[ChinhNghiaViet] Khái niệm về DÂN CHỦ
[1 Attachment]
FROM Cuc Nguyen TO 1 recipient
Khái niệm về DÂN CHỦ
Dân
chủ là một hình thức chính quyền, một lối sống, môt mục tiêu hay là một
lý tưởng. Dân chủ có nghiã là do người dân tự cai trị. Tổng Thống Mỹ
Abraham Lincoln (1809-1865) mô tả chính quyền tự quản như thế, là “chính quyền cuả dân, do dân, vì dân (government of the people, by the people, for the people)”.
Công
dân của một nước dân chủ tham dự chính quyền một cách trực tiếp hay
gián tiếp. Trong dân chủ trực tiếp hay dân chủ thuần túy (direct or pure
democracy), người dân họp nhau ở một điạ điểm làm ra luật cho cộng
đồng. Hình thức dân chủ nầy được thực thi ở Nhã Điển (Athens) ngày xưa.
Hầu hết dân chủ ngày nay là dân chủ đại diện (representative democracy).
Trong những cộng đồng lớn như thành phố, tiểu bang, liên bang mọi người
không thể nào gặp nhau hội họp, thảo luận, vì thế họ phải bầu chọn một
số công dân thay mặt họ để quyết định về luật lệ và những vấn đề có ảnh
hưởng đến cộng đồng. Hình
thức nhóm họp cuả những người đại biểu được gọi là một hội đồng, một cơ
quan lập pháp, một nghị viện hoặc một quốc hội.
Lối
sống dân chủ nhìn nhận sự bình đẳng và nhân phẩm cuả tất cả mọi người,
không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, phái tính, điạ vị xã hội. Dân chủ
đối xử mọi người công bằng truớc toà án và những vấn đề pháp lý khác.
Dân chủ tôn trọng tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo… Mục
đích cuả xã hội dân chủ là bảo đảm cho mọi người có cơ hội phát triển
đẩy đủ những khả năng cá nhân.
Trong
thực tế, việc thực thi dân chủ thường không đạt đến mức độ toàn hảo.
Một số quốc gia hoặc chính quyền được xếp hạng tùy theo khoảng cách với
lý tưởng dân chủ. Hầu hết các chính quyền đều tuyên bố là dân chủ nhưng
một số lại là toàn trị (totalitarian). Các quốc gia cộng sản còn lại
ngày nay đều thi hành chính sách toàn trị, kiểm soát hầu hết những sinh
hoạt của dân chúng.
Dân
chủ, chế độ chính trị được hình thành từ thời cổ Hy Lạp vào khoảng 600
TCN. Từ ngữ dân chủ “democracy” theo nghiã Hy Lạp, “demos” là nhân dân
(people) và “kratos” là chính quyền (authority) . Xã hội cổ thời La Mã
cũng kinh qua dân chủ. Cicero (106 TCN - 43 TCN), một nhà hoạt động
chính trị La Mã cũng là một triết gia, một luật gia hùng biện đã nêu lên
ý tưởng rằng con người có những quyền tự nhiên (natural rights) mà bất
cứ quốc gia nào cũng phải tôn trọng.
Từ
đó chế độ dân chủ ngày càng phát triển và có những hình thái khác nhau
theo thời gian và không gian, tuy nhiên những đặc tính căn bản đều giống
nhau trong những quốc gia dân chủ :
NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CHỦ
1/ Tự Do Bày Tỏ
(Freedom of Expression). Công dân cuả một chế độ dân chủ chọn lựa người
lảnh đạo là người đại diện thật sự cuả quần chúng và tạo ảnh hưởng đến
chính sách của chính quyền từ điạ phương đến trung ương. Vì lý do nầy sự
thảo luận và hiểu biết những vấn đề công ích là điều cần thiết. Nhằm khuyến khích sự trao đổi tư tưởng, dân chủ phải bảo
đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và thỉnh nguyện thư (petition).
Công
dân cuả một chế độ dân chủ có nhiều cơ hội tạo nên một chính quyền thật
sự đại diện cho mình, nhất là cấp điạ phương. Trong xã hội dân chủ,
chính quyền phải biết người dân cảm nhận như thế nào về những vấn đề
công ích. Nếu có những hiểu lầm hoặc lập trường khác nhau, chính quyền
phải giải thích, hoặc nếu muốn chuyển đổi ý kiến dân chúng phải thi hành
bằng những phương cách giới hạn, vừa đủ. Chính quyền trong việc tìm
kiếm bảo vệ ý kiến cuả mình, phải luôn luôn tôn trọng quyền bày tỏ của
người khác.
