VĂN HÓA VÀ XÃ HỘI
Bai báo xuân Nhâm Thìn này thay cho 2 tuần lễ 17-24, LDN nghỉ thường niên.
Chúc qúy vi Năm Mới Vui Khỏe Hạnh Phúc
Thân Mến
Lý Đại Nguyên
LÝ ĐẠI NGUYÊN
VĂN HÓA VÀ XÃ HỘI
Sự có mặt của
loài người trên hành tinh này, so với các sinh loại khác phải kể là rất mới, về
sức vóc cũng chẳng to lớn khỏe mạnh hơn ai. Cũng đã chịu chung hoàn cảnh biến
đổi địa vực môi trường, và những tai ương thiên nhiên khắc nghiệt, như bao loài
khác. Thế mà loài người ngày nay còn đây. Còn với mức độ đông đảo đáng nể. Còn
trong tư thế sẵn sàng buộc thiên nhiên phải khuất phục trước ý chí, suy nghĩ và
sức khai phá của mình.
Điều gì đã đưa
loài người đạt tới vị thế hiện nay. Nhất là trong buổi ban đầu mông muội, sống
bằng Bản Năng Cảm Tính của thời Mặc Thức
Nhân Nhiên, ý thức chưa khai mở, mà phải sống với thiên nhiên đành hanh ưa
nóng giận, câm nín bất thường? Đành rằng, loài người hiện hữu được ở trái đất
này, là một Đại Sự Nhân Duyên kết tinh của vũ trụ, là một đợt Thăng Hóa tuyệt
vời về cả mặt "Năng Lực Tâm Linh" lẫn "Năng Lực Thể Chất" của
vạn hữu. Thế nhưng, những thực tế khắc nghiệt của luật tự nhiên nào có tha ai
bao giờ. Thành đấy mà Hủy đấy. Dưỡng đấy mà Diệt đấy. Nhưng khi đã có Sự Sống thì ngay lập tức có Sức Sống. Chính sức sống giữ cho sự
sống tồn tại lâu dài. Sự sống, sức sống và nhu cầu tồn tại ấy, đã là một Hướng Sống của mọi sinh loại, để mà
sống len lỏi giữa luật: Thành, Bại,
Dưỡng, Diệt.
Ở Loài Người
Hướng Sống tiềm ẩn ngay bên trong đó khả năng Thăng Hóa tự thân, được thể hiện
bén nhậy tinh tế qua: Bản năng, Cảm Tính, Mặc Thức và Ý Hướng Hợp Quần sẳn có
trong giống Người, cùng dựa vào nhau để bảo vệ sự sống, khai mở ngôn ngữ, tạo
thành cuộc sống Người. Chính cuộc sống Người Hợp Quần đó đã là môi trường thuận
lợi cho Cảm Tính thăng hóa thành Tình
Cảm, Mặc Thức bừng sáng thành Ý Thức,
Ý Hướng kết tinh thành Ý Chí. Nói
thì đơn giản là thế, mà Nhân loại truyền tiếp cho nhau, đã phải vất vả lắm lắm
để vượt qua chặng đường Mặc Thức Nhân Nhiên mò mẫm tăm tối, kể có hàng triệu
năm, mới đạt được mức hình thành Tâm
Thức Người đơn giản như vừa nêu.
Dù Tâm Thức
Người chỉ đơn giản là Tình Cảm, Ý Thức, Ý Chí, nhưng lại đã mở ra một khung
trời bao la rực rỡ vĩ đại, lại vừa đau thương khổ lụy muôn vàn do chính loài
người tạo ra, từ khi Loài Người đạt tới cuộc sống Ý Thức Nhân Loại, mà cũng chỉ mới mấy chục ngàn năm nay thôi. Ấy
thế mà lịch sử vẫn dè sẻn với chúng ta, chỉ mới lưu dấu lại vỏn vẹn có trên
dưới 10 ngàn năm. Chừng ấy thời gian, mà phải tốn công khai quật mới thấy được.
