THIẾU
TƯỚNG LÊ MINH ÐẢO VÀ SƯ ĐOÀN 18BB
Vào Những Ngày Cuối Tháng 4-1975
MƯỜNG GIANG
Buổi
sáng khánh thành tượng đài “ Nhớ Ơn
Chiến Sĩ VNCH “ tại phố Tiểu Sài Gòn, miền Nam California, Hoa Kỳ. Tại đây
,quanh quanh không có mộ chí trùng điệp như trong Nghĩa trang Quân Đội Biên
Hoà, cũng không hề thấy xác người hay quan tài trên nền cỏ uá nhưng không hẹn
mà sao mọi người tham dự hôm đó, đã khóc nức nở xen lẫn tiếng đọc kinh, niệm
Phật. Trong cái ánh nắng chói chang và luồng gió nồm nam hiu hiu trầm mặc, giữa
khoảng không gian tĩnh lặng buồn buồn này, bỗng dưng từ đâu không biết , xuất
hiện mấy cánh chim lạ nổi trôi nghiêng nghiêng trên nền trời xanh thẳm, như
muốn tìm một lối về. Nhiều người đã bảo nhau “ vong linh của chiến sĩ ta đó “. Tin hay không tin cũng được nhưng
có một sự thật, là sau mấy chục năm biển dâu trầm thống, từ đây hồn linh của
những chàng lính VNCH bị VC hèn mọn trả
thù, làm xiêu mồ lạc nấm tại quê nhà,nay đã có một chốn đi về và sự nhắc nhớ
trân trọng, biết ơn của muôn vạn trái tim Việt Nam hải ngoại.
Hỡi
ôi, tất cả rồi ra cũng chỉ là một kiếp người VN nhược tiểu, thắng hay thua đều
nổi trôi theo dòng định mệnh của vận nước, trong cái bể khổ ngập đầy máu lệ
chúng sinh, khó có ai thoát được và không ai biết được họa phúc vô thường. Buồn
như vậy, nên Tố Như đã viết :”
“
trải qua một cuộc bể dâu,
những
điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Nói
lên cái mông mênh cùng tận của trời đất và sự bé nhỏ tội nghiệp của kiếp người
trước thiên nhiên. Cho nên cũng đừng lạ gì hôm qua còn ngựa xe võng lọng nghênh
ngang, uy quyến tột đỉnh. Thế rồi chỉ qua đêm sau giấc ngủ, đã biến thành kẻ
tội đồ, có khi đầu rơi long lóc giữa chợ.
Các
bậc chính nhân quân tử xưa nay, thấu hiểu cái sự đời “ được làm vua, thua là giặc”, nên đã chọn cho mình một lối sống khác
đời, xem nhẹ lợi danh phù phiếm, dấn thân vào con đường an dân, cưú nước, bởi “
nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử” nên làm trai, làm người phải “ lưu thủ đan tâm
chiếu hãn thanh”. Ðây cũng là một quan niệm sống của thanh niên nam nữ VN thời
tao loạn, lúc quốc gia nguy biến nhất là trong giai đoạn 1955-1975, cọng sản
quốc tế quyết tâm nhuộm đỏ toàn cõi Lạc Hồng.
Noi
theo chí cả hùng anh trong dòng sử Việt, một số tướng lãnh và các chiến sĩ anh
hùng như các tướng Phạm văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần văn Hai, Nguyễn Khoa Nam,
Lê văn Hưng.. không để sa cơ vào tay giặc, đã quyên sinh làm rạng danh Người
Việt, Nước Việt. Một số không nhỏ may mắn di tản được ra ngoại quốc. Phần lớn
QLVNCH còn lại, hiểu thấu những quy luật chính trị trong Sử Việt, đã chấp nhận
sống tạm để trả thù. Mấy chục năm qua
trong cái thiên đường xã nghĩa đói rách lầm than, dân bình thường còn không đủ
cơm ăn áo mặc, người còn hãm hại người để tranh sống thì trong cái địa ngục
trần gian, nơi mà : “ kêu trời trời không thấu, kêu đất đất không hay,kêu ông
giám thị.. thì ông giám thị ngủ say..”, khiến ta phải nghiêng mình ngưỡng mộ trước
những mảnh gương tiết nghĩa chói rang trong chốn ngục tù.
Mấy
chục năm qua đã có không biết bao nhiêu anh hùng VNCH bỏ thây trên đất Bắc, số
còn lại rốt cục cũng trở lại được Nam phương và tiếp tục cuộc sống không nhà
không nước khắp chân trời góc bể. Ngoại trừ một số không đáng kể, đếm được trên
mười đầu ngón tay, tuy nay vẫn sống nhưng họ bị tập thể xem như đã chết hẳn tại
ngục tù cọng sản, vì hèn nhát, ham sống sợ chết, bán đứng đồng đội cho giặc Hồ.
Còn tuyệt đại anh hùng QLVNCH xứng đáng để chúng ta vinh danh.