2/ Tự Do Bầu Cử.
Tự do bầu cử cho người dân có cơ hội chọn lựa người lãnh đạo và bày tỏ
quan điểm cùa mình về những vấn đề khác nhau. Những cuộc bầu cử được tổ
chức định kỳ để bảo đảm những viên chức đắc cử là đại diện chân chính
cuả nhân dân. Hầu hết các quốc gia dân chủ đều dành những điều kiện pháp
lý giản dị cho tư cách cử tri và ứng cử viên, thường chỉ gồm các hạng
mục : mức tuổi, tình trạng cư trú, quyền công dân. Tự do bầu cử được nhìn nhận trong những điều kiện người dân bầu phiếu trong
những phòng kín, không có cưỡng ép hoặc
mua chuộc và kết quả bầu cử đã được bảo vệ chống lại sự gian trá, bất lương.
3/ Qui Tắc Đa Số và Quyền Thiểu Số
(Majority Rule and Minority Rights). Những quyết định trong một xã hội
dân chủ được lập nên do nguyên tắc đa số. Tuy nhiên, những quốc gia dân
chủ luôn bảo đảm một số quyền cuả người dân không bao giờ bị tước đoạt,
ngay cả khi bị chế ngự bởi tuyệt đại đa số (extremely large majority).
Những quyền nầy gồm có những quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
hội họp, tự do thờ phượng tôn giáo. Đa số buộc phải lắng nghe những
quan điểm cuả thiểu số. Đa
số cũng phải chấp nhận quyền cuả thiểu số tích cực hoạt động bằng những
phương tiện hợp pháp để chiếm vị trí đa số
4/ Đảng Chính Trị.
Đảng chính trị là yếu tố tối cần thiết trong một chế độ dân chủ . Những
đảng đối lập làm cho các cuộc bầu cử có đầy đủ ý nghiã vì cử tri dễ
dàng chọn lựa những ứng cử viên đại diện những quyền lợi và chính kiến
khác nhau. Thông thường các đảng chính trị có quyền lợi và khuynh hướng
chính trị không quá khác biệt, cố gắng liên kết với nhau để mưu tìm
chiến thắng trong cuộc tranh cử. Nước Mỹ và nước Anh có hệ thống lưỡng
đảng đáp úng với nhu cầu kết
hợp những quyền lợi khác nhau.
Trong
những quốc gia dân chủ, đảng hoặc những đảng không nắm chính quyền
thuờng giữ vai trò đối lập để phê phán chính sách và việc làm cuả đảng
đang cầm quyền. Bằng cách nầy, đảng đang cầm quyền được nhắc nhở điều
chỉnh hoạt động và chịu trách nhiệm với dân chúng. Trong chế độ toàn
trị, chỉ có một đảng chính quyền được tồn tại, sự phê phán đảng cầm
quyền bị kết tội phản loạn. Bầu cử trong chế độ toàn trị chỉ làm chiếu lệ, tượng trưng, dân chúng không có
cơ hội chọn lựa ứng cử viên mong muốn và cũng không được phép bày tỏ sự bất mãn với chính quyền.
5/ Phân Quyền. Điều
quan trọng trong xã hội dân chủ là phân chia và phân phối quyền lực
chính trị một cách đồng đều. Những thế chế dân chủ đều có những cách
thức sắp đặt khác nhau để tránh một cá nhân hay một ngành nào cuả chính
quyền có quyền lực áp đảo. Thí dụ hiến pháp Hiệp Chúng Quốc phân chia
quyền chính trị giữa chính quyển tiểu bang và chính quyền liên bang. Một
số quyền chỉ thuộc tiểu bang, một số quyền chỉ thuộc chính phủ liên
bang và một số quyền đuợc phân định cho cả
tiểu bang và liên bang.
Ngoài
ra hiến pháp Mỹ cũng thiết lập một chính quyền trung ương cân đối bằng
cách phân chia quyền lực giữa ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp
độc lập với nhau. Ngành hành pháp thi hành luật pháp với Tổng Thống là
đại diện chính quyền trung ương, ngành lập pháp tập trung tại Quốc Hội
và làm ra luật pháp, ngành tư pháp giải thích luật pháp với Tối Cao Pháp
Viện là toà án liên bang có thẩm quyền trên hết. Một người chỉ được
phép phục vụ một ngành cuả chính quyền mà thôi trong cùng một thời gian.
Quyền lực cuả mỗi ngành được qui định để kiểm tra hay cân bằng với
quyền lực cuả ngành khác. Những quyền
không được hiến pháp hoặc hiến chương xác nhận giao cho chính quyền,
thường được dành riêng cho công dân.