Còn những gì đang ảnh hưởng tới cuộc sống chúng ta thì chỉ mới độ trên 5 ngàn
năm trở lại đây. Những gì còn lại đó là dấu ấn Văn Hóa của những Dân Tộc có văn
hóa, của những khu vực được gọi là những chiếc nôi của Văn Hóa Nhân Loại.
Cái còn của
năm ngàn năm là cái còn Văn Hóa.Văn hóa trong dấu ấn lịch sử. Nhưng Văn hóa
trong huyết hệ Di Thức truyền thống nơi mỗi người chúng ta, thì đó quả thật lại
là một dòng chảy từ thật xa xưa, ngay từ khi tổ tiên ta thành đạt được cuộc
sống Người có Tình Cảm Ý Thức và Ý Chí, đó là Nhân của các nền Văn Hóa Dân Tộc, rồi chảy vào từng vùng làm thành
Văn Hóa Khu Vực. Hiện nay Văn Hóa các Dân Tộc các Khu Vực văn minh đang Dung
Hóa với nhau làm thành nội dung của cuộc sống người trên toàn thế giới.
Như vậy, nói
tới Văn Hóa thì ngay lập tức phải đề cập tới Văn Hóa Dân Tộc, không có Văn Hóa
Dân Tộc thì Văn Hóa Thế Giới thiếu bề dầy. Thiếu những đặc tính cá biệt cần
thiết muôn mầu, muôn vẻ của đất trời khu vực. Văn Hóa của các Dân Tộc còn
trường tồn tới nay, rất cần được phục hoạt. Kho Tâm Thức Văn Hóa Dân Tộc nơi
mỗi người, cần được khai triển để góp với Nhân Loại tạo dựng cuộc sống Nhận Thức Nhân Văn trong thiên niên kỷ
mới.
HỢP QUẦN THỜI MẶC THỨC NHÂN NHIÊN
Do bản năng,
cảm tính, mặc thức mà Con Người đã biết phân biệt phái tính để thay tự nhiên
sản sinh ra con cái, truyền Di Thức -DNA - lưu tâm thức của đôi lứa. Do bản năng, cảm
tính, mặc thức và ý hướng hợp quần, mà Con Người đã quy tụ với nhau thành bầy
đoàn, để bảo vệ nhau cùng kiếm sống. Mối tương quan giữa Người với Người đơn
thuần theo tự nhiên tính.
Chính vì vậy,
mà sự hợp quần của bày đoàn trong thời Mặc Thức Nhân Nhiên này, chưa định hình
được một quy củ xã hội. Hoặc có thể gọi ép đây là lối sống Mẫu Hệ. Những trụ cột của bày đoàn là các Người Mẹ. Chồng, Con quây
quần chung quanh Người Mẹ, và có thể tách bầy bất cứ lúc nào khi tự cảm nhận đủ
sức.
Nhưng một điều
nổi bật trong Tình Người, mà còn lưu
giữ đậm nét tới bây giờ, trong tuyệt đại đa số chúng ta đó là Sợ. Chính vì sợ, sợ cô đơn, sợ đêm tối,
sợ sự thét gào của trời đất, sợ đủ thứ, mà bầy đoàn, nhất là các bà mẹ đã tìm
tới nhau để hội tụ, con cái và đàn ông cũng theo đó mà quây quần.
Phải nhận rằng:
Con Người đúng là một Linh Vật trong trời đất. Vì cảm tính có rất sớm và trưởng
thành rất mau. Thay cho bản năng chỉ biết tìm tới nhau trong lúc cần. Sự cần do
bản năng thôi thúc thì vốn dữ dội và quyết liệt, đưa đến chiến đấu giành giật,
chắc Con Người cũng không ngoại lệ. Nhưng vốn là linh vật nên nhờ cảm tính, mà
con người mau chóng biết giữ lại những gì đã thuộc về cảm tính của mình một
cách lâu bền. Đó là sự Tư Hữu của
cảm tính.