Hồ sĩ Khuê trong tác phẩm “ HCM,NDD và MTGP”
cũng viết :” dân miền Nam đã nói đến tướng tự thất thủ.. Họ sống vì nước chết
vì nước như tướng Nguyễn khoa Nam.. Thua thì chấp nhận số phận đầy đoạ như tướng
Lê Minh Ðảo, họ không chạy hạy đi đâu ( trang 399, dòng 8-12). Nhưng có lẽ thắm
thiết và có ý nghĩa nhất là bài thơ “ Những
cột trụ chống giữ Phương Nam “ đăng
trong KBC 14, của nhà văn Quân Ðội nổi tiếng cũng là Ðại Uý Nhảy Dù/QLVNCH Phan
Nhật Nam,một người tù kiệt xuất , đã viết tặng 4 vị Tướng lãnh VNCH bi tù lâu
nhất : Mười bảy Năm “.Ðó là các tướng Ðổ kế Giai , Lê văn Thân, Trần Bá Di và
Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo.
Trong
4 vị trên, tướng Ðảo là tư lệnh SD18BB cũng là Tư Lệnh chiến trường Xuân Lộc
vào tháng 4/1975, đã cùng với quân dân Miền Nam, tạo một chiến thắng lừng lẫy
trong dòng sử Việt, qua cuộc chiến chống xâm lăng cọng sản.
1-Thiếu
Tướng Lê Minh Đảo và SĐ18BB:
Sau
khi hiệp định Ba Lê được ký kết vào tháng 1-1973, cũng là lúc VNCH coi như đã bước
vào tử lộ vì bộ đội Hà Nội được Mỹ cho phép công khai ở lại Miền Nam. Ba mươi năm
chinh chiến, tất cả gian khổ hiểm nguy đều vượt qua được , không ngờ phút cuối
lại bị sụp đổ oan nghiệt trong thời gian ngắn ngủi 55 ngày. Thảm trạng trên chỉ
là kết cuộc tất yếu của một quân lực luôn luôn trực diện với thù trong giặc
ngoài. Tại chiến trường, lợi dụng cái vô duyên bất xứng của đám “ bốn bên bốn bè” và tai ngơ mắt nhắm
của Hoa Kỳ nên Hà Nội ngang nhiên tha hồ chuyển quân, vũ khí qua đường bộ dường
biển, để tấn công QLVNCH trên khắp bốn vùng chiến thuật, dành dân, chiếm đất và
khủng bố dân lành.
Tại
hậu phương an bình, người dân thờ ơ đứng bên lề cuộc chiến, coi cái sự ngăn
chận chống VC là chuyện của Lính. Tệ hơn là lúc đất nước sắp mất vào tay giặc thù,lại
có một ít trí thức miền Nam quen hoang tưởng, sống no cơm ấm cật, bị bọn thân
cộng VC nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Kiên Giang Hà Huy Hà, Phong Ðạm.. trên
các báo đảng Tin Ðiển, Tia Sáng, Thần Chung,Ðối Diện.. dựa vào Luật Uỷ Quyền
của Quốc Hội, cho phép TT.Nguyễn văn Thiệu được quyết định cơ mật quốc gia
trong thời chiến cũng như sắc lệnh 007/SLU/TT về báo chí, để xuí giục các ký
giả xuống đường vào ngày 10-10-1974 tại Sài Gòn, đòi tự do, quyền lợi như các nước
Aạu Mỹ tiền tiến và đang sống hoà bình. Nhưng nhức nhối nhất vẫn là viện trợ Mỹ,
lúc đó đang trở thành chiếc thòng lọng siết cổ VNCH. Trên trường quốc té, bọn
nhà báo da trắng bất lương, vô liêm sỉ nhất là báo chí truyền thông Hoa kỳ như
Morley Saper, David Halbertan, Water Cronkite.. loan tin bừa bãi, uốn cong ngòi
bút , a dua xu thời, thân cộng, kết bè với cái gọi là thành phần thứ ba, hầu
hết trốn quân dịch hay thuộc thành phần trí thức mạt vận, phá nát hậu phương
miền Nam.
Trong
suốt chiều dài lịch sử Hồng Lạc, chưa bao giờ người Việt phải đau xót về cái
thân phận nhược tiểu của dân tộc mình. Tại miền bắc, VC chỉ là một tên đánh
thuê cho khối XHCN, trong lúc đó miền nam cũng thảm thê không kém. Chính nghĩa
dân tộc đã bi Hoa Kỳ đánh lạc hướng, để có lý do coi VNCH như một thuộc địa.
Bởi vậy người Mỹ đã độc đoán , tự mình quyết định vận mệnh của nước khác, theo
chính sách chỉ có lợi cho Mỹ mà thôi. Dùng quân viện để hù dọa và trói tay
QLVNCH, cuối cùng thì bán đứng cho VC để đổi lấy thị trường Trung Cộng, vừa làm
giàu vừa có đồng minh tiêu diệt Liên Xô. Ngày 25/5/1974, Hạ viện Hoa Kỳ bác bỏ
ngân sách quân viện VNCH tài khóa 1975 dự định là 1 tỷ, 400 triệu đô la. Số
tiền này sau đó được biểu quyết , có hiệu lực sau ngày 1/7/1974, chỉ còn 700
triệu đô la,trong số này có 300 triệu trả lương cho người Mỹ đang phục vũ tại
VN. Ngoài ra cũng hủy bỏ lời giao kết 1 đổi 1, trong việc thay thế quân trang
dụng cho QLVNCH, trong lúc đó gia xăng dầu lại tăng, nên cuối cùng quân viện
của miền nam từ 1 tỷ 700 triệu đô, kể từ tháng 7-1974 chỉ còn 300 triệu.
