Những Đồng Minh Anh Hùng - Ngô Kỷ dịch
TƯỞNG
NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4
Kính thưa Quý Đồng Hương,
30 tháng 4 năm 1975, ngày định mệnh đã đưa dân tộc Việt Nam rẽ
qua một khúc quanh lịch sử bi thảm nhất. Là người tỵ nạn Cộng sản,
chúng ta xót xa cho thân phận quê hương và thao thức về những tang
thương
của đất nước.
Hồi
tưởng về quá khứ, chúng ta thành tâm biết ơn và nguyện cầu cho vong
linh các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa vị quốc vong thân được siêu thoát.
Chúng ta vinh danh những Tướng Lãnh và hàng ngàn Chiến Sĩ Vô Danh đã
chấp nhận
cái chết hào hùng không hàng phục giặc để giữ vẹn khí tiết
bất khuất của con cháu Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Trần Bình Trọng.
Chúng ta cảm phục và chia sẻ những khốn khổ tủi nhục của hàng trăm ngàn
cựu Tù Nhân Chính Trị đã chịu đựng tại các lao tù khắc nghiệt Cộng sản.
Chúng ta ngậm ngùi tưởng niệm những đồng bào thân yêu xấu số đã vùi thây
nơi biển cả mênh mông, hay bỏ xác nơi núi rừng hoang vu trên đường đi
tìm ánh
sáng tự do.
Chúng ta cầu xin Ơn Trên đoái thương đến 85 triệu đồng bào ruột thịt đang sống lầm than cơ cực dưới ách thống trị dã man
của cộng sản vô thần nơi
quê nhà, sớm hưởng
được một đời sống tự do,dân chủ, ấm no, hạnh phúc và nhân bản.
Nhân
mùa Tháng Tư Đen về, tôi xin phép post
lại bài dịch Những Đồng Minh Anh Hùng, tức Heroic Allies của Tác giả
Harry F. Noyes III, cựu chiến binh Mỹ tham dự chiến trường Việt Nam trong binh chủng Không Quân, sau cuộc chiến trở về, ông tốt nghiệp cao học về Nghiên Cứu Á Châu tại trường Đại Học Hawaii.
Nguyên bản Anh ngữ
được đăng trong tạp chí Vietnam, số tháng 8, 1993.
Dù là bài cũ nhưng vì nhận thấy
đây là tài liệu gíá trị, sâu sắc, trung thực, khách quan và cô đọng
được viết bởi một người Mỹ về cuộc chiến Việt Nam, nên tôi xin chia sẻ đến quý vị thưởng lãm, và cũng
như một nén hương lòng vinh danh và bày tỏ lòng tri ân sâu xa đến những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa anh hùng đã vị quốc vong
thân.
Trân trọng
Ngô Kỷ
Xin
bấm Youtube ở dưới để vừa xem 30 tấm hình thật chọn lọc về cuộc chiến
đấu anh dũng và hào hùng của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và vừa nghe đọc bài viết NHỮNG ĐỒNG MINH ANH HÙNG
Youtube: Anh Nguyên Khôi
đọc giọng Bắc
Youtube: Anh Trần Minh đọc giọng Nam
Những Đồng Minh Anh Hùng
"Heroic Allies"
của Harry F. Noyes III
đăng trong Nguyệt San VIETNAM, phát hành
tháng 8 năm 1993
Do Ngô Kỷ chuyển ngữ để kính tặng và tri ân sự chiến đấu dũng cảm và
tuyệt vời của những
Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Họ dáng người thì nhỏ nhắn, nói chuyện bằng những âm ngữ líu lo, thường chan nước mắm vào thức ăn và hay cầm lấy tay nhau.
Chẳng
ai ngạc nhiên lắm khi thấy những quân nhân Mỹ gởi qua Đông Nam Á - phần
lớn họ còn rất trẻ, có một kiến thức nông cạn, được đào tạo trong một
xã hội vị kỷ và hiểu rất ít về những nền văn hóa khác - họ không cảm
thông được tâm trạng của các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Thật
đau lòng
khi có nhiều cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam lại đi cấu
kết với cái đám phản chiến cấp tiến, những tên trốn quân dịch và bọn
chính khách hoạt đầu xúm nhau bôi nhọ danh dự của một Quân Lực đã chẳng
còn có cơ hội để được tự bào chữa. Nhục mạ một quân đội đã sa cơ trên
chiến trường vì bị Hoa Kỳ phản bội là một hành động đê tiện và bất xứng
của những người Hoa Kỳ.
Có thể một số quý vị sẽ ngạc nhiên về lý luận của tôi. Làm
sao tôi có thể biện hộ cho quân lực VNCH được? Phải chăng tất cả binh
sĩ VNCH đều thuộc loại bất tài, xảo trá và hèn nhát? Không, không phải
vậỵ. Trong bài này tôi sẽ vạch ra một số bằng chứng xác đáng để phản bác
lại cái luận điệu đê hèn đó và phân tích
lý do tại sao cái luận điệu đó phát sinh. Dĩ nhiên, quân đội VNCH không toàn hảo. Họ
cũng có một số lãnh đạo tồi tệ, một số lính tráng hèn nhát, vài ba lần
hoảng hốt bỏ chạy, xằng bậy và hung bạo. Tuy nhiên, các điều này cũng đã
từng xảy ra đối với quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Đông Nam Á.