Cảm tính Tư
Hữu đã giữ đôi lứa lại với nhau, giữ con cái lại với Cha Mẹ, thành những Gia Đình Tự Nhiên. Lâu đời dầy kiếp cảm
tính gia đình thăng hóa thành Tình Cảm
Gia Đình, lúc đó mới là thời Tộc
Thuộc lâu dài. Vợ Chồng, Con Cái, Cha Mẹ, Ông Bà, dòng họ sống quần tụ bên
nhau, để tạo thành những giống người cá biệt. Các Tộc thuộc này có thể sinh
hoạt theo lối Bộ lạc du mục, rồi du canh du cư, hay phát triển mau chóng thành
nếp sinh hoạt Dân Tộc định canh định
cư sau này.
XÃ HỘI THỜI Ý THỨC NHÂN LOẠI
Khi các Tộc
Thuộc sinh hoạt chuyển vào lối sống Bộ Lạc Săn Câu. Rồi biết nuôi thú hiền,
theo bầy thú lang thang trong đồng cỏ, sống đời Du Mục. Hoặc biết trồng tỉa
theo cách Du Canh, Du Cư trên miền cao. Hay đã biết đưa Dân Tộc xuống vùng châu
thổ Định Canh, Định Cư, để vẽ vòng biên ải thành lập Quốc Gia của Dân Tộc. Đó
là cuộc sống được hướng dẫn bằng Sự Biết.
Như vậy là loài
người đã thực sự bước hẳn vào Cuộc Sống
Ý Thức Người, thiết lập mọi quan hệ giữa người với người trong tập thể, tìm
ra cách sống, nơi sống thích hợp nhất cho Tộc Thuộc. Tức là đã thăng hóa cuộc
sống từ Hợp Quần Tự Nhiên Phi Sản,
sang cuộc sống Xã hội Con Người Hữu Sản.
Đó là sự định hình, định tính của Văn
Hóa và Xã Hội.
Do chính nhu
cầu và khả năng Tình Cảm, Suy Nghĩ và Ý Chí của Con Người đã tự nâng Xã Hội
Loài Người lên khỏi bầy đoàn của các loài động vật khác. Khi đã sử đụng tới Hiểu Biết để nâng cao cuộc sống của
mình, cũng có nghĩa là đã thẩm định được giá trị của vẻ Đẹp sự Đúng việc Lành, đó là nội dung của Văn Hóa, thêm
vào với tự tính thường xuyên Thăng Hóa của
Tâm Thức Người, mới thực sự biểu hiện trọn vẹn được ý nghĩa Văn Hóa.
Những sản phẩm,
những công trình tạo tác Văn Hóa tuy ở thể tĩnh, nhưng tác động của nó trên Tâm
Thức Con Người thì được chuyển sang thể động, vừa soi sáng, vừa nâng cao, vừa hướng
dẫn cho cuộc sống Con Người, trong những tương quan xã hội, cũng như hình thành
các tổ chức xã hội, và định mức thang cho giá trị cuộc đời, thế nên tùy trình
độ Tâm Thức của Con Người từng thời đại, mà thành lịch sử. Vì Con Người là Nguyên Nhân Lịch Sử Nhân Loại.
Khi Con Người
sống bằng ý thức, Văn Hóa Loài Người, được hình thành và hướng dẫn bằng Ý Thức,
Xã Hội Loài Người, được tổ chức và sinh hoạt trong sự chủ đạo của nền Văn Hóa Ý
Thức, thì sự phát triển của Nhân Loại nở rộ muôn mầu muôn vẻ, mà từ thực tế đến
siêu thực, đều diễn ra giữa sự đối nghịch quyết liệt giữa Đẹp và Xấu, giữa Đúng và Sai, giữa Thiện và Ác. Hầu như từ Con Người, ra Xã Hội,
tới Vũ Trụ, cũng đều mang tính cách lưỡng diện, cho tới đa diện, hoặc ảo diện,
tùy theo ý niệm của mỗi người chủ quan khẳng định.