Ngày
9-8-1974, Tổng Thống Nixon từ chức vì vụ Watergate, kéo theo xuống mồ những
giao kết với Tổng Thống Thiệu. Ford lên thế chức nhưng không có uy tín vì không
phải là tổng thống dân cử, nên cũng đành khoanh tay bất lực , đứng nhìn cái
quốc hội do bon dân cử đảng dân chủ thân cộng, tác quái giết chết VNCH. Ngày
18-12-1974, Hà Nội nhận quân viện của Liên Xô, bắt đầu tổng tấn cống chiếm miền
Nam theo lệnh quan thầy. Cũng từ đó, máu bắt đầu chảy khắp chiến trường, mở màn
Phước Long thất thủ ngày 2-1-1975, kế tiếp Ban Mê Thuột ngày 10-3-1975, dẫn tới
hai cuộc lui quân của QD2 và QD1 trong những ngày đầu tháng 4/1975, kéo theo sự
sụp đổ toàn diện của Vùng 1 và 2 chiến thuật, mà tỉnh cuối cùng thất thủ là
Phan Thiết vào ngày 19-4-1975.
Nhưng
tất cả các lộ quân của VC đã bị chận đứng và đánh tan tành tại mặt trận Long
Khánh và trong thị xã Xuân Lộc, từ ngày 9-4-1975 bởi Sư đoàn 18BB và các đơn vị
tăng phái , do Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy.
Theo
tài liệu từ Chiến Sử QLVNCH của Phạm Phong Dinh , Chiến Tranh VN toàn tập của
Nguyễn Ðức Phương , cũng như nhiều sách báo khác, thì ông Lê Minh Ðảo sinh năm
1933 tại Sài Gòn, khóa 10 trường VB/QGDL. Trong cuộc đồi binh nghiệp, ông đã
giữ nhiều chức vụ quan trọng như Huấn luyện viên, Trung tâm trường hành quân
QD4,Tỉnh Trưởng Long An, Chương Thiện, Ðịnh Tường. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, cố
vấn trưởng QD2 Vann, đã đề nghi Trung Tướng Ngô Du, chấp thuận cho ông và Ðại
Tá Lý tòng Bá giữ chức tư lệnh SD22 và 23 BB nhưng tướng Du chỉ chấp nhận Ðại
Tá Bá làm tư lệnh SD23BB thế chuẩn tướng Võ văn Cảnh tuổi tác hơi lón. Riêng
SD22BB, Tư lệnh phó lúc đó là Ðại Tá Lê Ðức Ðạt, một sĩ quan kỵ binh trẻ và tài
giỏi, nên có thể thay chuẩn tướng Triển tuổi già. Cũng vì vậy, tháng 3-1972,
Tổng Thống Thiệu đã cử Ðại Tá Ðảo, giữ chức Tư lệnh SD18BB, kiêm Tư lệnh khu 31
chiến thuật, thuộc Quân khu 3. Ông vinh thăng Chuẩn tướng ngày 1-11-1972 và
Thiếu Tướng ngày 23-4-1975, được ân thưởng 48 huy chương đủ loại, trong đó có
các huy chương cao quý như Bảo quốc huân chương đệ ngũ đẳng, đệ tứ đảng và đệ
tam đẳng cùng nhiều huy chương của chính phủ Hoa Kỳ như Silver star, Bronze
star.. Hai cái lon Chuẩn và Thiếu tướng được đổi bằng máu tại An Lộc trời long đất
lở năm 1972 và Xuân Lộc địa ngục A Tỳ vào những ngày cuối tháng tư đen máu lệ
1975.
Sư
đoàn 18 BB được thành lập từ tháng 10/1965 tai Xuân Lộc, với danh xưng đầu tiên
là SD10BB, do tướng Lữ Lan làm tư lệnh với 3 Trung đoàn bộ binh biệt lập là
TrD43, 48 và 52, đều là những đơn vị kỳ cựu thiện chiến của QLVNCH, có trước
ngày chia đôi đất nước 1954. Năm 1966, SD10BB đổi danh hiệu là SD18BB và trải
qua các cấp tư lệnh như tướng Nguyễn văn Mạnh, Ðổ kế Giai, Lâm Quang Thơ cuối
cùng là tướng Lê Minh Ðảo. Trước đây, sư đoàn sở dĩ bị xếp cuối sổ phong trần,
không phải vì các vị tư lệnh hay quân nhân các cấp không chịu đánh giặc, mà vì
hầu như các đơn vị của sư đoàn luôn bị cắt xén, biệt phái hành quân hết tỉnh
này đến vùng khác.. khiến quân sĩ mỏi mệt chán nản, vì vậy lúc nào cũng mang ấn
tượng , mình là đơn vị bị trừng giới lưu đầy.