6/ Chính Quyền Hiến Định (Constitutional
Government). Chính quyền hiến định là chính quyền đặt căn bản trên luật
pháp. Hiến pháp qui định thẩm quyền và trách nhiệm cuả chính quyền,
giới hạn những điều chính quyền được phép làm. Hiến pháp cũng nói đến
luật pháp được thực thi và cưỡng hành như thế nào. Hầu hết các hiến pháp
cũng bao gồm một luật chi tiết về các quyền gọi là Tuyên Ngôn Nhân
Quyền (Bill of Rights) mô tả các quyền tự do căn bản cuả nhân dân và ngăn cấm chính quyền vi phạm những quyền nầy.
Hiến
pháp nước Mỹ và hầu hết các quốc gia trên thế giới, là một văn kiện chữ
viết (written constitution). Hiến pháp nước Anh không viết thành văn
bản mà chỉ gồm một số luật do Nghị Viện (Parliament) đã thông qua.
7/ Những Tổ Chức Tư Nhân
(Private Organizations). Trong chế độ dân chủ, cá nhân và những tổ chức
tư nhân điều khiển nhiều hoạt động kinh tế và xã hội không thuộc quyền
kiểm soát cuả chính quyền. Thí dụ : nhật báo, tuần báo, đặc san … do tư
nhân làm chủ và điều hành. Nghiệp đoàn hoạt động bênh vực quyền lợi cho
người lao động chứ không vì nhà nước. Chính quyền dân chủ không can
thiệp vào việc thờ phượng tôn giáo. Những trường tư thục mở lớp song
song với các trường công lập. Trong xã
hội dân chủ hầu hết các hoạt động thương mãi đều do tư nhân sở hữu và
điều hành.
Trong
xã hội toàn trị, duy chỉ chính quyền làm chủ, kiểm soát tất cả những
hiệp hôị, người dân không được thành lập hoặc gia nhập một nhóm nào nếu
không có phép cuả chính quyền.
PHẢI CÓ DÂN CHỦ
1/ Bảo Vệ Nhân Quyền. Dân
chủ nhằm bảo vệ tự do cá nhân và thăng tiến sự bình đẳng. Tuyên Ngôn
Độc Lập cuả Hiệp Chúng Quốc (The U.S. Declaration of Independence) bày
tỏ niềm tin rằng “tất cả mọi người sinh ra bình đẳng, họ được Tạo Hoá
(Creator) ban tặng những quyền hạn không thể chuyển nhượng như là Đời
Sống, Tự Do và mưu cầu Hạnh Phúc. Tuyên ngôn cũng nói thêm rằng nhân dân
có thể thay đổi hoặc xoá bỏ chính quyền nếu chính quyền cản trở những
quyền nầy.
Lịch
sử đã minh chứng một khi người dân nghĩ rằng những cản trở to lớn đối
với tự do cá nhân và sự bình đẳng vì lý do chính trị thì công việc đơn
giản là phải thay đổi chính quyền từ thể chế “vương quyền” sang chế độ
cộng hoà, dân chủ. Trong những quốc gia dân chủ hiện nay, chính quyền
giữ vai trò tích cực nhằm bãi bỏ những bất bình đẳng đồng thời thăng
tiến các quyền tự do cho toàn dân. Các quốc gia dân chủ đều có những
chương trình cung cấp an ninh kinh tế, giảm nghèo, và phát triển tiềm
năng nhân lực bao gồm bảo hiểm thất nghiệp, qui định mức lương tối
thiểu, hưu bổng, bảo hiểm sức khoẻ,
luật dân quyền, trợ cấp giáo dục. Nhiều nước dân chủ cũng có mục tiêu
cung cấp cho dân chúng một đởi sống căn bản và bảo hiểm y tế đáp ứng nhu
cầu.
2/ Bảo Đảm Hoà Bình Trong Những Chuyển Biến. Những
người có tư tưởng dân chủ tin rằng những tiến trình làm chuyển biến xã
hội bằng bạo lực cách mạng là không cần thiết. Họ khẳng định rằng dân
chủ phải đáp ứng những dòi hỏi chính đáng cuả người dân một cách hữu
hiệu hơn bất cứ một hình thức chính quyền nào khác. Những người ủng hộ
dân chủ muốn nhắc đến những biến chuyển kinh tế, xã hội tại Hoa Kỳ và
Anh Quốc trong những năm đầu thế kỷ 20 đã xảy ra một cách hoà bình trong
khung cảnh những định chế chính trị thời bấy giờ. Đối với những lãnh
đạo chính trị, dân chủ cũng tạo ra sự chuyển đổi và tiếp nối một cách
trật tự. Những hiến pháp dân chủ đều qui định những cuộc tự do bầu cử
định kỳ và dự liệu những thủ tục kế thừa trong trường hợp người lãnh đạo
chính quyền tử vong hoặc không còn đủ năng lực thi hành nhiệm vụ.
