Wednesday, August 14, 2013

CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM TRONG
VIỆC PHÒNG THỦ DUYÊN HẢI VÀ BIỂN ĐÔNG
 
Nguyễn Mạnh Trí
Tu chỉnh : 14 tháng 8 năm 2008
 
 
    tka23 post
 Trong một vài năm trước khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt, Trung cộng  đã để lộ ý định không muốn thấy một nước Việt Nam thống nhất vì dù rằng dưới chế độ nào,  một nước Việt Nam thống nhất sẽ là chướng ngại vật đầu tiên ngăn cản âm mưu bành trướng xuống phía Nam của Trung cộng .
  Sau năm 1975, Trung cộng  bắt đầu tăng cường sự hiện diện của mình tại Cam Bốt. Chỉ trong 4 năm, Trung cộng  đã tăng cường số cố vấn quân sự lên đến 20,000 người. Việt Nam, với sự giúp đỡ của Liên Sô, đã quyết định đưa quân vào  Căm  Bốt lật đổ chế độ Pol Pot dù phải trả một giá rất đắt với sự lên  án  và  chế tài của cộng đồng quốc tế. Trận  chiến  biên  giới  giữa Trung cộng  - Việt Nam xảy ra sau đó với  cao điểm  năm 1979 và tiếp tục kéo  dài trong những  năm kế tiếp trên  bình  diện  nhỏ hơn. Năm 1988, Trung cộng  chiếm 6 bãi đá ngầm thuộc nhóm Ðá Chử Thập (Fiery Cross Reef) phía Tây  Trường  Sa sau một cuộc giao tranh ngắn ngủi với hải quân Cộng Sản Việt Nam.
  Năm 1995, Trung cộng  chiếm bãi đá ngầm thuộc nhóm Ðá Vành Khăn (Mischief Reef) phía Ðông Trường Sa của Philippines.
 
     Trong thời gian này, dù rằng ảnh hưởng của khối thân Trung cộng tại Hà Nội còn khá mạnh nhưng Hoa Kỳ và Việt Nam cũng đã đạt được những bước đầu trong quan hệ chiến lược giữa hai nước. Hoa Kỳ, với những kinh nghiệm học hỏi được trong cuộc chiến Việt Nam, đã rất thận trọng và tế nhị trong mối liên hệ với Việt Nam. Hoa Kỳ đã đề nghị một lộ trình để tùy Việt Nam chọn lựa. Trong nhiều trường hợp, Hoa Kỳ đã để cho Việt Nam chủ động trong việc đi những bước kế tiếp.
 
     Bài này dựa theo sự hiểu biết cá nhân . Những điều này được cũng cố bằng các sự kiện tuần tự xảy ra trong những năm kế tiếp cũng như những bài viết gần đây của các học giả Hoa Kỳ và Quốc Tế. Chúng ta không ở trong vị thế để biết được chi tiết những thỏa thuận chiến lược giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nhưng những gì đã và đang xảy ra cho thấy nổ lực cũng  như  sự chủ động của Việt Nam trong cố  gắng bảo vệ quyền lợi chiến lược và sự sống còn của mình.
 
     NHẬN ÐỊNH.
 
     Bài viết này dựa theo những nhận định căn bản để các quốc gia trong vùng quyết định đường đi của mình:
 
     Hoa Kỳ và các quốc gia trong vùng không thể ngăn cản Trung cộng  phát triển lực lượng quân sự của họ nhất là về Hải Quân. Ngược lại, Trung cộng  cũng không thể nào ngăn cản các nước này có biện pháp đối phó. Lấy ví dụ Nhật Bản, nước này có khả năng trở thành cường quốc quân sự số 1 tại Á Châu. Họ có thể  biến cải các “super tanker” thành Hàng Không Mẩu Hạm chỉ trong vòng vài năm. Các sĩ quan hàng hải đã được huấn luyện để trở thành sĩ quan Hải Quân khi cần thiết. Nhật Bản là quốc gia đầu tiên tại Á Châu phối hợp với Hoa Kỳ trong hệ thống phnòg thủ hỏa tiên . Ấn Ðộ đang phát triển rất nhanh về phương diện nguyên tử, không gian và áp dụng tin học vào lãnh vực quốc phòng. Trung cộng  đang dùng rất nhiều tài lực của mình lao vào một cuộc chạy đua vũ trang thay vì dùng số tiền này để phát triển kinh tế.
 