Ai
đã từng sống trong các đơn vị bị biệt phái mới biết những thiệt thòi. TD 1/43BB
được coi như một đơn vị trừng giới, đã bị Khu Chiến Thuật biệt phái khắp vùng ,
từ Di Linh tới Phan Thiết, Bình Tuy, Long Khánh,Bình Dương, Tây Ninh, Hậu Nghĩa
và tháng 5/1965 mới được trở về với mặt trời, khi toàn bộ Trung Ðoàn 43 biệt
lập, lúc đó do Thiếu Tá Nguyễn Dương Huy làm Trung ĐoànTrưởng, trách nhiệm Củ
Chi và tỉnh Hậu Nghĩa.
Tháng
3-1972, Ðại Tá Ðảo về làm tư lệnh thế tướng Lâm quang Thơ, SD 18 BB lúc đó ,
thật sự chỉ còn 1 TDBB của TrD48, 1 DD trinh sát của TrD48 và DD18 Trinh sát.
Còn Trung Ðoàn 48BB thì biệt phái TK.Bình Tuy, TrD43 biệt Phái Tây Ninh, Hậu
Nghĩa, TrD52 đang biệt phái SD5BB trong An Lộc. Thế nhưng nhờ biết vận dụng
chiến lược và khai thác khả năng chiến đấu của DPQ-NQ diện địa, SD 18BB trừ, đã
bình định xong Long Khánh và Phước Tuy. Tháng 6-1972, SD18BB vào An Lộc thay
thế SD5BB của Tướng Lê văn Hưng, rút về Bình Dương dưỡng quân. Nhờ vậy Quân
Ðoàn 3 đã trả lại các TrD43,48 và TrD52 cho SD18BB, Trong An Lộc lúc đó , còn
có LD5BDQ của Trung Tá Ngô Minh Hồng tăng phái. SD18BB đã cùng LD5BDQ chiếm lại
lãnh thổ đã mất, khai thông QL13 như trước.
Cũng
kể từ đó, những người lính thần nỏ vùng đất đỏ Xuân Lộc, như cá gặp nước, rồng
thấy mây, tung hoành khắp khu 31 chiến thuật, từ Bình Long, Dầu Tiếng, Bời
Lời,Hố Bò,Tây Ninh, Ðức Huệ, cho tới Ðất Ðỏ, Mây Tào, Võ Xu, Ðịnh Quán, gót
chân người lính 18BB, vừa súng, vừa thơ, tay đàn, tay kiếm, ngang dọc một trời,
mang lại an bình và niềm vui cho cả vùng chiến thuật.
“
Ðêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết,
như
một vành trăng trắng đất trời
chân
theo quân rút hồn ta ở
nghe
nước La Ngà cuồn cuộn trôi..”
(Nguyễn
Phúc Sông Hương,TrgD48/SD18BB),
. Danh hiệu 18 đã được hồi phục, gắn
liền cùng tên tuổi những sĩ quan tài danh trẻ tuổi của QLVNCH từ Trung đoàn,
tiểu đoàn, thiết giáp, pháo binh.. cũng như tên tuổi Chuẩn tướng tư lệnh Lê
Minh Ðảo.
Tại
mặt trận Xuân Lộc, nhờ tinh thần quyết chiến của quân nhân các cấp, lại được
chuẩn bị chu đáo chờ giặc. Tất cả gia đình binh sĩ kể cả bệnh viện đều được di
chuyển về Biên Hòa, nên không làm vướng bận tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Về
chiến lược, trước khi cuộc chiến xảy ra, quân ta đã chiếm lĩnh những cao điểm
do giặc đóng từ trước, đem pháo binh bố trí tại các điểm cao và quan trong, bí
mật tránh phản pháo. Trong thành phố Xuân Lộc, chỉ có DD18 trinh sát và TD1 và
3/43 phòng thủ trong các công sự chắc chắn, kiên cố. Còn lại các đơn vị hùng
hậu như Thiết Ðoàn 5 của Trung Tá Nô và Trung Ðoàn 48 của Trung Tá Công thì nằm
ở ngoài, nội ngoại đồng loạt tấn cộng địch khi chúng lọt vòng vây, nên đã giữ được
phòng tuyến trong những ngày đầu, trước khi Lữ Ðoàn Dù tăng phái.