THỰC THI DÂN CHỦ
1/ Sự Tham Gia cuả Người Dân. Nền
dân chủ đòi hỏi sự tham gia rộng rãi cuà người dân trong sinh hoạt
chính trị. Đấy là bổn phận cuả tất cả công dân trưởng thành đi bầu phiếu
trong các cuộc tuyển cử tại điạ phương, tiểu bang, liên bang. Những cá
nhân có đủ điều kiện hợp lệ nên ra tranh cử vào những chức vụ công cử,
phục vụ trong hội thẩm đoàn (juries), góp phần vào an sinh xã hội với
tất cả khả năng. Người công dân cũng nên dự phần hướng dẫn dư luận bằng
cách nêu lên những đề tài
quan trọng và giúp đỡ chọn lựa những chính đảng tốt. Một công dân tích
cực là một người năng động chống tham nhũng và chống chính quyền không
đủ năng lực.
2/ Giáo Dục và Dân Chủ. Sự
tham gia chính trị rộng khắp chưa hẳn là điều cần thiết bảo đảm một
chính quyền tốt. Phẩm chất cuả chính quyền lệ thuộc vào phẩm chất cuả sự
tham gia. Những người công dân với đầy đủ kiến thức và học vấn mới có
đủ khả năng đóng góp chính quyền một cách thông minh. Lịch sử chứng tỏ
rằng dân chủ thường thành công trong những quốc gia có nền giáo dục tốt
và dân chúng có nhiều cơ hội về học vấn. Với lý do nầy, những chính
quyền dân chủ thường yểm
trợ mạnh mẽ sự giáo dục cho toàn dân.
Nền
dân chủ cần đến những công dân có học vấn vì họ có thể chia sẻ những
vấn đề công ích, hiểu biết những vấn đề cuả quần chúng và bầu phiếu đúng
theo nhu cầu. Từ đó, định chế dân chủ tạo nên những nhà cầm quyền có
đủ khả năng thi hành trách nhiệm và được nhân dân tin tưởng.
Trong
xã hội kỹ nghệ hiện đại, hầu hết mọi người đều có những kiến thức khoa
học, kỹ thuật để hiểu biết, phán xét những vấn đề cuả chính quyền, ngoại
trừ một số ít cử tri quá bận rộn không có đủ thời giờ hoặc thiếu những
hiểu biết sâu xa chuyên ngành về những đề mục vượt quá tầm cỡ. Tuy
nhiên, ngay cả những viên chức đắc cử cũng cần đến những chuyên gia góp
ý, giúp đỡ. Do đó, nhiệm vụ cuả cử tri trong tầm giới hạn quyết định
những chính sách và phương hướng. Cử tri chuyển những quan điểm cuả họ
đến những đại biểu bằng cách bầu phiếu những ứng viên cùng chung
một dòng suy nghĩ và được họ tin cậy.
3/ Dân Chủ và Phát Triển Kinh Tế . Lịch
sử đã chứng minh rằng dân chủ là cơ hội tốt nhất để thành công trong
những quốc gia ổn định, đang phát triển và sự giàu nghèo không quá chênh
lệch. Một số học giả cho rằng dân chủ phát triển thích hợp trong những
quốc gia thành phần trung lưu chiếm đa số.
Nhiều
quốc gia dân chủ bị sụp đổ trong thời kỳ kinh tế suy thoái trầm trọng.
Khi số đông dân chúng không tìm được việc làm, họ thường ủng hộ những
nhóm lật đô chính quyền. Một quốc gia đang bị nạn đói hoành hành, thực
phẩm cúu trợ quan trọng hơn là quyền bầu cử và những quyền năng chính
trị khác .
4/ Chuyển Đổi Giai Cấp. Điều cốt yếu cuả
dân chủ là sự chuyển biến cuả con người hoặc cuả nhóm người từ giai cấp
nầy qua giai cấp khác. Mỗi người đều có cơ hội hoàn toàn bình đẳng để
gia tăng lợi tức, thăng tiến nghề nghiệp, nâng cao điạ vị xã hội. Xã hội
với
một hệ thống giai cấp chặc chẽ không cung cấp cơ hội cho cá nhân thăng
tiến là phản dân chủ. Một quốc gia dân chủ không có bất cứ sự hạn chế nào đối với cá nhân vì lý do chủng tộc, tôn giáo, giai cấp xã hội.