Trong một số lãnh vực như: tổ chức, tiếp vận, tham mưu và chỉ huy, quân đội VNCH thua kém quân đội Hoa Kỳ thật. Nhưng
họ làm gì khác hơn được khi đất nước họ là đất nước đang phát triển, họ
mới giành độc lập từ tay chế độ thuộc địa và bất ngờ lao vào một trận
chiến khốc liệt, đối đầu với kẻ thù hung hăng được vũ trang hùng hậu từ
cả khối Cộng Sản? Thật ra, các khuyết điểm của quân đội VNCH có cũng
giống như các khuyết điểm mà quân đội Hoa Kỳ mắc phải trong Trận Chiến
Dành Độc Lập, dù rằng Hoa Kỳ vào thời cuối thế kỷ 18 đó có nhiều lợi
điểm hơn, như:
- Tầm vóc của Cuộc Cách Mạng Dành Độc Lập hạn hẹp hơn và dễ điều khiển hơn.
- Khác với sự bị trị của Việt Nam, Hoa Kỳ qua kinh nghiệm bị trị đã nuôi dưỡngtinh thần tự trị địa phương và tạo thuận lợi cho quốc gia đào tạo nên
những nhà lãnh đạo ưu tú.
- Quân đội Hoàng Gia Anh không bền bỉ như quân đội Bắc
Việt.
- Có phải các binh sĩ Hoa Kỳ giỏi giang hơn các chiến hữu đồng minh của họ đến độ người Mỹ đối xử miền Nam Việt Nam với một thái độ khinh rẻ như
vậy.
Câu trả lời cho cả hai câu hỏi trên là: "Không!"
Bằng
chứng cho câu trả lời đó thật rõ ràng. Ý đồ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân
của Cộng quân là bẻ gẫy ý chí pḥòng thủ của miền Nam Việt Nam. Nhưng
chúng đã thất bại, binh sĩ VNCH đã chống trả một cách quyết liệt và hữu
hiệu: không một đơn vị nào bị tan rã hay tháo chạỵ. Thậm
chí cảnh sát cũng đã chiến đấu, họ dùng cả súng lục để bắn lại bộ đội
chính quy của Bắc Việt trong khi những người bộ đội CS này thì lại được
võ trang với vũ khí hạng nặng. Theo báo cáo cho thấy là vào thời điểm
đó, số
người tình nguyện nhập ngũ lên quá cao, đến nỗi chính phủ phải ngưng
tuyển mộ lính trong một thời gian.
Trong
trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, các binh sĩ VNCH bị vây hãm tại An Lộc
đã anh dũng tử thủ chống trả lại lực lượng hùng hậu của địch, cùng với
những trận mưa pháo bất tận, và cuối cùng họ đã đè bẹp được
những trận tấn công liên tục của các chiến xa địch quân. Sau đó, tôi
được một cố vấn Mỹ kể lại chuyện một tiểu đội bộ binh VNCH được lệnh
phải phá hủy 3 chiếc xe tăng của địch. Ông kể:
- Các binh sĩ của tiểu đội này phá hủy được một chiếc xe tăng, rồi sau đó họ lại tự quyết định bắt sống hai chiếc xe
tăng kia. Họ rượt bộ và bắt được thêm một chiếc nữa, còn chiếc kia thì chạy thoát. Khi trở về pḥòng tuyến, họ bị khiển trách nặng nề.. vì đã để chiếc xe tăng kia tẩu thoát."
Tuy
hành động của tiểu đội lính này không đúng với quân kỷ lắm,
nhưng cái hành động đó đã nói lên tinh thần chiến đấu cao độ và sáng
kiến tác chiến của rất nhiều binh sĩ VNCH. Chắc chắn sự kiện trên không
thể hổ trợ luận điệu cáo buộc họ hèn nhát được.
Một
chứng cớ điển hình hơn, trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam
Việt Nam năm 1975, khi mà nỗi tuyệt vọng bao trùm lên
cả đất nước họ, khi mà biết rõ rằng Hoa Kỳ sẽ không yểm trợ gì nữa
(ngay cả nhiên liệu và đạn dược); ấy thế mà một sư đoàn VNCH đã anh dũng
cầm cự chiến đấu với bốn sư đoàn quân Bắc Việt trong suốt hai tuần lễ
tại Xuân Lộc. Trên mọi bình diện, trận chiến Xuân Lộc đó cũng hào hùng
như bất cứ trận chiến nào trong quân sử Hoa Kỳ. Các binh sĩ VNCH cuối
cùng đã phải rút lui vì không lực của họ không còn bom cluster để yểm
trợ cho lực lượng bộ binh đụng trận dưới đất.
Có lần tôi được coi một phim tài liệu truyền hình nói về một người phóng viên Úc đặc trách quay phim chiến trường. Khác với các phóng viên Mỹ, ông ta dành nhiều thì giờ theo sát binh sĩ VNCH. Ông ta công nhận tinh thần chiến đấu anh dũng của họ, và để minh chứng điều đó, ông đã cho trình chiếu cả cuốn phim. Ông
ta nhớ lại rằng, trong chuyến thăm viếng một khu làng do địch quân kiểm
soát, ông được nghe kể rằng Cộng Sản sợ binh sĩ VNCH hơn là sợ binh sĩ
Mỹ. Cái lý do
chính là binh sĩ Mỹ quá ồn ào, do đó địch quân luôn nghe trước được
đường tiến quân của họ. Làm sao có được điều so sánh này nếu trên thực
tế các binh sĩ VNCH không thuộc loại lính thiện chiến.
