
Phần, lúc đó gần như chưa có chính quyền VN hiện diện. Bọn quan lại Xiêm cai
trị đồng bào thiểu số tại đấy rất tàn ác dã man. Tình trạng kéo dài tới thời
Pháp thuộc mới chấm dứt.
3-NGUYỄN HUỆ TIÊU DIỆT QUÂN XIÊM TẠI ÐỊNH TƯỜNG:
+ Ðịa Danh Rạch Gầm, Xoài Mút (Mỹ Tho) :
Ðất Ðịnh Tường thuộc dinh Phiên
Trấn, được Túc Tông Nguyễn Phúc Trú thành lập vào năm 1731. Vào năm 1772 Duệ
Tông Nguyễn Phúc Thuần đổi là Ðạo Trường Ðồn, rồi thành Huyện Kiến An vào năm
Gia Long nguyên niên 1801.
Năm 1802 lại cải thành Dinh Trấn
Ðịnh, phiên trấn Ðịnh Tường. Ðời vua Minh Mang (1820-1840), chính thức chia đất
Nam Kỳ thành sáu tỉnh trong đó có tỉnh Ðịnh Tường. Danh xưng này tồn tại tới
ngày 30-4-1975 thì mất
Riêng hai địa danh ‘ RẠCH GẦM-XOÀI
MÚT’ nằm trong tỉnh Ðịnh Tường. Theo các tài liệu cổ có từ thời nhà Nguyễn, thì
Rạch Gầm ngày xưa được gọi là Sầm Giang. Ðó là một con rạch dài chừng 15km,
phát nguồn từ xã Long Tiên (Cai Lậy), chảy qua các thôn xóm trù phú thuộc các
xã Kim Sơn, Vĩnh Kim, Mỹ Luông, Thuộc Phiên.rồi đổ vào sông Mỹ Tho (Tiền Giang)
tại Kim Sơn. Khi người Việt từ miệt ngoài, theo chân các Chúa Nguyễn vào đây
khẩn hoang lập ấp, thì vùng này toàn là rừng rậm cây cao, đầy các loại dã thú
như voi, cọp, trăn-rắn, heo rừng, cá sấu. Nói chung chỗ nào đêm ngày cũng có
tiếng cọp gầm voi rống, làm cho ai cũng kinh hồn, sởn óc, nhiều người vô phước
bị cọp vồ, cá sấu táp khi phá rừng làm ruộng. Do trên, tổ tiên ta mới đặt tên
vùng này là ‘ Rạch Cọp Gầm’. Về sau để dễ nhớ, nên kêu là Rạch Gầm tới ngày nay
không đổi. Ở đây cây cối sầm uất, hai bên bờ rạch đầy dừa nước và nhiều cây bần
mọc gie ra khỏi con rạch. Ðúng là một vị trí chiến lược lý tưởng, để các nhà
quân sự tài danh, áp dụng lối đánh du kích, phản kích và nhất là hỏa công trận.
Vàm Rạch Gầm có bề ngang chừng 100m,
thuộc xã Kim Sơn. Trên bờ có chợ nhỏ, bán đầy các loại thổ sản miệt vườn như
cam, quít, ổi, chuối .. Nhưng chợ Rạch Gầm nổi tiếng xưa nay vẫn là Vú Sửa, món
đặc sản bản địa, ngon-ngọt hơn bất cứ nơi nào khác. Ðặc biệt, vú sữa lại đơm
bông kết trái đúng vào cuối đông sắp Tết Nguyên Ðán. Cũng theo tài liệu, thì xã
Kim Sơn được thành lập rất sớm trong trấn Ðịnh Tường vào đầu thế kỷ thứ XVIII,
do tiên hiền Lê Công Báu, nhưng dân chúng kiêng cữ đã đọc là Bích. Về sau ông được
nhà Nguyễn phong làm Thành Hoàng và vẫn được dân chúng điạ phượng thờ kính cho
tới ngày nay.
Xoài Mút chảy từ Giòng Dứa thuộc Ấp
Thạch Long tới Ấp Thạnh Hưng, xã Phước Thạnh, rồi đổ vào rạch Xoài Hột và ra
sông Mỹ Tho (Tiền Giang). Khúc rạch này cũng giống như Rạch Gầm rất um tùm. Hai
bên bờ đầy dừa nước và cây bần mọc gie ra ngoài, tạo nên địa thế quanh co hiểm
trở. Ở đây ngày xưa mọc đầy một loại xoài trái nhỏ, hột to, cơm ít, muốn ăn
phải mút, nên mới xuất hiện danh xưng Xoài Mút. Ngày nay dân địa phương đã chặt
bỏ hết để lấy đất làm vườn, nên họa hoằn lắm mới thấy một vài cây còn sót lại.