Ngoài ra SD3KQ ở Biên Hoà đã hợp đồng với pháo
binh , oanh kích, xạ kích vào các vị trí giặc chính xác như trên xa bàn, khiến
VC không biết đâu mà mò. Chiến đoàn 52 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng vì phải trải dài
vị trí chiến đấu từ Túc Trưng về tới Ngã Ba Dầu Giây, lại gặp toàn là đồng bằng
và phải đối chọi với một lực lượng gáp 10 lần, nhưng ta đã giữ vững được vị trí
từ ngày 10-15/4/1975, nhất là tại Ðồi Móng Ngựa. Cuối Cùng Chiến Ðoàn 52, tuy
bị hao hụt quân số nhưng cũng rút được về Biên Hoà. Kết quả sau nhiều ngày tử
chiến, từ 8 đến 20-4, SD18BB,Lữ Ðoàn 1Dù của Ðại Tá Nguyễn văn Ðỉnh,,
BDQ,LLDB,Pháo Binh,DPQ-NQ, SD3,4KQ.. đã giữ vững được Xuân Lộc-Long Khánh,chận đứng
cuộc tiến quân của Bắc Việt từ cao nguyên đổ xuống và miền Trung vào, hơn 8000
bộ đội bỏ xác tại chỗ, 37 chiến xa T54 bị phá huỷ bởi các loại bom CBỤ55 và 4
trái tiểu nguyên tử “ Daisy cutter” nhưng trên hết là dạy cho quân xâm lăng một
bài học để đời trong dòng chiến sử Việt.
Sau ngày 20-4-1975, Long Khánh không còn là vị
trí chiến lược, vì các Lộ quân Bắc Việt không thể đương đầu nổi với các cánh
quân tại đây cũng như bức tường thép của Lực Lưọng 3 Xung Kích cuả Chuẩn tướng
Trần quang Khôi và Trung Ðoàn 8/SD5BB, nên Lê Duẩn đã ra lịnh , tìm đường khác
về Sài Gòn. Vì vậy QD3 ra lệnh rút quân về bảo vệ Biên Hòa. Trong những ngày
cuối cùng của trận chiến, ta có hai cuộc lui quân thành công, một do TK/Bình
Thuận rút bằng bằng đường biển tại bến tàu Kim Hải sáng 19-4-1975 về Vũng Tàu.
Cuộc rút quân thứ hai của SD18BB và các Dơn vị
tăng phái Xuân Lộc cũng như TK.Long Khánh do Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy , trên
Lien tỉnh lộ 2 , Tân Phong-Bà Rịa vào đêm 20-4-1975. Nhờ có tổ chức, có tư lệnh
chiến trường là tướng Lê Minh Ðảo cùng đi bộ với binh sĩ, nên cánh quân của Ðại
Tá Hứa Yến Lến,TMT/SD18 đả bảo vệ được nguyên vẹn cơ giới, kể cả hai khẩu đại
bác 175 gắn trên xe xích. Cuộc lui quân an toàn ngoài sự thiệt hại nhỏ của cánh
quân Dù và TK/LK bị phục kích. Ðại Tá Tỉnh trưởng Phạm văn Phúc bị bắt và chịu
cảnh tù tội đọa đày tận ngoài bắc suốt 13 năm. Trong cuộc lui quân, TD2/43 của
Thiếu Tá Chế vì đóng quân trên Núi Thị,
nên giờ chót phải thay đổi lộ trình.. nhưng cuối cùng cũng tự hành quân rút được
về Long Thành, sau ba ngày chiến đấu trong biển giặc.
Tóm
lại cuộc chiến thắng tại Xuân Lộc đã cho thế giới biết rõ là quân dân miền Nam
rất muốn chiến đấu để chiến thắng giặc Cộng xâm lăng, nhưng họ đã nhiều lần
phải bỏ lỡ cơ hội chiến thắng, bởi đồng minh Hoa Kỳ và chính đồng bào mình tìm đủ
mọi cách ngăn cản, phá hoại làm hỏng lý tưởng và cuộc chiến thắng sau cùng.
Theo ký giả chiến trường Nguyễn Tuyến, làm việc tại Ðài phát thanh Sài Gòn, người
đã nhảy vào thị xã Xuân Lộc đang trong cơn bão lửa, theo sát DD18 trinh sát,
sau đó cùng với cánh quân dù suốt đọan đường lui quân từ Tân Phong về Bà Rịa, đã
trực tiếp phỏng vấn Tướng Ðảo khi ông ngồi nghĩ tại cánh rừng cao su , viết
rằng :” ông Tướng rất tự tin, không hề
giận dữ hay tỏ vẻ sợ hãi khi điều quân.”.
Rồi
ngày Quốc hận đã tới, bấy giờ ngoài
Trung Ðoàn 43BB vẫn cón ngăn cố thủ tại Trảng Bom, tất cả Sư Ðoàn đều đóng
quanh quẩn gần Long Bình. Chiều 29-4-1975, BTL Sư đoàn 18 mất liên lạc với
BTL/QD3 làm xao động các cấp chỉ huy nhưng Thiếu Tướng Ðảo vẫn còn bình tĩnh
phối trí các đơn vị dưới quyến, cho tới lúc đó vẫn chưa có ai bỏ ngũ. Trung
Ðoàn 43 vẫn giữ Trảng Bom, TrD52 giữ Tam Hiệp và Tân Mai, TrD48 cùng BCH giữ
Tổng kho Long Bình và các yếu điểm lân cận trong đêm. Lúc này Tướng Ðảo có trực thăng và đầy đủ phương tiện. Quan lớn quan
nhỏ kể cả linh tráng cũng có phương tiện và điều kiện, nếu có ý định chạy, vì căn
cứ Hải Quân Cát Lái rất gần, đường bộ đường
thủy còn thông.