     Hoa Kỳ và các quốc gia liên hệ, vì quyền lợi chiến lược, nên giúp Việt Nam phát triển kinh tế, tăng cường quốc phòng cũng như đối ngoại. Khác hẳn với lần trước, Việt Nam không còn được sự hổ trợ của Nga Sô. Tuy nhiên, Nga Sô không phải là đồng minh của Trung cộng  dù rằng Trung cộng  mua rất nhiều vũ khí của Nga. Người Nga cũng hiểu rằng trong vòng 10, 20 năm nữa, khả năng kỹ thuật của Trung cộng  sẽ bắt kịp Nga Sô. Việt Nam đủ sức đứng vững mà không cần quan hệ kinh tế với Trung cộng .
 
     Việt Nam không nên tạo cơ hội để Trung cộng  lấn chiếm thêm các đảo ở Trường Sa. Các quốc gia ASEAN, nhờ địa lý không tiếp giáp với Trung cộng , đang chọn thái độ chờ xem. Họ không dại gì mà chọc giận Trung cộng . Hoa Kỳ cần áp lực các quốc gia trong vùng để chia xẽ gánh nặng với Việt Nam.
     Các quốc gia trong vùng, kể cả Trung cộng , không có lợi gì cả khi biến việc tranh chấp biển Ðông thành một cuộc chiến tranh toàn diện.
 
CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG
 
     Trung cộng , với dân số gần  3 tỷ người và nguồn lợi  khổng lồ như là trung tâm sản xuất hàng hóa cho cả thế giới, đã không dấu diếm ý định của họ để trở thành cường quốc số 1 tại Á Châu và trong tương lai , có thể cạnh tranh ngang ngữa với Hoa Kỳ.
  Trong nổ lực đó, Trung cộng  đã canh tân và phát triển quân lực của mình, nhất là Hải Quân, với tốc độ nhanh. Ngân sách quốc phòng năm 2008 của Trung cộng  khoảng 59 tỷ Ðô La nhưng thực tế có thể gấp 3, 4 lần. Chiến lược biển Ðông của Trung cộng  có thể tóm tắt trong 3 lãnh vực:
 
     Phát triển nhanh Hạm Ðội Nam Hải, nhất là lực lượng tàu ngầm để có thể đối đầu với Hải Quân Hoa Kỳ và các quốc gia trong vùng. Căn cứ hải quân Tam Á trên đảo Hải Nam là điểm xuất phát của hạm đội này. Chúng ta chưa lượng giá được nổ lực chế tạo Hàng Không Mẩu Hạm của Trung cộng .
 
 
Tàu ngầm loại 094 của Trung cộng
 
    Dùng áp lực kinh tế để ngăn cản không cho Hoa Kỳ, Anh Quốc, Ấn Ðộ và Nhật Bản hợp tác với Việt Nam trong việc khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam. Việc áp lực 3 công ty BP của Anh, ONGC của Ấn Ðộ và ExxonMobil của Hoa Kỳ trong thời gian vừa qua đã nói lên ý định của họ.
 
    Trung cộng  dùng chiến thuật xé lẻ, hăm dọa các quốc gia ASEAN để lấn chiếm khu vực Trường Sa. Cho đến bây giờ, Philippines là quốc gia đầu tiên tỏ thái độ cứng rắn với Trung cộng  dù hải quân của họ rất yếu.
 
CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
 
Trong bài viết này,  chúng tôi chỉ tập trung vào lảnh vực quân sự nhưng nhu cầu dân chủ hóa Việt Nam phải đi song song với sự phát triển kinh tế và quốc phòng. Một nước Việt Nam dân chủ, dù trong một giới hạn nào đó, sẽ là một đối trọng mà Trung cộng  phải quan tâm khi toàn dân Việt Nam chấp nhận hy sinh để bảo vệ sự sống còn của dân tộc mình.
 