Chính những ý
niệm chủ quan đó của mỗi người đã chinh phục ngay Tình Cảm của chính mình, rồi
dùng ngay Suy Tư của chính mình xây dựng, chứng minh cho đó là Chân Lý, cuối
cùng đặt trọn vẹn năng lực của Ý Chí mình vào đó để thành Niềm Tin. Nếu chỉ
dừng ở đó thì rất tốt. Vì rằng chính Tâm Thức Con Người thuộc lãnh vực Siêu Thức,
vốn là một công trình sáng hóa tối cao của Vũ Trụ theo luật tự nhiên. Vậy Con
Người có quyền theo luật của vạn hữu mà sáng tạo, để làm giầu, làm mới thêm cho
tự nhiên, nhất là về mặt tinh thần, thức giác, tâm linh của Năng Lực Siêu Thức
Vũ Trụ. Nhưng nguy hiểm ở chỗ bắt người khác phải tin vào những điều mình tin.
Bắt những người khác phải tuân phục ý chí của mình, rồi nhân danh những mục
tiêu cao cả do mình tin, để bắt những người theo phục vụ cho quyền lợi, tham
vọng của mình. Đó mới là thảm họa của nhân loại triền miên bị gánh chịu gần 10
ngàn năm nay, suốt dọc cuộc sống Ý Thức
Nhân Loại.
Sự mở rộng tầm
mức Xã Hội Tộc Thuộc, Bộ Lạc sang tầm mức Quốc Gia là những biến cố trọng đại
nhất của Loài Người. May mắn cho Dân Tộc nào từ tình trạng tộc thuộc, chuyển
sang Quốc Gia chỉ là sự thay đổi địa vực sinh hoạt du canh, du cư trên vùng
cao, tìm xuống đồng bằng phì nhiêu định canh, định cư, lập làng dựng nước để
phát triển Dân Tộc, vì nhu cầu Canh Nông là tăng dân mới tăng của. Dân đông thì
phải có luật lệ và tổ chức Cai Trị thuận cảnh, hợp lý. Trưởng Tộc xưng Vương,
đứng đầu nước, trị dân một cách hòa bình.
Các dòng họ
cũng tự phân mỏng ra để lập làng, lập ấp sinh sống, đơn vị sống chung, ăn
chung, tài sản chung thuộc về Cha Mẹ, Vợ Chồng, Con Cái là đơn vị gốc của Xã
hội Nông nghiệp. Giá trị Đạo Đức lớn nhất của Con Người là sống đúng theo Luân
Lý của Gia Đình. Vì gia đình là cội
nguồn của sự sống, cái nôi của cuộc sống, nơi chứa đựng yêu thương, nơi đảm bảo
yên ổn no ấm, nơi khởi phát trí tuệ, nơi vun bồi kiến thức kinh nghiệm, nơi Con
Người trở thành Người.
Không may mắn
cho các Tộc Thuộc, Bộ Lạc nào mà lại rơi vào tình cảnh mở rộng tầm vóc xã hội
bằng bạo lực, do sự chinh phạt của các bộ tộc hung dữ, thì xã hội đó bị đặt
dưới chế độ cai trị độc tôn. Nhà Vua làm chủ đất nước, chủ tài sản, chủ quốc
dân. Vua phong ấp cho các lãnh chúa cai trị từng vùng. Dân chỉ còn là Nông Nô
trong lãnh địa. Chiến lợi phẩm trong các cuộc chinh phạt. ngoài của cải vàng
bạc, còn bắt kẻ thua trận về làm nô lệ cho mình nữa. Xã hội chia thành những
đẳng cấp Quý Tộc, Tiện Dân và Nô Lệ.
Các cuộc chiến
tranh tràn ra như một căn bệnh thời đại. Hết nước này xung đột với nước kia,
đến lượt các Đế Quốc mọc lên. Góc này đế quốc A tàn, phương nọ đế quốc B nổi.
Đau thương theo gót đoàn quân viễn chinh mà xuất hiện. Ảnh hưởng văn minh lại
cũng theo đoàn quân viễn chinh mà sụp đổ
và lan truyền. Do ảnh hưởng của tầm hoạt động của Đế Quốc, đã tạo thành các
vùng văn minh khác nhau. Để có những nền văn hóa khác nhau, và hình thái xã hội
khác nhau.