Tuy
nhiên, cái chứng cớ quan trọng nhất để chứng minh tinh thần chiến đấu
cao độ của binh sĩ VNCH nằm trong hai sự kiện thật đơn giản và rõ
ràng sau đây, dù rằng các sự kiện này thường bị làm ngơ hoặc giả vờ
không biết nhằm che đậy sự thất bại của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Sự
kiện thứ nhất: Chiến tranh đã bắt đầu từ 7 năm trước khi quân đội tác
chiến Hoa Kỳ bước chân vào Việt Nam, và trận chiến đó vẫn tiếp tục kéo
dài suốt 5 năm sau khi Hoa Kỳ rút quân. Phải có những
người đứng ra chiến đấu trong thời gian đó, và không ai khác hơn là các
binh sĩ VNCH.
Sự
kiện thứ hai: Có độ 1/4 triệu binh sĩ VNCH hy sinh trong cuộc chiến.
Nếu đem so sánh tỷ lệ dân số hai nước, thì con số này phải tương đương
với khoảng hai triệu người Mỹ chết (gấp đôi tổng số thương vong của tất
cả cuộc chiến Hoa Kỳ
cộng lại). Bạn không thể tổn thất lớn lao như vậy nếu bạn không thực sự
chiến đấu.
Thế thì tại sao thanh danh quân đội VNCH lại bị xúc phạm nặng nề như vậy?
Dĩ
nhiên quân đội VNCH cũng có một số lần chiến đấu kém hiệu năng hoặc bị
khủng hoảng, nhưng các trường hợp này cũng từng xảy ra trong quân đội
Hoa Kỳ. Tôi biết một vị chỉ huy đơn vị pháo binh Hoa Kỳ đã có lần ra
lệnh trực xạ vào địch quân vì lực lượng bộ binh Mỹ "bảo vệ" cho căn cứ
pháo binh đã hốt hoảng tháo chạy trước hỏa lực hùng hậu của địch.
Sự
kiện trên không có nghĩa là toàn thể quân đội Hoa Kỳ hèn nhát, và đôi
lần thất bại của binh sĩ VNCH cũng không có nghĩa là toàn thể quân đội
VNCH hèn nhát. Dù vậy, người ta lại rất dễ tin như thế khi được nghe kể
lại từ chính miệng các cựu chiến binh Hoa Kỳ hoặc từ các chính trị gia
nhằm chạy tội cho chính phủ Hoa Kỳ về việc bỏ rơi miền Nam Việt Nam
trong cơn hấp hối.
Sự
thật của vấn đề được diễn tả khéo nhất qua mẩu đối thoại cách đây gần
hai thế kỷ khi một mệnh phụ Anh hỏi Quận Công Wellington rằng: "Có bao
giờ quân Anh tháo chạy trên chiến trường không?" Vị Thiết Quận Công này
trả lời: "Thưa bà, tất cả binh sĩ đều bỏ chạy trên chiến trường."
Chỉ cần lướt qua quân sử cũng đủ để xác nhận điều này. Trong
suốt cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, chúng ta đã thấy rất nhiều tấm gương can
đảm nhưng cũng không thiếu gì các hành động khiếp nhược. Trên mặt trận,
lúc đầu binh sĩ của hai phe Nam Bắc đều chiến đấu rất dũng cảm, rồi
pḥòng tuyến vỡ, rồi bỏ chạy, rồi tái phối trí và chiến
đấu trở lại. Không có
quân đội nào được xem là có lòng hy sinh anh hùng hơn họ, nhưng những
binh sĩ tham dự trận nội chiến này cũng không tránh khỏi những lúc thất
điên bát đảo, và đó cũng là chuyện thường tình trên chiến trường..
Tác
giả S.L.Ạ Marshall đã tường thuật chuyện một đại đội lính Mỹ trong Đệ
Nhị Thế Chiến đã tháo chạy tán
loạn trước tiếng la ré xung phong của một toán lính Nhật. Nhưng đại đội
lính Mỹ khác thì lại tiếp tục chiến đấu, giết sạch hết toán lính Nhật
(độ 10 người), và khám phá ra rằng hầu hết những tên lính Nhật này không
võ trang gì cả. Nếu chuyện trên xảy ra cho một đơn vị quân đội VNCH,
thì chắc chắn những kẻ muốn bôi nhọ quân đội này sẽ lợi dụng đó như là
một "cơ hội bằng vàng" để mạ lị rằng toàn thể quân lực VNCH là hèn nhát.
Tại
sao vậy? Tôi đã nêu ra câu trả lời rồi. Tất cả tùy thuộc vào màu da và
ngôn ngữ của các binh sĩ liên hệ. Sự thật bỉ ổi là việc mạ lị quân đội
VNCH lại xuất phát từ tinh thần kỳ thị chủng tộc và bồng bột của nền văn
hóa Hoa Kỳ.
Tôi có thể làm chứng cho việc xuyên tạc đầy ác ý và phổ quát này. Khi
vừa đến Việt Nam vào tháng 6 năm 1969, tôi đã chứng kiến ngay sự ngu
ngơ và thái độ khinh bỉ của một số người Mỹ đối với nhân dân và quân đội
VNCH. Cái thái độ đó nằm trong mọi tập thể quân nhân da trắng lẫn da
đen, trong các giới dân sự cũng như ký giả Hoa Kỳ. Phong trào thù ghét
đất nước và nhân dân Việt Nam bị lan tràn như một thứ bệnh dịch truyền
nhiễm đáng ngạc nhiên.