Nhưng
tất cả không ai có ý định chạy, kể cả những lúc mạng sống mỏng manh trong biển
máu An Lộc, Xuân Lộc. 8 giờ tối cùng đêm,
Tướng Ðảo nhận điện thoại của Trung Tướng Vĩnh Lộc, lúc đó Q.Tổng TMT/QLVNCH
của Dương văn Minh, với lệnh đem toàn bộ SD18BB,phòng thủ bên này sông Ðồng Nai (mé Sài Gòn) và căn dặn phải giữ vững vị trí
trong vòng 3 ngày, để chờ phép lạ đưa chim bồ câu trắng tới ban hòa bình trong
biển lửa. Do lệnh trên, Tướng Ðảo đã bố trí Pháo Binh SD tại Nghĩa Trang
Biên Hòa cho tiện yểm trợ Biên Hòa lẫn Long Bình đồng thời, ngay trong đêm ra
lệnh cho TD18 Tiếp Vận cùng các Ðơn Vị Yểm Trợ di chuyển ngay về Biệt Khu Thủ
Ðô,để sẵn sàng xuống Vùng 4 Chiến Thuật tiếp tục chiến đấu, nếu Sài Gòn thất
thủ. Lúc đó trong thâm tâm ông cùng các cấp chỉ huy SD đều tin tưởng V4CT có
các SD7,9,21, Thiết Kỵ, BDQ,Pháo Binh và nhất là các Liên Ðoàn DPQ, các Liên
Ðội NQ thiện chiến dũng cảm, nồng nàn yêu nước, giống như các cấp tướng lãnh
Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai.. thì QLVNCH có thể cố thủ cầm cự
vài tháng chờ quân viện.
Sáng ngày 30-4-1975, SD18BB chuyển quân
nhưng không thể giật sập cầu xa lộ. Gân trưa, khi đoàn quân tới Cầu Sơn, thì
dài phát thanh qua giọng Nguyễn hữu Hanh kêu gọi QLVNCH, tuân hành lệnh của
Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh buông súng đầu hàng VC. Tin trên khiến cho lính tráng
khóc lóc, nhiều người đập gãy súng hay bắn điên cuồng vào VC, khiến nhiều kẻ thương
vong. Lúc bấy giờ theo ông còn 1 Trung Ðội nhưng Tướng Ðảo cho mọi người tan
hàng, riêng ông về nhà của Mẹ thay đồ rồi trốn xuống V4, nhưng tại đây đại cuộc
đã định khi Dương văn Minh đầu hàng giặc. Các Tướng Nam, Hưng, Hai vì thi hành
kỷ luật quân đội đã tự sát làm rạng danh kỷ cương của một quân đội nhân bản, vì
tổ quốc, danh dự, trách nhiệm. Ông trở lại Sài Gòn ngày 9-5-1975, ra trình diện
và lãnh án mười bảy năm tù.
2-Ngày
Quốc Hận 30-4-1975.:
Giờ
cuối cùng bổng tới như trời sập nhưng vẫn còn một số lớn đơn vị Dù,
TQLC,BDQ,LLDB.. bất tuân lệnh của Dương văn Minh, chận đánh VC khắp các ngả đường
dẫn tới Dinh Ðộc Lập, nơi Tổng Thống và Chính Phủ hai ngày đang chờ đầu hàng.
Theo Nguyễn khắc Ngữ trong NGCCCVNCH, nơi trang 385, ghi lại những cái hèn của đám
xôi thịt , trước bọn cán binh vào ngày 2-5-1975 như sau :” Minh nói là công dân một nước VN, đất nước được GIẢI PHÓNG, tôi rất vui
mừng. Huyền nói tôi vui mừng khi thấy DÂN TỘC được giải phóng. Riêng tên Nguyễn
văn Hảo, kẻ đem 18 tấn vàng của Ngân Hàng QGVN dâng cho Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ,
nói tôi nghỉ đây là một ngày LICH SỬ, Hảo hiện ở TX, Hoa Kỳ..
”
Sài Gòn đã chết lúc 12 giờ 30, dân chúng hờ hững nhìn chủ mới và những con khỉ
người sút chuồng , quàng khăn đỏ, tay cầm cờ máu, võ trang súng đạn lượm được
của lính quăng khắp đường, cỡi xe Jeep, la ó muá rối khắp thành phố. Ðồng lúc
có 125 nhà báo Tây Phương cũng chen lấn đi xem Bộ Ðội Giải Phóng Miền Nam, mà
bấy lâu nay họ hết lòng ca tụng , chỉ vì có thành kiến với QLVNCH, nhờ vậy phe
ta mới té ngửa ra khi xác nhận tất cả đều là BỘ ÐỘi BẮC VIỆT. Trên tờ Los Angles times, ký giả Norman
Pohrets nói Nam VN mất không do bất mãn nội bộ mà là sự xâm lăng của Bắc Việt.
Một nữ ký giả Pháp Brigitte Friang mai mỉa rằng trưa 30-4-1975, xe tăng cọng
sản vào Sài Gòn, thành phố đã chết, chỉ có lũ con nít và 125 nhà báo.