Chính chiến
tranh đã thôi thúc sự trưởng thành của suy tư, những triết gia, những nhà tư
tưởng, các bậc chân sư đạo học xuất hiện, nhằm tuyên dương những lý thuyết,
những phương hướng giải quyết các vấn đề nhân sinh. Mà ảnh hưởng lớn nhất vẫn
là các Tôn Giáo thờ Trời. Nương Oai Trời để dậy dân, nhờ Đức Trời để cứu dân,
mượn Mệnh Trời để trị dân. Đó là tùy ở vị thế mỗi thế lực mà dùng. Ngay đến các
nền Đạo Học Đông Phương, tuy không nhân cách hóa Thế Lực Thiêng Liêng thành ông
Trời toàn năng, nhưng cũng nhìn nhận đó là Nguồn
Năng Lực Siêu Lý tối cao, là Thiên
Lý, là Đạo Trời lồng lộng. Đức Trời hiếu sinh, Mệnh Trời khó tránh. Tôn Giáo
mặc nhiên thành lực sinh động của văn hóa trong thời Ý Thức Nhân Loại. Chính vì
vậy, mà các cuộc cách mạng Tôn Giáo tác động trực tiếp vào những thay đổi Xã
Hội, Văn Hoá, Chính Tri và Kinh Tế cũng như mọi tương quan giữa các nước. Vì
mặc nhiên hay ý thức Văn Hóa luôn sắm vai trò chủ đạo cho khắp mặt sinh hoạt
Chính Trị, Kinh Tế, Xã Hội, Luật Pháp… Giao Tiếp.
Cuộc cách mạng
Tôn Giáo của Đức Phật Thích Ca, là cuộc cách mạng Tôn Giáo chân chính và toàn
diện đầu tiên trong lịch sử nhân loại, trước sức mạnh Thần Giáo Brahman, đã được vũ trang bằng cả một hệ thống
triết lý uyên thâm và đa diện của nền văn minh Vệ Đà Ấn Độ. Cuộc đại cách mạng
tư tưởng của Phật nhằm đưa Con Người vào đúng vị thế Nhân Chủ trong vũ trụ và cuộc sống, để Con Người Tự Do, Tự Chủ,
Sáng Tạo, Tự Giải Thoát khổ đau cho chính mình và góp sức giải thoát cho đồng
loại, chúng sinh.
Cuộc cách mạng
tôn giáo thứ hai là của Đức Jesus, trước sức mạnh cực đoan của Do Thái Giáo.
Ngài đã đưa Thượng Đế của riêng Dân Tộc Do Thái trả về cho Vũ Trụ. Rồi trao lại
cho Loài Người, đưa gần lại với loài người bằng tình yêu của Ngôi Hai Thượng
Đế. Chính là sự hiện hữu của Con Người Jesus. Đáp ứng đúng với tầm mức tinh
thần và nhu cầu thời đại, nên dù bị cấm đoán bức hại, Thiên Chúa Giáo sau 300
năm, đã làm chủ hoàn toàn niềm tin của Người Dân Âu Châu. Buộc Hoàng Đế La Mã, Constantine phải nhìn nhận
là Công Giáo cho toàn Đế Quốc.
Từ đó mọi sinh
hoạt văn học, nghệ thuật, triết học của Âuchâu đều phát triển trong tinh thần
Thiên Chúa Giáo, kể cả thuận lẫn nghịch, tạo ảnh hưởng quyết liệt tới đời sống
Xã Hội, Văn Hóa, Chính Trị và Kinh Tế đến toàn Âu Châu. Gần như Thiên Chúa Giáo
nhiều khi ở vào thế toàn trị. Đây là nguyên nhân đưa tới cuộc cải cách Tôn Giáo
của Lurther và Calvin vào thế kỷ 16. Lurther trả chính trị cho chính quyền với
khẩu hiệu : "Ý Chúa Trời thể hiện nơi miệng của nhà Vua" Giống
với phong kiến Đông Phương "Ý Vua là Ý Trời". Nhà trí
thức Calvin đi xa hơn cho là: "Ý chí Thượng đế đặt nơi Dân chúng"
Giống như Mạnh Tử, triết gia Đông Phương cổ đại: "Ý Dân là Ý Trời".
