KÊNH ĐÀO SUEZ
tka23 post
NẾU KHÔNG CÓ KÊNH ĐÀO SUEZ CHƯA CHẮC MỸ ĐÃ VIỆN TRỢ CHO AI CẬP HẰNG NĂM 1 ,3 TỶ USD
Kênh đào Suez
là kênh giao thông nhân tạo nằm trên lãnh thổ Ai Cập, chạy theo hướng
Bắc-Nam đi ngang qua eo Suez tại phía Đông Bắc Ai Cập, nó nối Địa Trung
Hải với Vịnh Suez, một phần của Biển Đỏ.
Kênh đào Suez là một lối đi tắt
cho những con tàu qua cảng Châu Âu-Châu Mỹ, đến những cảng phía Nam
Châu Á, cảng phía Đông Châu Phi và Châu Đại Dương. Kênh được bắt đầu
khởi công ngày 25 tháng 4 năm 1859 và hoàn thành vào ngày 17 tháng 11
năm 1869[1].
Khi hoàn thành, kênh đào Suez dài 195 km (121dặm), khúc hẹp nhất là 60
m, và độ sâu tại đó là 16 m đủ khả năng cho tàu lớn 150.000 tấn qua
được.
Có lẽ vào khoảng những năm 1878 tới 1839 trước Công Nguyên vào triều đại vua
Senusret III đã có một kênh đào đông tây nối sông Nin với Biển Đỏ phục
vụ giao thông bằng những con thuyền đáy bằng đẩy sào và cho phép việc
giao thương giữa Biển Đỏ và Địa Trung Hải. Có nhiều dấu vết cho thấy con
kênh này đã tồn tại vào thế kỷ 13 trước Công Nguyên vào thời kỳ vua Ramesses II.
Con
kênh này đã không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Ai Cập lúc
bấy giờ và bị lãng quên. Theo sử sách Hy Lạp, vào khoảng những năm 600
trước Công Nguyên, vua Necho II đã nhận thấy tầm quan trọng của kênh này và cho tu sửa lại nó.
Tuy nhiên con kênh chính thức được hoàn thành bởi vua Darius
I của Ba Tư. Ông đã hoàn thành con kênh sau khi chiếm Ai Cập và đã mở
rộng nó đủ để cho phép hai tàu chiến Trieme tránh nhau trong kênh và
hành trình trong kênh mất 4 ngày.
Vào cuối thế kỷ 18 Napoléon
Bonaparte, trong khi ở Ai Cập, đã có ý định xây dựng một kênh đào nối
giữa Biển Đỏ và Địa Trung Hải. Nhưng kế hoạch này của ông đã bị bỏ ngay
sau những cuộc khảo sát đầu tiên bởi theo những tính toán sai lầm của
các kỹ sư thời bấy giờ thì mực nước Biển Đỏ cao hơn Địa Trung Hải tới 10 m.
Vào khoảng năm 1854 và 1856 Ferdinand
de Lesseps, phó vương Ai Cập đã mở một công ty kênh đào nhằm xây dựng
kênh đào, phục vụ cho đội thương thuyền dựa theo thiết kế của một kiến
trúc sư người Úc Alois Negrelli.
Sau đó với sự hậu thuẫn của người Pháp công ty này được phát triển trở thành công ty kênh đào Suez vào năm 1858.
Công việc sửa chữa và xây mới kênh được thực hiện trong gần 11
năm. Hầu hết công việc được thực thi bởi những lao động khổ sai người
Ai Cập. Người ta ước tính luôn có một lực lượng 30.000 người lao động trên công trường và cho đến khi hoàn thành, gần 120.000 người đã bỏ mạng tại đây.
Người Anh đã ngay lập tức nhận
ra kênh đào này là một tuyến giao thương quan trọng và việc người Pháp
nắm quyền chi phối con kênh này sẽ là mối đe doạ cho những lợi ích kinh
tế, chính trị của Anh trong khi đó lực lượng hải quân của Anh lúc bấy
giờ là lực lượng mạnh nhất trên thế giới.