Tôi
quen một viên đại úy Hoa Kỳ tốt nghiệp về môn điện ảnh từ một viện đại
học danh tiếng (một ngành chuyên môn được dùng để giúp nâng cao tŕnh độ
nhận thức quan sát). Khi viên đại úy này trở lại đơn vị sau một chuyến
công tác ngắn tại Thái Lan, anh ta ca ngợi đáo để dân tộc Thái Lan. Anh
nói rằng: "Dân Thái Lan cho con cái đi học khác hẳn với dân Việt Nam".
Anh ta ngạc nhiên nhưng lại không lộ vẻ hối hận khi tôi chỉ cho anh thấy
một ngôi trường Việt Nam sát nách doanh trại chúng tôi. Bất cứ ai có
mắt cũng
đều thấy
hàng trăm em học sinh mặc đồng phục quần xanh áo trắng qua lại mỗi
ngày, chỉ trừ anh chàng phim ảnh này không nhìn thấy các em mà thôi.
Thật
là mỉa mai khi người Việt Nam có tiếng hiếu học hơn người Mỹ, và miền
Nam Việt Nam đã nâng cao được mức biết đọc biết viết từ 20% lên 80%
trong khi đất nước chiến tranh triền miên
(và mặc dù Cộng Sản chủ trương giết hại các giáo chức), thế mà lại bị
anh chàng phim ảnh này cho rằng Việt Nam không có trường học. Vì
bị gởi đi chinh chiến xa xôi và bị cách biệt gia đình, nên anh Mỹ này
nảy sinh lòng oán ghét Việt Nam, và tạo nên thành kiến rằng mọi người
Việt Nam đều đáng khinh. Do đó, trong đầu anh cứ ám ảnh là Việt Nam
không có trường học, dần rồi cái tâm lý bệnh hoạn đó đã làm hư đi cái
khả năng nhận thức và đánh lừa cả thị giác của anh.
Hãy
tưởng tượng cái tâm trạng của một tập thể lính Mỹ ít học, sống giữa một
nền văn hóa xa lạ và thần kinh lúc nào cũng bị căng thẳng ra sao?! Có
lẽ chúng ta không nên trách cứ những người lính thiếu học này, lỗi là do
nơi các cấp chỉ huy Hoa Kỳ đã huấn luyện họ hiểu một cách mơ hồ về đất
nước Việt Nam cũng như về thực chất của cuộc chiến.
Tuy nhiên, đó không phải là cái cớ để các cựu chiến binh Mỹ huênh hoang rằng họ hiểu những cái mà họ đã thấy tại Việt Nam. Các cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam cần được vinh danh về các đức tính can đảm, hy sinh, ái quốc của họ. Nhưng can đảm và hy sinh không đồng nghĩa với kiến thức. Đánh
giặc tại Việt Nam không làm cho những người lính này trở thành những
chuyên viên thông thạo
về đất nước hoặc cuộc chiến Việt Nam, cũng như việc mang nặng đẻ đau
không thể biến người đàn bà trở thành một chuyên gia về thai nhi học
được.
Giới
truyền thông Mỹ cũng chẳng khá gì hơn. Trong một phóng sự đầy thành
kiến, tôi nghe một phóng viên lên án Không Lực VNCH - dù đã được
tân trang qua chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh - thế mà lại "đẩy
cho Không Quân Hoa Kỳ" thực hiện những phi vụ nguy hiểm ngoài Bắc Việt.
Trên thực tế Hoa Kỳ không muốn Không Quân VNCH bay ra Bắc (chỉ trừ vài
phi vụ oanh tạc ban đầu). Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn kiểm soát kế
hoạch oanh tạc để dùng nó như một lá bài thương thuyết. Vì không muốn
miền Nam Việt Nam có bất cứ quyền kiểm soát nào trong chính sách oanh
tạc, Hoa Kỳ đã trang bị cho Không Quân VNCH những vật dụng không thích
hợp cho các phi vụ ra Bắc. Miền Nam Việt Nam không được cung cấp oanh
tạc chiến đấu cơ, phi cơ tiếp liệu trên không, vũ khí hay các dụng cụ
điện tử cần thiết cho các phi vụ này. Đó là quyết định của người
Mỹ.
Câu
hỏi đặt ra là có phải người phóng viên truyền hình nêu trên dốt đặc về
sự kiện đó hay giả vờ không biết nhằm đi hạ nhục những đồng minh của Hoa
Kỳ. Dựa vào các lời lẽ lố bịch, chói tai và thanh âm của anh ta, tôi
kết luận rằng anh ta chủ mưu làm như vậỵ. Một
thí dụ khác nói lên cái thành kiến của giới truyền thông, đó là trận
chiến vây hãm Khe Sanh. Nếu bạn đi hỏi một ngàn người Mỹ từng nghe biết
về trận đánh này rằng đơn vị nào chiến đấu tại Khe Sanh, thì có lẽ hầu
hết đều trả lời là Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Nhưng sẽ làm họ ngạc
nhiên nếu có một người trong số ngàn người đó nói rằng có một tiểu đoàn
Biệt Động Quân VNCH đã cùng chia sẻ nỗi gian lao với các đồng minh Thủy
Quân Lực Chiến Hoa Kỳ trong trận chiến ngặt nghèo đó. Có nhiều đơn vị
VNCH khác cũng đã hổ trợ chiến đấu bên ngoài vòng đai căn cứ Khe Sanh..