5/ Đồng Thuận trên Những Nền Tảng (Agreement on Fundamentals). Đây là vấn đề trọng yếu cuả dân chủ. Đa
số dân chúng trong một chế độ dân chủ phải tin vào phẩm giá căn bản và
sự bình đẳng cuả tất cả mọi người. Mặc dù dân chủ nhấn mạnh đến sự quan
trọng cuả cá nhân,
tuy nhiên người công dân phải đặt sự an nguy cuả đất nước trên quyền
lợi riêng tư cuả mỗi người. Người
dân cũng phải thuận thảo tổng quát những muc tiêu cuả chính quyền. Họ
phải phân tách, tìm kiếm cách tốt nhất để thành đạt các mục tiêu. Nếu
những mục tiêu, chính nó không trong sáng, nền móng dân chủ sẽ không
vững chắc.
DIỄN TIẾN PHÁT TRIỂN DÂN CHỦ
1/ Nguồn Gốc Dân Chủ. Dân chủ bắt đầu khai sinh từ Hy Lạp cổ thời, vào khoảng 600 năm TCN. Từ ngữ democracy (dân chủ) phát sinh từ tiếng Hy Lạp demos có nghiã là nhân dân và kratos có nghiã là cai trị hoặc chính quyền.
Những nhà tư tưởng chính trị (political thinkers) Hy Lạp nhấn mạnh đến ý
nghiã cai trị bằng luật pháp. Họ chỉ trích chế độ độc tài như là hình
thức chính quyền tồi tệ nhất. Nhã Điển (Athens) và một số đô thị khác
cuả Hy Lạp đã có chính quyền dân chủ ngay từ thời bấy giờ.
Dân
chủ ngày xưa tại Nhã Điển là dân chủ trực tiếp khác với cung cách dân
chủ ngày nay là dân chủ đại diện. Mỗi nam công dân có bổn phận phục vụ
thường xuyên trong quốc hội để thông qua luật lệ và quyết định tất cả
những chính sách quan trọng cuả chính phủ, tuy nhiên không có sự phân
chia giữa hai ngành lập pháp và hành pháp trong chính quyền. Những người
nô lệ chiếm một phần lớn dân số cuả Nhã Điển đều phài làm việc. Nô lệ
và phụ nữ không được bầu phiếu.
Người
La Mã cổ thời cũng kinh qua dân chủ nhưng thực hiện khác với cư dân Nhã
Điển. Những nhà tư tưởng chính trị La Mã chỉ dạy rằng quyền lực chính
trị phát xuất từ sự đồng thuận cuả dân chúng. Chính trị gia La Mã Cicero
nêu lên ý tưởng rằng con người có những quyền tự nhiên mà tất cả chính
quyền đều phải tôn trọng.
2/ Thời Trung Cổ. Cơ
Đốc Giáo dạy rằng tất cả mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Lời
giáo huấn nầy làm gia tăng lý tưởng dân chủ coi mọi người đều là huynh
đệ. Cơ Đốc Giáo cũng khai mở thêm tư tưởng rằng tín đồ Cơ Đốc Giáo là
công dân cuả hai vương quốc : vương quốc cuả Thiên Chuá và vương quốc
cuả trần gian. Điều nầy giải thích rằng không một quốc gia nào đòi hỏi
người dân phải trung thành tuyệt đối, vì lẽ người dân cũng phải tuân
phục Thượng Đế và
những Điều Răn Dạy. Trong suốt thời Trung Cổ (400-1500), sự tranh chấp
giữa hai sự trung thành nầy là cơ hội tìm thấy nền tảng cho chính quyền
dựa trên hiến pháp.
3/Thời Phục Hưng và Thời Cải Cách (the
Renaissance and the Reformation). Cuộc bùng nổ lớn về văn hoá được gọi
là Thời Phục Hưng trải khắp Âu Châu trong suốt những thế kỷ 1300’s,
1400’s, 1500’s. Một tinh thần mới về tư tưởng cá nhân và độc lập được
phát triển mạnh, ành hường đến tư duy chính trị và thúc đẩy dân chủ. Con
người bắt đầu đòi hỏi tự do hơn nữa về tất cả những lĩnh vực trong đời
sống.
Sự
chuyển hướng mới mẻ cuả tư tưởng cá nhân độc lập được thể hiện trong
giáo phái Tin Lành. Sự cải cách nhấn mạnh đến sự quan trọng cuả lương
tâm cá nhân. Trong suốt thế kỷ 1500’s, cả Thiên Chuá Giáo (Catholics) và
Tin Lành (Protestants) đều binh vực quyền chống lại nền quân chủ chuyên
chế. Cả hai tôn giáo đều lý luận rằng quyền lực chính trị cuả những kẻ
cầm quyển trên thế gian (political power of earthly rulers) phát sinh từ
sự thoả thuận cuả con người.