Vì vậy chính phủ Anh đã chính thức chỉ trích việc sử dụng lao động khổ sai trên công trường và gửi một lực lượng người Ai Cập có vũ trang kích động nổi loạn trong công nhân khiến công việc bị đình trệ.
Tức giận trước thái độ tham lam của Anh, phó vương de Lesseps đã
gửi một bức thư tới chính phủ Anh chỉ trích sự bất nhân của nước Anh khi
một vài năm trước đó trong công trình xây dựng đường sắt xuyên Ai Cập đã làm tuyệt mạng 80.000 lao động khổ sai Ai Cập.
Lần đầu tiên dư luận thế giới
lênh tiếng hoài nghi về việc cổ phiếu của công tuy kênh đào Suez đã
không được bán công khai. Anh, Mỹ, Úc, Nga đều không có cổ phần trong
công ty này. Tất cả đều được bán cho người Pháp.
Kênh đào cuối cùng cũng được hoàn thành vào ngày 17 tháng 11 năm 1869 mặc
dù đã rất nhiều xung đột chính trị và sự trở ngại kỹ thuật xung quanh
công trình. Tổng chi phí đã đội hơn 2 lần so với dự tính ban đầu của các
kỹ sư.
Kênh đào ngay lập tức làm ảnh
hưởng trực tiếp, sâu sắc đến ngành hải vận thế giới. Kết hợp với đường
sắt xuyên Mỹ hoàn thành 6 tháng trước đó, nó cho phép hàng hoá đi vòng quanh thế giới trong một thời gian kỷ lục.
Nó cũng góp phần quan trọng trong việc mở rộng thuộc địa của Châu Âu
tại Châu Phi. Những khoản nợ khổng lồ đã buộc người kế nhiệm Phó vương
Ai Cập bán lại cổ phần trị giá 4 triệu bảng của mình cho người Anh. Tuy nhiên người Pháp vẫn nắm giữ phần lớn cổ phần chi phối.
Vào năm 1888 một hội nghị ở Constantinopolis đã tuyên bố kênh đào là một khu vực trung lập và yêu cầu quân đội Anh bảo vệ kênh đào trong suốt cuộc nội chiến ở Ai Cập.
Sau đó căn cứ vào hiệp ước với Ai Cập năm 1936 Anh đã đòi quyền kiểm
soát kênh đào. Cuối cùng vào năm 1954 Chính quyền Ai Cập đã phủ nhận
hiệp ước 1936 và nước Anh buộc phải từ bỏ quyền kiểm soát kênh.
Năm 1956 tổng
thống Ai Cập Nasser tuyên bố quốc hữu hoá kênh và ý định xây dựng một
căn cứ quân sự ở dọc kênh. Hành động này của Ai Cập được hậu thuẫn bởi
Liên Xô và đã gây lo ngại cho Mỹ, Anh, Pháp và Israel gây nên cuộc
Khủng hoảng kênh đào Suez.
Ngày 29 tháng 10 năm 1956,
Israel tấn công bán đảo Sinai và dải Gaza để trả đũa. Năm 1957, Liên Hợp
Quốc cử lực lượng gìn giữ hòa bình tới đây để bảo đảm tính trung lập
của kênh.
Kênh bị đóng cửa một lần duy nhất từ 1967 tới 1975 trong cuộc Chiến tranh Ả Rập - Israel.
Cho tới năm 1967, năm xảy ra
chiến tranh giữa Israel và Ai Cập, gần 15% các hàng viễn dương và trên
20% các hàng vận chuyển dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ thế giới đã được vận
chuyển qua kênh đào.
BKTT
__._,_.___
Reply via web post | Reply to sender | Reply to group | Start a New Topic | Messages in this topic (1) |
No comments:
Post a Comment