Giặc
cướp gọi ta là ngụy thì có chi là lạ nhưng nỗi đau nhức nhối trong đời trai
kiếp lính của những thanh niên thời đại, là bị Dương văn Minh cùng đám phản tặc
VNCH bán đứng để chúng đổi chút hư danh. Cuối cùng còn nước thì còn tất cả, mất
vào tay cọng sản rồi ai cũng trở thành cánh lục bình trôi giạt muôn phương..
cũng may tuyệt đại dân chúng miền Nam sau giấc trầm kha máu lệ, đã nhận diện rõ
những bộ mắt khả ái trong chốn tam quân và gọi đích danh Hà Nội mới chính là
những tên lính tiền phong đánh thuê cho Nga,Tàu, Xã Hội Chủ Nghĩa.
Ba
mươi tám năm qua, người Việt thông thái có biết có không, có đi lính hay suốt đời
mang áo cạo đầu trốn lính, đã thi nhau múa bút viết hồi ký và lịch sử chiến
tranh VN dựa vào núi tài liệu trong các thư viện mà đa số là của ngoại quốc và
VC. Thời chiến VNCH làm gì có nhà văn nhà báo, nhà trí thức viết những dòng
khen lính nhưng chuyện Tướng Nguyễn Ngọc Loan can đảm phi thường, đã bắn chết
tên Bảy Lốp tại ngã ba vườn Lài. Ðây là một tên VC khát máu và ác ôn nhất trong
trận Mậu Thân tại Sài Gòn. Chuyện bắn VC giết hại dân lành trên bị tên ký giả
Eddie Adams chụp hình và phóng ảnh khắp thế giới. Thế là báo ta, báo giặc hùa
với hệ thống truyền thông thân cộng và đám phản chiến Hoa Kỳ làm lớn chuyện mà
vô duyên nhất là hai tên dân biểu đảng dân chủ Mỹ lúc đó là mụ Elizabeth
Holtzman và chàng Harold Sawyer nộp đơn kiện giùm Bảy Lốp và đòi Hoa Kỳ trục
xuất Tướng Loan năm1976 nhưng vô hiệu.
Cũng
may trong cái núi rác sách báo này , tìm
mãi chẳng thấy một trang nào viết về VNCH
bán Cam Ranh hay đất đai cho Mỹ, cũng chẳng có ai nói các tướng lãnh VNCH bị tù
ngoài Bắc, đầu hàng hay làm nhục quân đội
vì sợ chết, sợ đói hay hám danh bị dụ dỗ. Những nhà viết sử chỉ mai mỉa cái
đám Từ Hải tân thời ngơ ngơ ngáo ngáo,ông ông con con trước Nam Long, Công
Trang, Bùi Tín và cái đám bộ đội mén thuộc lữ đoàn thiết giáp 203 Bắc Việt là
Bùi văn Tùng, làm mất hết thể thống của con người đã một thời làm trùm cả nước.
Tất cả cũng là ý trời, Sài Gòn tự thất thủ nên quần chúng không tổng khởi
nghĩa, bởi vậy quân Hồ không còn lý do gì để tàn sát và tắm máu miền Nam như đệ
tử ruột của Hồ Chí Minh là Polpot đã làm tại xứ chùa Tháp.
Hơn
nửa theo dự đoán của văn hào Nga lưu vong Soljenitsyne, nếu ra tay khủng bố
trắng trợn, chưa chắc tập thể QLVNCH chịu bó tay chờ chết, nên đảng ta bèn giã ơn
nhân đạo, chỉ TẬP TRUNG HỌC TẬP CẢI TẠO rồi về. Biết trước sự tàn ác của bọn
thắng trận chiếm đóng qua dòng Việt sử , nên người miền Nam nô lệ, giả bộ vồn
vã miễn cưỡng giao tiếp vơí giặc bắc, nhận chúng là đồng bào, cũng như thái độ
giả ngộ hăng say ghi danh học tập của quân công cán cảnh. Tất cả chỉ vì thời
thế phải thế thời, nên ai cũng nén nhục giữ mạng, chờ ngày theo gót Hưng Ðạo,
Lê Lợi, Quang Trung .. đánh đuổi giặc Hồ quang phục đất nước.
Nay thì cả nước VN chẳng riêng gì lính,trừ ai
may mắn chạy kịp, đều ít nhiều nếm mùi cải tạo ,tẩy não, nhồi sọ con người. Nói
chung mục đích của cọng sản Hà Nội bắt VNCH học tập là để hăm dọa trấn áp người
dân bình thường, hạ nhục trả thù người lính. Học tập quần chúng khác cải tạo
trí thức, cho nên cùng là cải tạo, tướng lãnh khác cấp tá, uý.. Bởi vậy đừng
lấy ta suy bụng người, vì trong cái thiên đường xã nghĩa và chốn bụi hồng ,
thấy vậy mà không phải vậy, cay đắng và tủi nhục hằng hằng bao chục năm chưa đủ
sao hỡi trời ? Hơn nữa với bản chất bạo ngược, nói láo và bêu xấu những thần tượng
của VNCH đã và đang được quần chúng trong ngoài nước kính trọng, thì cái chuyện
vu vơ chê ghét nay còn mấy ai tin, sau khi đã biết qua những hình ảnh khủng
khiếp của tù nhân khi đọc Goulas mà văn hào Soljenitsyne diễn tả.