Giới truyền thông Mỹ không đếm xỉa đề cập đến các chiến hữu đồng minh
của Hoa Kỳ, mà họ chỉ để ý đến những điều bê bối thôi, bởi vậy những
binh sĩ
VNCH chiến đấu cam khổ này đã bị trở thành những chiến sĩ "vô hình" của
Khe Sanh.
Tất
cả thành kiến - trong quân đội cũng như trong truyền thông - được thể
hiện rõ ràng qua các bản tin chiến sự về cuộc hành quân Hạ Lào năm 1972.
Trong
cuốn phim tài liệu truyền hình mười năm trước đây, có một đoạn phỏng
vấn lính Mỹ trong lúc chiến trường Hạ Lào đang tiếp diễn. Các lính Mỹ
được phỏng vấn này đang sống an toàn tại hậu cứ Nam Việt Nam. Họ "giải
thích" về sự chiến đấu của quân đội VNCH với những lời lẽ khinh bỉ và kỳ
thị. Thế mà sau đó người phóng viên này đã ca ngợi khen mấy người lính
G.I
Mỹ đó am tường về tình hình chiến sự
hơn là các nhà tướng lãnh Hoa Kỳ.
Trận
Hạ Lào đã trở thành đề tài vì nó có liên quan đến một tấm hình có cảnh
người lính VNCH bám vào cái càng máy bay trực thăng để trốn chạy khỏi
chiến trường. Tấm hình này bị bêu riếu khắp nước Mỹ ngày này qua tháng
nọ như là một "bằng chứng" về sự khiếp nhược của quân lực
VNCH. Thực tế, đây là một trò cổ điển nói lên mãnh lực của sự xuyên tạc
hình ảnh. Thật ra thì sự việc nó diễn tiến như sau: Binh sĩ VNCH bị tấn công bởi một lực lượng Cộng quân hùng hậu. Quân
đội Hoa Kỳ đã thất bại trong việc yểm trợ như đã hứa vì hỏa lực phòng
không của địch quá mạnh. Những báo cáo cho biết là lính trên trực thăng
đã đạp những thùng đạn đại bác từ cao độ 5,000 feet xuống với hy vọng
chúng sẽ rơi vào vòng đai của quân đội VNCH. Các trực thăng đó đã không
thể nào bay thấp hơn được.
Đại
tá Robert Monelli, một sĩ quan Hoa Kỳ có mặt trong mặt trận đó đã kể
lại trên báo Armed Forces Journal số 19 tháng 4 năm 1972 như sau: "Một
tiểu đoàn VNCH với 420 binh sĩ bi bao vây liên tiếp trong ba ngày bởi
một trung đoàn Cộng Sản độ 2,500 đến 3,000 tên. Quân đội Hoa Kỳ không
thể tiếp tế cho họ được. Họ phải chiến đấu cho tới khi gần hết đạn, rồi
mở đường máu bằng khí giới tịch thu của địch. Họ đã mang theo tất cả
binh sĩ bị thương và cả một số xác
chết. Không ảnh thám sát chụp được rõ ràng có 637 xác địch rải rác
chung quanh căn cứ.
Về
phía quân đội VNCH, tiểu đoàn trên chỉ còn lại có 253 binh sĩ sau khi
đến được vòng đai bạn. Chừng 17 người trong số binh sĩ này bị khủng
hoảng và đã bám vào càng trực thăng để chạy trốn, số binh sĩ còn lại thì
không làm như
vậỵ"
Bây
giờ, có thể một số người cho rằng hành động bám vào càng trực thăng
đang bay và dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không địch là một hành động gan
dạ. Hãy xếp đề tài đó qua một bên, tôi muốn đề cập đến việc là tại sao
chỉ có một trường hợp riêng lẻ như vậy - xáp lá cà mở đường máu rút lui
(được coi là
một chiến thuật khó khăn nhất trong binh thư) lại bị thổi phồng để đi
lên án cả một quân lực, cả một quốc gia, cả một dân tộc?
Câu
trả lời là tại vì kỳ thị chủng tộc. Các người lính VNCH bám lủng lẳng
vào trực thăng bị coi là những tên ngoại quốc hợm hĩnh. Nhưng nếu là
lính Mỹ, hay cả lính Anh, thì hành động này
đã gây được lòng trắc ẩn vì được biện minh rằng họ vừa trải qua một
cuộc thử thách đầy cam go. Bằng cớ cho lập luận này có thể
thấy được qua cái phản ứng của người Mỹ đối với cuộc rút lui của binh sĩ
Hoàng Gia Anh trong những ngày đầu của trận Đệ Nhị Thế Chiến. Từng có
một số lần nhục nhã đã xảy ra trong quân đội Hoàng Gia Anh tại Dunkirk
và nhiều nơi khác. Tại Dunkirk, một trung sĩ trên một chiếc tàu cấp cứu
đã chĩa súng tiểu liên vào các binh sĩ khủng hoảng để duy trì trật tự.
Trên một con thuyền khác, binh sĩ phải dùng báng súng đánh vào đầu một
viên sĩ quan để ông ta khỏi leo qua mép thuyền làm nước tràn vào. Tại
Crete, một lữ đoàn Tân Tây Lan phải lập vòng đai an toàn quanh biển bằng
dao găm để ngăn chặn binh sĩ Hoàng Gia Anh tràn ngập lên thuyền. Cái
hình ảnh quân đội Hoàng Gia Anh đơn thân độc mã chống lại Hitler năm
1940 thì ca ngợi là một biểu tượng đầy đủ dữ kiện, còn những trường hợp
riêng lẻ như các trường hợp kể trên không được phép làm hoen ố cái bức
tranh toàn cảnh dũng cảm và tận tụy của những người lính chiến.