Chính Trị & Kinh Tế & Ngoại Giao:
 
Việt Nam, trong lịch sử hơn 1000 năm chống xâm lược phương Bắc, luôn luôn ở vào thế yếu nhưng chưa bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù mạnh hơn gấp bội. Trong kế hoạch bảo vệ lãnh hải, Việt Nam nên  chú  trọng vào  những  lãnh  vực sau:
 
Cố gắng đạt được sự thỏa thuận với các quốc gia ASEAN về việc khai thác tài nguyên trong vùng Trường Sa theo một tỷ lệ hợp lý. Cố gắng này có thể áp dụng với cả Trung Quốc dù rằng Trung Quốc đang áp dụng chính sách đe dọa, chia cắt từng nước trong vùng để làm chậm trễ quá trình khai thác tài nguyên trong vùng.
 
Thỏa thuận hợp tác với Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nhật Bản, Ấn Ðộ để khai thác tài nguyên trong vùng thềm lục địa Việt Nam. Hoa Kỳ đã tỏ thái độ rõ ràng trong việc tôn trọng chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng như các công ước Quốc Tế.
 
Một giải pháp cuối cùng là  đưa vấn đề ra tòa án Quốc Tế  dù rằng trong nhiều khía cạnh Việt Nam không muốn làm như vậy. Trung cộng  chưa bao giờ đưa ra được bằng chứng vững chắc về chủ quyền của họ tại Hoàng Sa và Trường Sa nên rất khó chứng thực đòi hỏi của Trung cộng , kéo dài 2,000 cây số từ đảo Hải Nam về phía Nam, tiến tới cả vùng biển của Indonesia. Theo tiêu chuẩn quốc tế, đòi hỏi như thế là quá đáng. Việt Nam có nhiều lợi  thế để chứng tỏ chủ quyền của mình trong vùng này.
 
Quân Sự
 
Không nên so  sánh tương quan lực lượng giữa Trung cộng  và Việt Nam nhất là Hải Quân vì Trung cộng  phát triển Hải Quân của họ không những để đối đầu với Hoa Kỳ mà còn đến các nước có quyền lợi trong vùng Nhật Bản, Ấn Độ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Đài Loan. Việt Nam dù nhỏ nhưng là một tiền đồn  quan trọng trong nỗ lực ngăn chận Hải Quân Trung cộng  mở rộng khu vực hoạt động của họ. Việc phối hợp và nhận sự giúp đở của Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh là điều cần thiết vì Việt Nam là nước hứng chịu áp lực quân sự đầu tiên từ Trung cộng .
 
     Việc phát triển Hải Quân nên tập trung trong 4 lãnh vực: Phòng thủ cận duyên - Hệ thống phát giác  và chống tàu ngầm - Phòng thủ viễn duyên - Phòng thủ chiến lược.
 
1)      Phòng thủ cận duyên:
 
Phát triển hạm đội tàu đánh cá vũ trang. Các tàu này sẽ là đội quân tiên phong trong nhiệm vụ bảo vệ lãnh hải dù rằng phải hy sinh khi đối đầu với hải quân Trung cộng .
 
Phát triển hệ thống phòng thủ duyên hải với các hỏa tiễn địa đối hải tầm trung (200 km). Các hỏa tiễn này cũng có thể được trang bị trên các đảo do Việt Nam kiểm soát trong vùng Trường Sa. Việc nhờ các vệ tinh Hoa Kỳ để hướng dẫn các hỏa tiễn này cũng là điều đáng quan tâm.
 
Đóng các chiến hạm hạng trung từ 700 - 2,000 tấn dựa theo thiết kế của Nga trong việc đóng các chiến hạm thế hệ mới loại Molniya, Petya, Gepard.
 