Về hành chánh, thì Xoài Mút là tên con rạch, còn Xoài Hột là tên của một ngôi
chợ thuộc xã Thạnh Phú, kế xã Bình Ðức. Rạch Gầm cách Xoài Mút 7km và thành phố
Mỹ Tho chừng 14 km.
+ Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) :
Trong dòng Việt sử, dù triều đại Tây
Sơn hiện hữu thật ngắn ngủi (1778-1802) nhưng qua hai chiến thắng bất hủ : Trận
Thủy Chiến Rạch Gầm tiêu diệt quân Xiêm và Xuân kỷ Dậu đại thắng quân Thanh, đã
đưa tên tuổi Quang Trung-Nguyễn Huệ, lên hàng Ðại Ðế. Dù không đồng chính kiến
nhưng tất cả các sử gia triều Nguyễn cũng như đọc qua các thiên du ký của các
nhà truyền giáo phương tây, ai cũng xưng tụng ông là một trong những thiên tài
quân sự lừng lẫy của VN, có thể so sánh với các tên tuổi như Ðại Ðế Alexander
Le Grand của Hy Lạp và vua Hung Nô Attila, là những thiên tài quân sự bách
chiến bách thắng.
Giống như các bậc danh tài trên,
trong khi dùng binh vua Quang Trung luôn luôn theo đúng binh pháp Tôn Tử-Trần Hưng
Ðạo-Nguyễn Trải, đạt yếu tố bất ngờ, hành binh thần tốc và trên hết là biết
tiên liệu tình hình địch, trước khi quyết định bày binh bố trận và tấn công.
Ngoài ra để nêu gương với sĩ tốt cùng thuộc tướng dưới quyền, ông luơn luôn
xông xáo nơi trận mạc, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lâm trận đi đầu hàng
quân, hiệu lệnh rất nghiêm minh. Bởi vậy, tướng sĩ ai cũng muốn hăm hở, lăn xả
vào cái chết, để được đền ơn nhà trả nợ nước, xứng đáng bổn phận làm trai nước
Việt. Ngoài thiên tài quân sự, vua Quang Trung còn được các sử gia đề cao là
một nhà chính trí có thao lược, điển hình qua cách chiêu hiền đãi sĩ, kính
trọng tài năng không phân biệt bất cứ một ai. Riêng tư cách thì hòa nhã độ lượng,
trong khi đối xử với vua Lê và cái chết của chúa Trịnh Khải
Nói chung từ trước tới nay, qua dòng
lịch sử, VN có ba thiên tài quân sự là Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn, Bình
Ðịnh Ðại Vương Lê Lợi và Ðại Ðế Quang Trung-Nguyễn Huê. Nhưng mỗi người đều có
phép hành binh riêng biệt. Với Hưng Ðạo Vương, sở trường về lối đánh ‘ Dùng ít
chọi đông ‘ mà binh pháp gọi là ‘ Dàn Binh, Tướng Trận’. Còn Bình Ðịnh Vương Lê
Lợi thì ứng dụng phép ‘ Dĩ Dật Ðãi Lao ‘, tức là lối đánh du kích, làm tiêu hao
lực lượng địch. Trái lại Quang Trung Nguyễn Huệ thì luôn luôn sử dụng vận động
chiến, tấn công địch trước trong tư thế mạnh với quân số, hỏa lực, mưu kế và phương
tiện.
+ Thủy Quân VN dười thời Tây Sơn :
Từ năm 1627-1672 Trịnh Nguyễn đã đánh
nhau bảy lần, trên chiến trường Nam và Bắc Bố Chánh (tỉnh Quảng Bình ngày nay)
nhưng bất phân thắng bại. Trong lúc giao tranh, cả hai phía gần như chỉ sử dụng
bộ chiến, dù cả hai đều có một đạo thủy quân rất quan trọng. Theo tài liệu của
giáo sĩ Alexandre de Rhodes, thì chúa Nguyễn ở Nam Hà có 200 chiến thuyền loại
Galéré, họ Trịnh ở miền Bắc có tới 600 chiếc. Còn Quang Trung Nguyễn Huệ trái
lại, đã đề cao vai trò thủy quân trên hết. Nhà vua đã cách mạng hoá hải quân
bằng lối đóng thuyền cho phù hợp với bờ biển VN, trong đó đặt nặng việc trang
bị vũ lực trên tàu thuyền.