Thành
thật mà nói thì quân đội VNCH đã chiến đấu một cách tầm thường trong
những ngày cuối cùng của cuộc chiến, ngoại trừ trận đánh hào hùng và
tuyệt cú tại mặt trận Xuân Lộc. Nói vậy chứ nó cũng có những nguyên do
của nó. Và cũng có nhiều yếu tố để ta tin rằng nếu nhận được sự yểm trợ
chân thành từ phía Hoa Kỳ, quân đội VNCH đã có thể tạo được những trận
thư hùng như kiểu Xuân Lộc, và không chừng ngay cả việc họ đã cứu vãn
được đất nước.
Vấn
đề đặt ra đây một lần nữa không phải đề bàn đến cách ứng xử của miền
Nam Việt Nam, nhưng chính là đem so sánh cách ứng xử của họ với Hoa Kỳ
để xem liệu Hoa Kỳ ứng xử ra sao nếu Hoa Kỳ bị nằm trong một hoàn cảnh,
tình huống tương tự. Và thật sự - nếu binh sĩ Hoa Kỳ bị bỏ rơi giống như
Hoa Kỳ đã cắt viện trợ Miền Nam Việt Nam một cách nặng nề trong năm
1974, nhiều tháng trước khi địch quân mở những trận tổng công kích lần
chót. Hậu quả là chỉ có rất ít nhiên liệu và đạn dược cung cấp cho miền
Nam Việt Nam. Phi cơ và quân xa của
VNCH bị nằm ụ vì thiếu phụ tùng. Binh sĩ phải ra trận với máy truyền
tin mà không có bình batteries, và các toán cứu thương thiếu cả các loại
thuốc thang căn bản. Pháo binh thì bị giới hạn bắn được ba trái đạn mỗi
ngày trong ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tình trạng bi đát đến nỗi tư
lệnh quân đội Bắc Việt xâm lăng miền Nam Việt Nam, tướng Văn Tiến Dũng
cũng thừa nhận rằng khả năng di động và hỏa lực của quân đội VNCH đã sút
giảm phân nửa. Bên cạnh những ảnh hưởng trực tiếp về vật chất, chúng ta
cũng phải để ý đến những tác hại tinh thần đối với các binh sĩ VNCH.
Lợi dụng tình thế bi thảm này, quân đội Bắc Việt đã ào ạt tấn công với
đầy đủ vũ khí tối tân, chiến xa và đại bác di động.
Vâng,
quân đội VNCH đã bại vong. Họ đã vất bỏ các chiến cụ (phần lớn đã không
còn dùng được vì thiếu phụ tùng) và một số đạn dược (số đạn mà họ đã
dành dụm tối đa cho đến khi nó trở thành quá muộn để bắn, bởi vì họ biết
rằng sẽ không bao giờ nhận được tiếp tế nữa). Vậy thì lỗi của ai? Của
họ... .hay của Hoa
Kỳ?
Vâng,
miền Nam Việt Nam rút quân khỏi các tỉnh cao nguyên e có phần trễ và
vụng về, đưa đến sự khủng hoảng và sụp đổ. Nhưng làm sao chính phủ miền
Nam Việt Nam lại cam tâm bỏ rơi đồng bào họ sớm hơn trước được, khi mà
địch quân chưa tung ra một áp lực nào ? Đã có lúc miền Nam Việt Nam hy
vọng oanh tạc cơ B52 Hoa Kỳ
sẽ trở lại giúp họ ngăn chặn làn sóng tiến quân của Cộng Sản. Nhưng khi
rõ ràng là việc này sẽ không xảy ra, binh sĩ trở nên hoang mang là một
điều dễ hiểu thôi. Tinh thần chiến đấu suy sụp, nhiều binh sĩ bị bỏ ngũ -
không phải họ hèn nhát hay không muốn chiến đấu bảo vệ tổ quốc, nhưng
bởi vì họ không muốn chết một cách vô ích trong khi gia đình đang cần.
Liệu
Hoa Kỳ đã có thể làm gì khá hơn nếu ở trong tình trạng y hệt miền Nam
Việt Nam thời 1975? Liệu các đơn vị Hoa Kỳ có tiếp tục hăng say chiến
đấu trong lúc quân xa và hệ thống truyền tin thì hư hỏng, y tế thì què
quặt, nhiên liệu và đạn dược thì thiếu thốn, không được máy bay yểm trợ -
lại phải đương đầu trước một địch quân hùng hậu hỏa lực, đầy đủ tiếp
liệu và tinh thần phấn khởi ? Tôi không tin như vậy.
Liệu
miền Nam Việt Nam có thể chiến thắng vào năm 1975 nếu chính phủ Hoa Kỳ
tiếp tục viện trợ cho họ một số lượng tương đương với số tiếp liệu mà
khối Cộng Sản đổ vào Bắc Việt ? Câu trả lời không ai biết được. Nhưng
chắc chắn một điều là họ cũng có được cơ hội chiến đấu bình đẳng, thế mà
Hoa Kỳ đã phản bội tước đi cái cơ hội này của họ. Chắc chắn họ đã có
thể chiến đấu một cách hiệu quả hơn. Rồi dù có thua, họ cũng thua một
cách hào hùng trong một trận chiến để đời, và biết đâu đã chẳng tạo được
một cuộc kháng chiến thần thánh như A Phú
Hãn.