Chính phong
trào cách mạng Tôn Giáo Âu Châu, đã đưa vua chúa tách khỏi quyền lực của Giáo
Hội La Mã. Khoa học, kỹ thuật hết còn bị tin tưởng giáo điều ràng buộc, được
thời bùng phát, làm thay đổi lối nhìn, cách nghĩ, đẩy kinh tế lên hàng quyết
định sinh hoạt Xã Hội. Cuối cùng dẫn tới tư tưởng "Dân làm Chủ", tạo
thành phong trào Cách Mạng Tư Sản Dân
Quyền rộng khắp. Nhưng ngoài cuộc cách mạng Dân Chủ Tự Do của Hoakỳ 1776 thành
công và liên tục tiếp hóa để đứng vững đến nay, Còn các cuộc Cách Mạng Dân Chủ
ở Âu Châu đã bị những đầu óc phong kiến và quyền lợi giới giầu có làm đọa lạc
đi. Dẫn tới tham vọng chiếm thị trường và thuộc địa ở hải ngoại. Các nước Thực
Dân xuất hiện, hăm hở mộ binh lính đi xâm lăng các nước Phong Kiến lạc hậu khắp
Thế giới.
Ngoài việc các
Dân Tộc thuộc địa bị khai thác bóc lột, những người lao động ở chính quốc cũng
không thoát khỏi cảnh ngược đãi. Vì sau các cuộc cách mạng, kỹ thuật càng ngày
càng tiến bộ, Nông Dân bỏ ruộng đất chạy ra tỉnh làm ăn mỗi ngày mỗi nhiều. Họ
trở thành Nhân Công trong nhà máy. Nhưng đầu óc phong kiến và chủ nô vẫn còn
đầy đặc trong giới chủ nhân tư sản thành thị, nên họ đã tổ chức và quản trị nhà
máy giống như một lãnh địa, có quân lính riêng để canh phòng, và nguy hiểm hơn
nữa là có quyền sinh sát công nhân chẳng khác gì các vị lãnh chúa. Phần đông
bọn họ xuất thân từ giới quý tộc phong kiến cũ. có thần thế, hoặc trực tiếp
lãnh đạo chính quyền nữa.
Như vậy, xã
hội ngoài đẳng cấp cai trị còn có giai cấp kinh tế là Chủ và Thợ nữa. Tình
trạng bất công mỗi ngày một gay gắt. Thêm vào đó đời sống dân chủ đã dành cho
Giới Trí Thức một số quyền tự do căn bản, nên sách báo có cơ hội ấn hành nhiều
hơn, để trình bày về cuộc sống khốn khổ của người lao động. Đây là lý do thúc
đẩy các nhà tranh đấu cho công bằng xã hội xuất hiện.
Từ những cuộc
tranh đấu công bình xã hội, vì mục đích nhân đạo của giới trí thức, nhắm vào
thành trì tư bản tham lam ngoan cố, đã khích động tới nhu cầu đấu tranh của đời
sống công nhân. Rồi được hướng dẫn bằng tư tưởng vô sản cực đoan, đấu tranh
giai cấp của người Cộng Sản. Đẩy Xã Hội vào một cuộc phân hóa khốc liệt. Giữa
chủ và thợ, giữa giầu và nghèo. Tạo cơ hội cho chế độ Cộng Sản xuất hiện trên
đấu trường Quốc Tế.
Từ mục đích
đấu tranh giai cấp, khi có chính quyền của Quốc Gia trong tay, bọn lãnh đạo
Cộng Sản biến chất thành các Hoàng Đế cực quyền, đẩy nước mình lên thành thứ Đế
Quốc Mới hung tàn, với hệ thống lý thuyết cực đoan, quyết chí đặt được ách toàn
trị khắp thế giới, tạo ra cảnh chiến tranh "Ý Thức Hệ". Chia từng Gia
Đình, từng Quốc Gia và Thế Giới ra thành hai chiến tuyến thù hận, hủy diệt nhau
không thương xót.