Theo sử liệu, thủy quân Tây Sơn có
nhiều tàu vận tải cũng như tàu chiến, số lượng trên 1000 chiếc. Một du khách người
Anh tên John Barraw tới thăm Ðàng Trong vào thế kỷ XVIII, đã viết :’Người Việt
ở đây có một nghề rất tự hào, đó là kỹ thuật đóng tàu đi biển ‘.Theo tác giả,
thuyền của Người Việt rất đẹp, chiều dài từ 50-80 pieds (1 pied bằng 0,30m), được
ghép bằng 5 tấm ván, ăn khít nhờ có mộng bên trong. Thuyền lại được chia thành
nhiều khoang kín, nên rất khó chìm.
Theo Jean Baptiste Chaigeau, một võ
quan người Pháp từng theo giúp chúa Nguyễn Ánh, cho biết thủy quân Tây Sơn gồm
có nhiều hải đội, tổ chức khác nhau tùy theo trang bị. Do đó có thủy đội gồm 9
tàu, mỗi chiếc được trang bị tới 66 khẩu đại bác loại đường kính 24. Có thủy đội
chỉ có 5 tàu, mỗi chiếc mang 50 khẩu đại bác cũng loại 24. Có thủy đội gồm tới
40 tàu, mỗi chiếc trang bị 16 khẩu đại bác cỡ 12 ly và một thủy đội đặc biệt
gồm 93 tàu, mỗi chiếc chỉ có một khẩu đại bác lớn, nòng cỡ 36. Ngoài ra còn có
300 pháo hạm và 100 tàu buôn cỡ lớn. Tất cả tàu thuyền của Tây Sơn đều dùng
cánh buồm hình chữ nhật.
Về thủy quân trên tàu, thì mỗi thủy đội
loại trang bị 66 khẩu đại bác, có quân số trên 700 người. Quân Tây Sơn được
trang bị rất mạnh, vũ khí cá nhân gồm giáo mác, còn có súng điểm thương nhưng
lợi hại nhất vẫn là loại súng phun lửa, gọi là ‘ Hoả Hổ’ khi hai bên cận chiến.
Nhờ những ưu thế về trang bị cũng như kỹ thuật tác chiến, nên thủy quân Tây Sơn
đã thắng quân Xiêm một cách dễ dàng. Mặc dù lúc đó hạm đội Xiêm La cũng rất tân
tiến, vì được đóng theo kỹ thuật Tây Phương, mà người Việt gọi là Tháp thuyền.
Ðây là loại ghe tam bản rất cao lớn, trên có pháo tháp trí súng đại bác. Các
thủy thủ ngồi ngoảnh mặt về phía bánh lái mà chèo.
+ Thủy Chiến tại Rạch Gầm, Xoài Mút :
Các sử gia hiện nay, khi viết về
chiến thắng của Vua Quang Trung tại Rạch Gầm-Xoài Mút, đều thắc mắc về việc
hành quân của Tây Sơn. Ngay khi nghe hung tin, đại quân Xiêm La gồm thủy bộ hơn
50 vạn và 300 tháp thuyền, đã chiếm gần hết các trấn tại Nam phần. Hiện thủy
quân Xiêm đã tới trấn Ðịnh Tường. Trong lúc đó Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn
Huệ còn ở tận Qui Nhơn. Vậy ngài đã cho thủy quân từ biển vào cửa Tiểu để tới
Mỹ Tho hay là vào cửa Cần Giờ, rồi men theo dòng Vàm Cỏ Tây để tới Rạch Gầm Xoài
Mút, tạo yếu tố bất ngờ, đối với quân Xiêm ? Chuyện này đã không thấy các nhà
sử học xưa đề cập tới, kể cả các tài liệu của quốc sử quán triều Nguyễn.
Nhưng về chiến tích của trận thủy
chiến lịch sử, thì hiện nay vẫn còn đầy rẩy trên đất Ðịnh Tường cũng như trong
kho tàng văn chương bình dân bản địa, qua các bài hát ru em, ca dao, tục ngữ..