4/ Dân Chủ ở Nước Anh. Năm
1215, quí tộc Anh ép buộc Vua John chấp thuận Bản Đại Hiến Chương
(Magna Carta). Tài liệu lịch sử nầy là biểu tượng tự do cuả nhân loại
được dùng để hổ trợ cho những đòi hỏi việc xét xử trước toà án với bồi
thẩm đoàn, chống lại việc bắt giam vi luật (unlawfull arrest) và không
đóng thuế nếu không có đại diện.
Nền
dân chủ Anh Quốc phát triển chậm chạp trải dài hơn bốn trăm năm tiếp
theo. Năm 1628, Quốc Hội thông qua Thỉnh Nguyện Quyền (Petition of
Right). Bản thỉnh nguyện đạo đạt lên Vua Charles I xin ngưng thu thuế vì
không có sự đồng ý cuả Quốc Hội, đồng thời yêu cầu Quốc Hội nên họp
định kỳ. Vua Charles không chấp thuận sự giới hạn vương quyền và nội
chiến bùng nổ năm 1642. Tín đồ Thanh Giáo (Puritans) do Oliver Cromwell
lãnh đạo đánh bại phe bảo hoàng và Vua Charles bị chém đầu năm 1649.
Cuối
cùng, cuộc cách mạng ở nước Anh năm 1688 thiết lập thẩm quyền tối cao
dành cho Quốc Hội. John Locke, một triết gia cuả cuộc cách mạng tuyên bố
rằng quyền hạn trên hết cuả những vấn đề chính trị thuộc về nhân dân và
mục tiêu chính cuả chính quyền là bảo vệ đời sống, tự do và tài sản cuả
người dân. Quốc Hội thông qua Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm 1689, bảo đảm
những quyền dân sự căn bản.
Tuy
nhiên tình trạng dân chủ vẫn còn phôi thai. Một số thành phố kỹ nghệ
lớn không có đại diện trong Quốc Hội mãi đến sau khi ban hành Luật Cải
Cách (Reform Bill) năm 1832. Định mức tài sản cho viêc bầu phiếu dần dần
tan biến. Đến năm 1918, lần đầu tiên tất cả nam công dân được phép đi
bầu và mãi đến 1928 bầu phiếu nới rộng đến tất cả nữ cử tri.
5/ Những Đóng Góp cuả Người Pháp đối với Dân Chủ. Những
đóng góp cuả người Pháp đối với dân chủ được thể hiện trong những năm
cuả thế kỷ 1700’s, xuất phát từ những tư tưởng chính trị cuả
Montesquieu, Voltaire, và Jean Jacques Rousseau. Những bài viết cuả họ
làm bùng lên cuộc Cách Mạng Pháp bắt đầu năm 1789. Montesquieu lý luận
rằng tự do chính trị đòi hỏi phân cách riêng biệt ba ngành hành pháp,
lập pháp, tư pháp. Voltaire hô hào chống lại chính quyền xâm nhập vào
quyền lợi cá
nhân và sự tự do. Rousseau tuyên bố trong tác phẫm Khế Ước Xã Hội (The
Social Contract) năm 1762, rằng “người dân có bổn phận chỉ tuân theo
những quyền lực hợp pháp (people have a duty to obey only legitimate
powers)”. Ông cũng nói thêm rằng những nhà cầm quyền đứng đắn chính là
những người được dân chúng tự do chọn lựa.
Cuộc
Cách Mạng Pháp, một biến cố quan trọng trong lịch sử dân chủ, làm thăng
tiến những tư tưởng về tự do và bình đẳng, tuy rằng chưa biến đồi nước
Pháp thành một quốc gia dân chủ nhưng cũng ngăn cản, hạn chế những quyền
lực cuả vương triều.
6/ Dân Chủ Mỹ Quốc. Nền
dân chủ nuớc Mỹ bắt nguồn từ những truyền thống do những người Anh di
dân đầu tiên mang đến vùng Bắc nuớc Mỹ. Những người đi tìm vùng đất hứa
(Pilgrims) để tránh sự xung đột tôn giáo tại quê nhà, định cư lập nghiệp
tại Massachusetts năm 1620, họp nhau ký kết Khế Ước Mayflower
(Mayflower Compact) nhằm tuân chỉ “luật công bằng và bình đẳng ( just
and equal laws)”. Hơn 150 năm tiếp theo, cuộc Cách Mạng Mỹ (American
Revolution) bắt đầu vào năm 1775. Những nguời di dân muốn tự
trị và không muốn bị đóng thuế nếu không có đại diện. Tuyên Ngôn Độc
Lập (The Declaration of Independence) được Quốc Hội Lục Điạ (Continental
Congress) công bố năm 1776, là một tài liệu cổ điển về dân chủ, xây
dựng nhân quyền như là một lý tưởng mà chính quyền phải noi theo.