Máu
bắt đầu đổ lại từ những ngày hoan lạc, hoà bình tháng 5-1975,không biết Dương văn
Minh có trình diện VC hay không nhưng tại trụ sở Hạ Nghị Viện đường Tư Do, Lý
Quý Chung qua cái gọi là Tổng Trưởng thông tin 2 ngày đến trình diện đầu tiên.
Sáng đó y mặc đồ lớn có mang súng lục và đã để lộ bộ mặt vô liêm sỉ cùng tận
khi bị tên VC trong cái Uy Ban quân quản Sài Gòn chất vấn, sợ đến nỗi phải vấp
té trên sàn nhà trước đông đủ các phóng viên ngoại quốc (NNCCVNCH của Nguyễn
khắc Ngữ, trang 386).
Riêng
tướng lãnh và cấp Tá VNCH ngày 8-5-1975 trình diện tại Viện Dự Bị Ðại Học Sài
Gòn số 91 Trần Hoàng Quân. Ngoại trừ tướng Nguyễn văn Vỹ bị bệnh nặng, tất cả
bị giữ lại để học tập đợt 1 tại Ðại Học Xá Minh Mạng, Chợ Lớn. Sau đó 27 tướng
ra trình diện và tướng Lý Tòng Bá bị bắt tại Củ Chi được giam chung tại TTHL
Quang Trung. Cũng tại đây còn có đông đảo sĩ quan các cấp. Rồi thì các tướng được
đưa ra Bắc bằng máy bay , các cấp còn lại đi tàu thủy,xe lửa nhưng dù đi bằng
phương tiện gì, thì cũng gặp nhau tại các tầng địa ngục trần gian ở thượng du
Bắc Việt : Yên Bái,Lào Cai, Hà Giang, Hà Tây, Nam Hà,Thanh Nghệ.
Những
người quen sống ngoài đời nên chưa biết những gì thật sự có trong nhà tù, nhất
là nhà tù cọng sản. Ðây là một xã hội thu hẹp,chung quanh là rào gai mìn bẩy,
họng súng và cái tâm địa lang sói của bọn cai tù. Ðây cũng là một trường học để
chung quanh lột trần muôn mặt, hoặc tự ta nhưng phần lớn đều do cọng sản gài đặt.
May mắn thay trong cái thế giới ti tiện, bẩn thỉu, ngoài một số ít không chịu
nổi đã chết vì cúi đầu. Tuyệt đại tù nhân VNCH đã ưỡn ngực bước ra địa ngục, họ
không hề bị cải tạo, tẩy não nhưng họ học được trong chốn lao tù sự chịu đựng để
coi thương tủi nhục, cay đắng và tình thường đồng đội đồng bào.
Ðâu
có ai ngu để ở tù trừ khi vạn bất đắc dĩ. Bởi thế tù ngục không bao giờ là nơi để
khoe thành tích rồi vu cáo cho kẻ khác là thua mình, là đầu hàng giặc trong khi
mình chưa chắc có ở tù hay không. Các vị tướng lãnh VNCH trong đó có tướng Lê
Minh Ðảo và gần hết quân công các cấp VNCH đã làm hết nhiệm vụ đời trai, nghiệp
lính. Họ là trí thức, sĩ phu, là anh hùng trong lòng dân tộc đáng kính trọng và
thương quý, cho nên ta cũng đừng đòi hỏi gì hơn, bởi ho đã làm hết sức mình
rồi.
Thật
thắm thía biết bao qua lời tâm tình của tướng Lê Minh Ðảo tại Nam CA, trong lần
hội ngộ đầu tiên với các quân nhân củ của SD18BB sau cuộc bể dâu. Ông nói “ nếu
có kiếp sau, chỉ xin được tiếp tục làm người lính VNCH “.-/
-
TÀI
LIỆU THAM KHẢO :
-Những ngày cuối cùng của VNCH-Nguyễn
khắc Ngữ
-25 năm khói lửa-Lý Tòng Bá
-Hồ Chí Minh, Ngô Ðình Diệm-Hồ Sĩ Khuê
-Lê Minh Ðảo-Nguyễn Tuyên
-Lê Minh Ðảo-KBC Hải Ngoại
-VN qua lăng kính 24 nhan vật-Nguyễn vạn
Hùng
-Chiến Tranh VN toàn tập-Nguyễn Ðức Phương
-Chiến Sử QLVNCH-Phạm Phong Dinh
-Phỏng vấn cựu Tướng Đảo tháng 6-2010
tại Honolulu (Mường Giang &Cao Khắc Tiếp)
-Lui quân của Nguyễn Hữu Chế
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Những ngày Tháng 4-2013
MƯỜNG
GIANG
No comments:
Post a Comment