’ ’ ’
‘ Ầu ơ, Rạch
Gầm-Xoài Mút tăm tăm
xế xuống chút
nữa, là vàm Mỹ Tho
bần gie đóm đậu
sáng ngời
Rạch Gầm-Xoài
Mút muôn đời oai linh
Chẻ tre bện sáo
cho dầy
Ngăn ngang sông
Mỹ có ngày gặp nhau
Hay : ‘ gái Mỹ
Tho mày tằm mắt phượng
Giặc đến nhà,
chẳng vụng hươi đao.. ’
’ ’
Ngày nay người dân sống ở rạch Bà
Hào kế rạch Gầm, vẫn thường hay kể những chuyện ma quỷ xuất hiện vào những đêm
mưa to gió lớn, mà họ quả quyết đó là ma Xiêm, chưa được siêu thoát, dù cuộc
chiến đã tàn hơn vài thế kỷ. Cũng ở vùng này, còn có một địa danh mang tên là ‘
Nghĩa địa Xiêm’ vì có nhiều thuyền tháp bị chìm, hiện vẫn còn trơ các hàng cột
ở Ðìa Ðôi (Ấp Hội), đầu cồn Phú Túc (Bến Tre). Ngoài ra còn nhiều quân dụng của
lính Xiêm bỏ lại trận địa, được tìm thấy như súng thần công, gươm giáo, ấm,
chén, nồi đồng.. tại vàm Rạch Gầm.
Mùa thu năm 1785, vin vào cớ giúp
Nguyễn Ánh đang bị quân Tây Sơn truy sát. Vua Xiêm Rama 1, cho 50 ngàn quân thủy
bộ tấn công VN bằng hai cánh quân. Lộ quân bộ chiến gồm 3 vạn, từ Nam Vang vào
Nam Phần. Cánh thứ hai gồm 20 ngàn thủy quân, với 300 tháp thuyền. Cánh quân
thủy này do hai người cháu của vua tên Chiêu Sương và Chiêu Tăng thống lãnh
theo đường biển, vào cửa Rạch Giá ngày 25-7-1785. Hai đạo quân Xiêm thế mạnh như chẻ tre, lần hồi
chiếm hết các dinh trấn tại Nam phần như Kiên Giang, Trấn Giang,Ba Thắt, Trà
Ôn, Măng Thít.. và tới Ðịnh Tường. Bấy giờ đạo quân tinh nhuệ nhất của chúa
Nguyễn Ánh ở Nam Phần đã bị tan vỡ vì chúa tướng là Châu Văn Tiếp tử thương,
nên không còn ai có thể cản nổi quân Xiêm. Do đó, trên bộ cũng như dưới sông,
quân Xiêm tới đâu đều cướp của giết người, hãm hiếp phụ nữ Việt, tiếng than oán
vọng tận trời cao, thật là thảm tuyệt.
Tin dữ tới Phú Xuân, nên Long Nhưỡng
tướng quân được lệnh tức tốc đem quân thủy bộ từ Qui Nhơn vào Nam cứu viện.
Lúc đó trời đang cuối đông, chỉ còn vài ngày nửa là đón Tết Giáp Thìn 1785. Ðể
có thể tiêu diệt quân Xiêm đang trong thế mạnh và đông hơn quân ta, ông cho bày
diệu kế, bằng lối mai phục rồi bất thần đánh úp tàu giặc đang neo đầy trên sông
Mỹ Tho, giữa đọan Rạch Gầm-Xoài Mút. Ðồng thời dùng hỏa công trận, để thiêu rụi
toàn bộ thủy quân Xiêm.
Mở đầu cuộc tấn công, quân Tây Sơn
dùng cùi, lá và dầu dừa trộn chung với dầu mù u để làm bè lửa. Lại bày nghi
binh kế, bằng cách lấy vỏ dừa khô rồi vẽ mặt người, đoạn kết thành bè, thả trôi
lềnh bềnh gần chỗ thuyền giặc đậu. Chính diệu kế này, khiến cho quân Xiêm hoảng
hốt, cứ ngỡ là quân Tây Sơn lặn đục thuyền, nên các tàu liên tiếp nhả đạn cho
tới hết. Ðể nắm vững tình hình trận chiến, ông cho dựng hai chòi chỉ huy ở hai đầu
sông, một tại Chùi Mong (đầu rạch Xoài Mút), còn chòi kia ở vàm Rạch Gầm. Hai
chòi chỉ huy có nhiệm vu ban lệnh tấn công, khi thấy thuyền quân Xiêm lọt hết
vào trận địa. Ngoài ra không muốn để cho một thuyền giặc nào còn sống sót,
Nguyễn Huệ cho chẻ tre bện thành sáo dầy có cột đá hòn, để ngăn dòng Tiền Giang
tại Ấp Tây, thuộc xã Kim Sơn, ngược vàm Rạch Gầm khoảng 1 cây số.