Ví
dù miền Nam Việt Nam có bị đại bại hoàn toàn, cái yểm trợ tận lực của
Hoa Kỳ sẽ cho phép người Mỹ nhún vai và nói rằng họ đã cố gắng hết sức.
Nhưng, Hoa Kỳ đã không tận lực, mà trái lại người Mỹ lại còn cố gắng che
đậy sự thật bằng cách bôi nhọ miền Nam Việt Nam và nhục mạ quân lực
VNCH đã sai
lầm.
Bây
giờ đã quá trễ để Hoa Kỳ chuộc lại tội ác tầy trời khi bỏ rơi nhân dân
miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản. Nhưng nó chưa quá trễ để Hoa Kỳ thú
nhận lỗi lầm trong việc nhục mạ họ. Và cũng chưa quá trễ để bắt đầu vinh
danh các thành quả và lòng dũng cảm của những binh sĩ VNCH đã chiến đấu
bảo vệ lý tưởng tự
do.
Ngô Kỷ chuyển ngữ
| |||||
| |||||
|
They were small, talked in sing-song squeaks, put
a smelly fish sauce on their food, and often held hands with each other.
It is not surprising that American troops sent to Southeast Asia -- mostly young, indifferently educated, and molded by a society with too much self-esteem and too little understanding of other cultures -- found it hard to empathize with South Vietnam's soldiers. Still, it is a pity that many veterans of the Vietnam War have joined radical agitators, draft dodgers and smoke-screen politicians to besmirch the honor of an army that can no longer defend itself. To slander an army that died in battle because America abandoned it is a contemptible deed, unworthy of American soldiers. Perhaps some find my assertion incredible. How can I possibly defend the armed forces of South Vietnam? Everybody "knows" they were incompetent, treacherous and cowardly, isn't that so? No, it is not. This article will outline some of the more compelling evidence against this scurrilous mythology and also examine why such a mythology arose to begin with. Of course, the South Vietnamese forces were imperfect. They had their share of bad leaders, cowardly troops, and incidents of panic, blundering and brutality. So did the American forces in Southeast Asia. In some respects -- organization, logistics, staff work and leadership -- South Vietnam's armed forces did lag behind U.S. forces. But how could one expect otherwise in a developing nation that had just emerged from colonialism and was suddenly plunged into a war to the death against a powerful enemy supplied by the Communist bloc? In fact, many of the weaknesses exhibited by the South Vietnamese forces were identical to the ones displayed by the U.S. armed forces during the American War of Independence, even though late 18th-century America had several advantages: the whole scale of the Revolutionary War was smaller and easier to manage; America's colonial experience, unlike Vietnam's, had fostered local self-government and permitted the country to develop some truly outstanding leaders; the British were less persistent than the North Vietnamese; and the French allies did not abandon young America the way the U.S. government abandoned South Vietnam. But in any case, organization, logistics, staff work and even leadership are not the qualities at issue in the slandering of the South Vietnamese forces. Two questions touch on the real issue. Were South Vietnamese fighting men so lacking in character, courage, toughness and patriotism that Americans are justified in slandering them and assigning them all blame for the defeat of freedom in Southeast Asia? Were U.S. soldiers so much better than their allies that Americans can afford to treat the South Vietnamese with contempt? The answer to both questions, I submit, is a resounding "No!" The objective "big-picture" evidence is clear. The Tet Offensive of 1968 was supposed to crack South Vietnam's will to resist. Instead, South Vietnamese forces fought ferociously and effectively: no unit collapsed or ran. Even the police fought, turning their pistols against heavily armed enemy regulars. Afterward the number of South Vietnamese enlistments rose so high, according to reports at the time, that the country's government suspended the draft call for a while. In the 1972 Easter tide Offensive, isolated South Vietnamese troops at An Loc held out against overwhelming enemy forces and artillery/rocket fire for days, defeating repeated tank assaults. I later met a U.S. adviser who described how a South Vietnamese infantry squad in his area was sent to destroy three enemy tanks. The members of the squad dutifully destroyed one tank, then decided to capture the other two. As I remember, they got one, but the other made its escape, with the South Vietnamese chasing it down a road on foot. The soldiers got chewed out upon returning...for letting one tank get away. The squad's performance may not be the best demonstration of military discipline, but the incident demonstrates the high morale and initiative that many South Vietnamese soldiers possessed. Certainly it does not support charges of cowardice. As further evidence, consider South Vietnam's final moments as an independent nation in 1975, when justifiable despair gripped the country because it became clear that the United States would provide no help (not even fuel and ammunition). Yet one division-sized South Vietnamese unit held off four North Vietnamese divisions for some two weeks in fierce fighting at Xuan Loc. By all accounts, that battle was as heroic as anything in the annals of U.S. military history. The South Vietnamese finally had to withdraw when their air force ran out of cluster bombs for supporting the ground troops. Once I saw a television documentary about an Australian cameraman who had covered the war. Unlike U.S. reporters, he spent much of his time with the South Vietnamese forces. He attested to their fighting spirit and showed film footage to prove it. He also recalled visiting an enemy-controlled village and being told that the Communists feared South Vietnamese troops more than Americans. The principal reason was that Americans were noisy, so the enemy always heard them coming. But that would have been immaterial if the South Vietnamese had not also been dangerous fighters. However, the most important evidence of South Vietnamese soldiers' willingness to fight comes from two simple, undeniable, "big-picture" facts -- facts that are often ignored or disguised to cover up American failure in Vietnam. Fact One: The war began some seven years before major American combat forces arrived and continued for some five years after the U.S. began withdrawing. Somebody was doing the fighting, and that somebody was the South Vietnamese. Fact Two: The South Vietnamese armed forces lost about a quarter-million dead. In proportion to population, that was equivalent to some 2 million