Để chống lại
với Phong Trào Cộng Sản hung hăng tiến công khắp mặt, giới Tư Bản ở các nước kỹ
nghệ, đã khôn ngoan đề ra chủ trương nâng đỡ lao động, cho thành lập các nghiệp
đoàn, công đoàn. Khuyến khích sự học vấn. Dần dần người có học được đưa vào vị
thế điều khiển công ty, tư bản giữ phần quản trị vốn. Nhờ thế mà kiến thức,
sáng kiến của nhân tài được tận dụng, kỹ
nghệ, kỹ thuật, khoa học tiến rất mau. Đổi hẳn lối nghĩ, lối làm, và cuộc sống
Xã Hội. Tính cách đấu tranh giai cấp mờ dần, nhường chỗ cho những nỗ lực học
hành tiến thân, làm việc, tích lũy, chuyển vốn vào đầu tư để thành những nhà tư
bản mới. Mở ra nền Kinh tế Thị Trường Tự Do. Nhờ vậy mà Cộng Sản đã bị gục ngã
trước sức mạnh đi lên của Ý Thức Tự Do.
XÃ HỘI THỜI NHẬN THỨC NHÂN VĂN
Xã Hội Người
mở rộng ra tầm vóc Thế Giới. Khởi đầu là những con tầu lớn vượt đại dương bao
la của các nhà thám hiểm. Tiếp đến là các thương thuyền của nhà buôn. Kế đó là
các đoàn quân viễn chinh chiếm thuộc địa. Để rồi các nước có kỹ thuật cao, lao
vào chém giết loại trừ nhau để tranh đoạt thuộc địa. Sự tranh giành đó lại được
nâng cao ý nghĩa lên thành cuộc chiếm đoạt toàn cầu bằng Ý Thức Hệ Cộng Sản đại
đồng hoang tưởng, mà nhân loại đã bị trả giá đắt cho sự ngây thơ cả tin của
mình, bằng sinh mạng của trăm triệu người chết oan,
Sau sự sụp đổ
của Chủ Nghĩa Xã Hội toàn cầu hoang tưởng của Cộng Sản, làm cho tất cả các ý hệ
một chiều, sản phẩm của ý chí, ý thức chủ quan khép kín đang bị mất thế đứng
độc tôn, vì Con Người hết dám tin tưởng tuyệt đối như xưa nữa. Tất cả mọi tư
tưởng, mọi giá trị của tư tưởng đều đang được Nhận Thức của Con Người làm cuộc
tổng duyệt xét toàn diện.
Đồng thời do ý
thức được sự tự do tư tưởng nơi mình là hết sức quan trọng, cho sự lựa chọn
ngay trong thực tại cuốc sống, lẫn những giá trị tâm linh siêu việt, để mình tự
chủ vươn tới, nên Con Người cần nâng cao phẩm giá của chính mình, bằng sự thật
tâm tôn trọng tự do tư tưởng, cũng như lựa chọn của người khác, còn đúng hay
sai thuộc về trách nhiệm tự thân mỗi người. Vì Con Người có Tự Do, được Tự Chủ
là lập tức phải chịu Trách Nhiệm về sự lựa chọn và quyết định của mình. Đó
chính là sự hình thành của lối Nhận Thức
Toàn Diện của Con Người hiện nay.
Nhờ phương
tiện di chuyển mau lẹ, thông tin thần tốc chính xác, địa cầu bị thu nhỏ lại,
con người từ khắp nơi trên mặt đất này, nhìn thấy nhau, nghe được tiếng nói
nhau trong cùng một lúc, những biến cố thiên nhiên, chính trị, hoạt động kinh
tế được lên truyền thanh, truyền hình và mạng lưới điện toán thường trực suốt
ngày đêm, đến độ nếu muốn biết giá cả một thứ hàng nào đó, hiện ở đâu, đắt rẻ
ra sao? Đều được trả lời thật chính xác.