Khi toàn bộ chiến thuyền của Quân
Xiêm đã lọt vào khúc sông trận địa, do tín hiệu từ hai chòi chỉ huy cấp báo,
lập tức ông ban lệnh tấn công. Lúc đó giữa sông thì lửa đốt, còn trên bờ dùng đại
bác, tên và súng phóng lửa nhắm vào 300 tàu giặc mà bắn. Vì quá bất ngờ, nên hai
đại tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng 300 tháp thuyền với 20.000 quân, trở tay
không kịp, lớp thì chết cháy, phần khác bị quân Tây Sơn giết. Chiêu Sương cùng
Chiêu Tăng và vài ngàn tàn quân may mắn lội được vào bờ, cùng với quân bộ chiến
dùng đường bộ chạy về Nam Vang, rồi rút hết về Vọng Các, vì sợ quân Tây Sơn
truy sát. Từ đó người Xiêm La bỏ mộng tranh bá đồ vương với Ðại Việt trên bán đảo
Ðông Dương, đồng thời sợ người Việt hơn cọp.
Ngày nay nhờ đọc lại những trang sử
cũ, ta mới thấy tiền nhân đã mở dựng và giữ nước thật là gian lao cực khổ, có
thể nói là người Việt đã đem máu và nước mắt của mình, để tô bồi làm xanh thêm đất,
khiên hoa cỏ mới nở rộ được khắp thôn làng, đê cho chúng ta thênh thang tọa hưởng.
Bổng thấy thấm thía tận cùng về lời
nói của vị thánh quân Lê Thánh Tôn cách ta hằng bao thế kỷ : ‘ phải giữ gìn cẩn
thận, đừng để ai lấy mất một phần sông núi của tổ tiền để lại’. Xem như thế đủ
chứng tỏ rằng tiền nhân từ thời xa xưa, đã thấy trước dã tâm xâm lăng đồng hoá
nước Việt của giặc Tàu, nên lúc nào cũng đoàn kết để ngăn chống ngaọi xâm.
Vậy mà ngày nay cọng sản VN lại liên
tiếp, hết bán đất biên giới, hải đảo, tới sang nhượng biển vùng đánh cá ngàn đời
của dân tộc trên biển đông, làm cho cơn hồng thủy sóng thần nỗi dậy, trước sự
bất lực ù lỳ của một tập đoàn cầm quyền, đang làm nô lệ cho Trung Cộng và tất
cả ngoại bang, bất chấp quốc nhục
Ðúng như sử gia Hoàng Xuân Hãn đã
viết :’ trong dòng lịch sử Việt, khi thế nước bị suy vi hèn yếu vì chia rẻ, thì
giặc Tàu mới dám lấn đất dành biển ‘.Không biết ngày nào cả nước mới có dịp
theo sau gót ai, để đánh đuổi giặc Tàu, quang phục đất nước, như ngày xưa dân
Việt đã theo sau bóng voi của Quang Trung Ðại Ðế vào Rạch Gầm-Xoài Mút đốt tàu
giặc Xiêm hay ra Bắc Hà đánh đuổi quân Mãn Thanh chạy về Tàu vào những ngày Tết
Kỷ Dậu 1789.
‘ Nhà tan sống
cũng lạc loài
thánh hiền sách
nát đọc hoài hay sao ?
biển Ðông sóng
vổ aò aò
ta nương cánh
gió đi vào cõi xa
ngày mai cũng có
một ngày
theo chân voi
trận để vào Thăng Long.. ’
’ ’
Viết từ Xóm Cồn
Hạ Uy Di
Những ngày cuối
Chạp Con Mèo
MƯỜNG GIANG
TÀI LIỆU THAM
KHẢO :
- Ðại Nam Nhất
Thống Chí của Sử Quán nhà Nguyễn
- Việt sử xứ
Ðang Trong của Phan Khoang
-Lịch sử nội
chiến của Tạ Chí Ðại Trường
-Bắc Bình Vương
Nguyễn Huệ của nhiều tác giả
- sách báo..
__._,_.___
No comments:
Post a Comment