Hầu
hết những Quốc Phụ (Founding Fathers) thời bấy giờ không tin vào thể
chế dân chủ trực tiếp kiểu Nhã Điển vì họ nghĩ rằng giao quyền cho dân
chúng nhiều quá sẽ trở thành hỗn loạn và họ muốn thành lập chính thể
cộng hoà. Vì lý do nầy, những người viết Hiến Pháp Mỹ tạo nên hệ thống
phân quyền giữa liên bang và tiểu bang. Họ cũng phân chia quyền lực
thành các ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ngoài ra Tổng Thống không
phải bầu trực tiếp mà bầu qua cử tri đoàn.
Sau
khi trở thành Tổng Thống Hiệp Chúng Quốc năm 1801, Thomas Jefferson đã
tuyên bố rằng việc ông đắc cử là một cuộc cách mạng. Năm 1828, cuộc bầu
cử Tổng Thống Andrew Jackson đẩy mạnh nền dân chủ Mỹ tiến xa hơn nữa.
Tinh thần khai phá cuả những di dân tiến về Miền Tây lập nghiệp, thúc
đẩy lòng tự tin, thăng tiến tự do cá nhân, và gia tăng đồng đều cơ hội.
Khuynh
hướng trường kỳ cuả Hiệp Chúng Quốc là làm cho tất cả công dân Mỹ
trưởng thành đều có quyền bầu cử. Năm 1850, những nam công dân da trắng
trong các tiểu bang đều được bầu cử. Tu Chính Án thứ 15 ban hành năm
1870 cho đàn ông da đen quyền đầu phiếu. Năm 1920, Tu Chính Án thứ 19
cho phụ nữ quyền bầu cử.
7/ Dân Chủ Phát Triển và Trở Ngại. Dân chủ tiếp tục phát triển trong
những năm cuả thế kỷ 1800’s tại những quốc gia theo gương nước Anh và
nuớc Mỹ. Những định chế chính trị như là tuyển cử, lập pháp trở nên phổ
biến. Các Vua vẫn trị vì nhưng họ mất nhiều quyền lực
và thi hành những nhiệm vụ có thính cách nghi thức.
Cuộc
Cách Mạng Kỹ Nghệ (Industrial Revolution) làm cho những thay đổi chính
trị trở nên vô cùng quan trọng. Trong hậu bán thế kỷ 1800’s, giai cấp
lao động đã đòi hỏi và nhận được những quyền lực chính trị nhiều hơn.
Những luật lệ mới đem đến người dân quyền bầu cử. Những tự do ngôn luận,
báo chí, hội họp, tôn giáo, được mở rộng và lan tràn khắp nơi.
Tuy
nhiên dân chủ cũng gặp trở ngại tại môt số lãnh thổ. Một số quốc gia
sau khi mô phỏng mẫu mực hiến pháp Mỹ, lại trở nên toàn trị. Từ hiện
tượng nầy, nhiều người nghĩ rằng chỉ với bản Hiến Pháp không đủ bảo đảm
một xã hội yên vui trong một chế độ dân chủ. Tại Nga, một nhóm nổi loạn
lập nên chính quyền độc tài cộng sản năm 1917, chận đứng tiến trình dân
chủ. Nước Đức tuy đã hình thành được nền tảng dân chủ năm 1919, nhưng
sau đó Adolf Hitler lại vùng lên nắm chính quyền dựng nên chế độ độc tài
phát xít năm 1933.
Tất
cả các nước trên thế giới hiện nay đều tự nhận là dân chủ, tuy nhiên
những quyền tự do căn bản cuả một chế độ dân chủ vẫn bị hạn chế, lạm
dụng tại một số quốc gia. Truớc đây, khi khối cộng sản đệ tam quốc tế
chưa tan vỡ, hằng ngày từ MạcTư Khoa đến Bắc Kinh, Hà Nội đều lớn tiếng
bênh vực một thể chế dân chủ nhân dân (people’s democracy). Ngày nay,
trong thế yếu với năm quốc gia còn lại, liên kết lỏng lẻo gồm Trung
cộng, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba, Lào, vẫn tiếp tục làm lệch hướng, bẻ
cong những nguyên tắc dân chủ. Tại các quốc gia cộng sản nầy, đảng cộng
sản là tồ chức chính trị duy
nhất lãnh đạo đất nước, nắm trong tay ba quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Chính quyền cộng sản ngăn cấm các quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận, tự do lập hội, tù đày, giết chết những người chỉ trích những hành
vi sai trái, tham nhũng cuả đảng cộng sản và nhà nuớc xã hội chủ nghiã.