2)      Hệ thống phát giác  và chống tàu ngầm:
 
Nhật Bản là nước có hệ thống phát giác  và chống tàu ngầm hữu  hiệu  nhất  thế  giới. Sự kiện Nhật Bản hạ thủy chiếc Hàng Không Mẫu Hạm hạng nhẹ chở trực thăng chống tàu ngầm loại Hyuga trọng tải 20,000 tấn vào năm 2007 cho thấy hoạt động chống tàu ngầm của Nhật Bản không chỉ giới hạn xung quanh hải phận Nhật Bản. 
  Việt Nam nên  nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và Nhật Bản để thiết lập hệ thống các phao định vị trong việc phát giác  các tàu ngầm Trung cộng  dọc theo bờ biển Việt Nam cũng như trong vùng biển Đông. Ngoài  ra, Việt  Nam cũng phải phát triển các phương tiện tấn công các tàu ngầm (chiến hạm săn tàu ngầm, phi cơ tầm xa, trực thăng).
 
 
Hàng Không Mẫu Hạm chở trực thăng chống tàu ngầm loại Hyuga của Nhật Bản
 
 
3)      Phòng thủ viễn duyên:
 
     Việt  Nam không  có  khả  năng  tuần tiểu viễn duyên một  mình. Trong tương lai, viễn tượng 1 hay 2 Hải Đoàn Đặc Nhiệm Hàng Không Mẫu Hạm với các chiến hạm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan tuần tiễu biển Đông chung với Việt Nam và các quốc gia ASEAN là  điều có thể hợp tác .
 
     Đại Hàn đang đóng các khu trục hạm trang bị hệ thống Aegis với sự chuyển  giao kỹ thuật từ hải quân Hoa Kỳ. Việt Nam nên thương lượng với Ðại Hàn để mua các khu trục hạm này. Cuộc viếng thăm Ðại Hàn của vị Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam trong thời  gian mới đây chắc cũng nhằm mục đích trên .
 
     Ngoài  ra, Philippines ở  gần  các đảo phía Ðông  Trường  Sa. Việt  Nam nên thương lượng  với Philippines để có những cuộc tuần tiễu hỗn hợp cũng như cho phép hải quân Việt Nam được dùng các căn cứ của Phi Luật Tân để sửa chữa và nghỉ ngơi khi cần thiết.
 
4)      Phòng thủ chiến lược:
 
     Hiện  nay, các quốc gia đồng minh trong vùng, từ  Nhật  Bản , Ðại  Hàn , Ðài  Loan, không  nhiều  thì  ít , đều  phát  triển  quốc  gia của  mình với  sự  bảo  vệ của chiếc dù  nguyên  tử  của  Hoa Kỳ  cũng như  tham gia hệ  thống phòng thủ hỏa tiên. Hoa Kỳ nên giúp cho Việt Nam có được một hệ thống phòng thủ như Hoa Kỳ đã và đang thiết lập tại Tây Âu, Ðông Âu cũng như Do Thái, Nhật Bản (bài viết của giáo sư Arthur Waldron có đề cập chi tiết hơn về vấn đề này).
 
     Hải cảng Cam Ranh, hiện nay vẫn còn trực thuộc bộ Quốc Phòng Việt Nam, nên được phát triển đúng tiềm năng để  biến thành một quân cảng và trung tâm sửa chữa tàu bè lớn nhất vùng Đông Nam Á. Các chiến hạm Đồng Minh có thể vào đây để nghỉ ngơi và sửa chữa.
 
 
 Hải cảng Cam Ranh
 
 
KẾT  LUẬN
 
     Dù rằng Việt Nam đã cố gắng hết sức trong việc cân bằng mối quan hệ của mình với Trung cộng  và Hoa Kỳ nhưng  Trung cộng  luôn luôn tỏ thái độ hiếu chiến và trịch thượng. Tờ Văn Hối báo, ra bằng tiếng Hoa ở Hong Kong trong thời gian gần đây đã đăng bài viết nói rằng Trung cộng  cần “giảng cho Việt Nam một bài về thế nào là đồng thuận.”
   Việt Nam không còn sự lựa chọn nào khác khi phải tìm một sự liên minh chiến lược với Hoa Kỳ và các đồng minh trong vùng cũng như tăng tốc độ dân chủ hóa Việt Nam để có được sự hậu thuẩn của toàn dân Việt Nam và đồng bào Việt Kiều hải ngoại.
 
 
 
__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)
Recent Activity:

No comments:

Post a Comment