Như vậy, sinh
hoạt của Con Người trong Xã Hội toàn diện hiện nay, đang tiến tới mức Thị Trường Toàn Cầu Hóa và Dân Chủ Hóa Toàn Cầu, tùy ở khả năng và
kiến thức của mỗi người đạt được đến mức nào. Ngoài lãnh vực khoa học kỹ thuật
đã bứt phá giới hạn của các rào cản tự nhiên. Lãnh vực kinh tế tài chánh cũng
đang tiến tới cảnh toàn cầu hóa một cách nhịp nhàng quy mô, vượt ra khỏi biên
giới của các Quốc Gia. Các nước trong một khu vực dù giầu hay nghèo, đều đang
có nhu cầu và khuynh hướng kết thành các Khối
Kinh Tế Chung, giầu thì để giầu thêm, nghèo thì để chung sức làm cho nhau
cùng giầu, hòng theo kịp với đà phát triển của toàn cầu hóa.
Kỹ thuật đã
chắp cánh cho kinh tế tiến lên tới chỗ tự động điều hợp mức phát triển toàn diện
toàn cầu hóa. Thế nhưng để bảo vệ cho sự phát triển đó không bị loạn động, sụp
đổ thì phải cần tới luật lệ. Hiện nay luật lệ chặt chẽ nhất đều dựa trên nền tảng
của từng Quốc Gia. Bất cứ công ty nào, dù dưới danh nghĩa là đa quốc gia, thì
những nhà tài phiệt vẫn là người bị luật pháp nước họ ràng buộc, vì nước họ có
bổn phận phải bảo vệ cả về an ninh nhân thân và tài sản cho họ trong dịch vụ
đầu tư ở nước ngoài.
Chính vì vậy
mà vai trò quốc gia hết sức quan trọng trong sinh hoạt kinh tế, cho dù đó là
Kinh Tế Toàn Cầu Hóa. Các cường quốc kinh tế hiện nay đang loại bỏ hẳn chủ
trương bảo hộ mậu dịch ra khỏi chính sách quốc gia của họ. Tất cả đều thấy
rằng: "Cô lập là tự sát". Thế nên các tổ chức như Mậu Dịch Thế
giới - WTO - Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế - IMF -
Ngân Hàng Thế Giới - WB - càng ngày càng có vai trò lớn hơn trong sinh hoạt
kinh tế toàn cầu. Các nước đều tuân theo một ước lệ chung, là cùng nhau thỏa
hiệp một luật lệ Mậu Dịch, Cấp Viện, Cho Vay. Rồi trao cho các tổ chức WTO,
IMF, WB theo đó mà áp dụng. Các nước giầu thì góp nhiều trong các tổ chức tài
chánh quốc tế, lẽ dĩ nhiên tiếng nói của họ sẽ mạnh cân xứng với đóng góp của
họ. Đây cũng là một khích lệ của Kinh Tế Thị Trường Tự Do. Và khẳng định rằng:
Dù kinh tế sinh hoạt trong Cấp Vùng, hay Toàn Cầu, thì tính cách quyết định lại
vẫn tùy thuộc ở luật pháp, chính sách của từng Quốc Gia, tự đặt trong các Công Ước Quốc Tế, do chính
các Quốc Gia Chủ Động ký kết.
Tổ chức Xã Hội
trong thời đại Nhận Thức Nhân Chủ Nhân
Văn này, đã do nhu cầu hòa bình phát triển mà định hình, định tính, đi từ
Con Người là Nhân Chủ: Tự Do Tự Chủ Sáng
Tạo, ra tới liên hệ tình cảm ruột thịt là Gia Đình: Mái Nhà Tư Hữu Hạnh Phúc, gắn bó với nhau trong lịch sử Quốc Gia: Dân Chủ Tự Do Công Lý, kết
hợp phát triển trong Cấp Vùng: Kinh Tế Thị
Trường Thịnh Vượng, để tiến tới một Thế
Giới: Nhân Chủ Tự Do Điều Hợp Hòa Bình Phát Triển.
LÝ ĐẠI NGUYÊN
NHÂM
THÌN 2012
Kính thông báo đến quý vị trang nhà và địa chỉ email của Thanh Niên Cờ Vàng đang bị Việt Công hack www.thanhniencovang.com , thanhniencovang@gmail.com từ tháng 7 2011 cho tới nay, TNCV đang làm việc với Web hosting. Sẻ thông báo đến với quý vị khi có kết quả.
TNCV
Have a good day
No comments:
Post a Comment