---o---0---O---0---o---
Trải
qua nhiều thế kỷ tranh đấu quả cảm và chấp nhận hy sinh, người dân tại
các quốc gia Anh, Pháp, Mỹ, đã tạo được một mẫu mực chính quyển phù hợp
với công đạo cuả nhân loại : Dân Chủ. Qua thời gian, thể chế dân chủ
được bồi đắp, hoàn chỉnh từ lý thuyết đến thực hành, đuợc dân chúng khắp
nơi hoan nghênh tiếp nhận để tạo lập một đời sống xứng đáng với nhân
phẫm.
Tại
Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, một số sĩ phu tìm đường cứu nước đã đến Nhật
Bản, Trung Hoa Dân Quốc, Pháp Quốc, nghiên cứu, học hỏi nề nếp sinh
hoạt và lý thuyết dân chủ. Các bậc tiền bối đã nhận thấy rằng dân chủ là
cơ hội nhằm khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, gây dựng sức mạnh
lâu dài cho dân tộc dành lại độc lập từ thực dân Pháp và xây dựng một
nước Việt Nam văn minh, giàu mạnh. Cuộc khởi nghiã Yên Bái năm 1930 là
biểu tượng truyền thống dũng luợc cuả dân tộc từ lớp thanh niên nhiệt
huyết, noi theo các cuộc cách mạng dân chủ Anh, Pháp.
Cũng
vào đầu thập niên 1920, một thanh niên học vấn vài năm trung học, kiến
văn non kém, không nghe lời khuyên bảo cuả những nhà cách mạng uyên bác
và kinh nghiệm, lạc lối vào mê hồn trận cuả đệ tam quốc tế. Anh ta gia
nhập đảng cộng sản và đuợc Mạc Tư Khoa huấn luyện thành một cán bộ hoạt
động khu vực Đông Nam Á. Người thanh niên ấy có tên khai sanh Nguyễn
sinh Cung sau đổi thành Hồ chí Minh - kẻ sáng lập đảng cộng sản Việt Nam
- được đệ tam quốc tế nhồi nhét “bạo lực cách mạng vô sản”, trở nên một
cuồng nhân mất trí, dồn dập gây ra nhiều tai hoạ khốc liệt cho toàn
khối dân tộc từ 1945 mãi đến ngày
nay vẫn còn tiếp diễn.
Dân
tộc Việt Nam đang trước vực thẳm diệt vong do tham vọng bành trướng cố
hữu cuả Hán tộc hướng về Đông Nam Á. Từ một kẻ thù truyền kiếp cuả dân
tộc, Trung cộng trở thành một đồng minh, một đối tác chiến lược “môi hở
răng lạnh”, một người anh cả đầy quyền uy cuả đảng cộng sản Việt Nam.
Việt cộng hiện nguyên hình một thế lực gian ác như một bầy rắn độc quấn
quanh một lọ cổ qúi, sẵn sàng đập vở báu vật nếu bị xua đuổi. Dân chúng
và những nhà tranh đấu quốc nội, hải ngoại hiện nay đều dùng lý tưởng
dân chủ, nhân quyền để giải quyết vấn đề sống còn cuả dân tộc. Công
cuộc vận động dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam đuợc sự hổ trợ cuả hầu
hết các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên loài thú bò sát có nọc độc
vẫn ngoan cổ ôm giữ cả một giang sơn hoa gấm làm con tin, bao che quyền
lợi riêng tư của đảng bán nuớc Việt gian cộng sản.
Dân
chủ được xem là giải pháp thích hợp nhất cho vấn đề Việt Nam hiện tại.
Những khó khăn trên đường xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, cường
thịnh và trường tồn sẽ được giải toả khi tất cả những con người, những
tổ chức chống cộng đều trân qúi trên hết bốn nghìn năm lịch sử dân tộc,
thật sự yêu nước, thật sự đoàn kết và chấp nhận hy sinh .
Thế Việt (7/13)
__._,_.___
Attachment(s) from Nguyen bac ninh
1 of 1 File(s)
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic | Messages in this topic (1) |
No comments:
Post a Comment