American dead (double the actual U.S. losses in all wars combined). You don't suffer that way if you're not fighting. How, then, did the South Vietnamese get their bad reputation? Certainly there were occasional displays of incompetence and panic by South Vietnamese forces. The same can be said of U.S. forces. I knew an American artillery commander whose gunners once had to defend their firebase by firing canister point-bank into enemy ranks because the U.S. infantry company "protecting" them had broken in the face of the enemy assault and was huddling, panic-stricken, in the midst of the guns. That incident does not mean the whole U.S. Army was cowardly, and occasional breakdowns among America's allies did not mean all South Vietnamese soldiers were cowards. Yet one would think so, the way the story gets told by some veterans -- and by the political apologists for a U.S. government that left South Vietnam in the lurch. The truth of the matter was best stated nearly two centuries ago when a British woman asked the Duke of Wellington if British soldiers were ever known to run in battle. "Madam," replied the Iron Duke, "All soldiers run in battle." Even a cursory study of military history confirms this. Civil War battles reveal a continuous ebb and flow of bravery and fear, as Confederate and Union units alike first attacked bravely, then crumbled and fled under horrendous fire, before regrouping and charging again. No armies ever laid more justified claim to sheer self-sacrificing heroism than those two, yet they were subject to panic as a routine price for doing bloody business on the battlefield. Author S.L.A. Marshall describes how one American rifle company in World War II fled in panic from a screaming Japanese banzai charge: a second unit fought on, quickly killing every Japanese soldier involved (about 10), and discovered that most of them were not even armed. If the same thing had happened to a South Vietnamese unit, it undoubtedly would have been cited repeatedly by self-appointed pundits as incontrovertible proof of the cowardice of all South Vietnamese troops. Why? We've already hinted at the answer. It all depends on the color and native tongue of the troops involved. The ugly truth is that the South Vietnamese forces' false reputation is rooted in American racism and cultural chauvinism. I can personally attest to the pervading, massive and truth-distorting reality of the phenomenon. When I arrived in Vietnam in June 1969, I immediately began to witness continuous displays of ignorance and contempt by some Americans toward the Vietnamese people and their armed forces. White troops, black troops, and civilian Americans such as journalists -- all were equally afflicted. This passionate hatred of Vietnam and its people had an astonishing power to become contagious. I knew an American captain with a graduate degree from a prestigious university in cinematography (presumably a specialty that improves visual perceptiveness). He once returned from temporary duty in Thailand singing the praises of the Thai. "They send their kids to school," he said, contrasting them with the South Vietnamese. He was surprised, but not repentant, when I pointed out that there was a Vietnamese school right next door to our compound! Hundreds of little kids in bright blue-and-white school uniforms could be seen there daily -- by anyone whose eyes were open. But this filmmaker apparently could not see them. It is ironic that the Vietnamese -- who by reputation honor learning more than Americans do and who raised South Vietnam's literacy rate from about 20 percent to 80 percent even as war raged around them (and despite the enemy's habit of murdering teachers) -- were accused by the filmmaker of having no schools. Because he was fighting in a foreign country and was separated from his family, this American had built up a hatred for Vietnam, and he wanted to believe the Vietnamese people were contemptible. Therefore, it was important to him to believe that they had no schools; and his emotions literally interdicted his optic nerves. Imagine the feelings of the undereducated masses of American troops faced with a strange culture in a high-stress environment! Perhaps one cannot blame the troops for their ignorance. Heaven knows the U.S. command made only the most perfunctory effort to educate them about Vietnam and the nature of the war. However, that is no excuse for veterans to pretend that they understand what they saw in Vietnam. America's Vietnam veterans must be honored for their courage, sacrifice and loyalty to their country. But courage and sacrifice are not the same as knowledge. Fighting in Vietnam didn't make soldiers into experts on the country or the war, any more than having a baby makes a woman an expert on embryology. What most U.S. soldiers did there taught them little or nothing about South Vietnam's culture, society, politics, etc. Few Americans spoke more than a half-dozen words of Vietnamese; even fewer read Vietnamese books and newspapers; and not many more read books about Vietnam in English. Except for advisers, few Americans worked with any Vietnamese other than (perhaps) the clerks, laundresses and waitresses employed by U.S. forces. Most important for our purpose, few U.S. troops ever observed South Vietnamese forces in combat. Even the ones who did rarely considered the attitude differences that must have existed between soldiers like the Americans, who only had to get through one year and knew their families were safe at home, and troops like the South Vietnamese, who had to worry about their families' safety every day and who knew that only death or grievous wounds would release them from the army. The Vietnamese naturally used a different measuring stick to determine what was important in fighting the war. Journalists were no better. Consider a biased TV report I heard in which a reporter denounced South Vietnam's air force because -- despite Vietnamization -- it "let the Americans" fly the tough missions against North Vietnam. In fact, it was the United States that would not let the South Vietnamese fly into North Vietnam (except for a few missions in the early days of the bombing). The American leaders wanted to control the bombing so that the United States could use it as a negotiating tool. Not wanting the South Vietnamese to have any control over bombing policy, the U.S. forces deliberately gave them equipment unsuited for missions up North. South Vietnam did not get the fighter-bombers, weapons, refueling aircraft or electronic-warfare equipment necessary for such missions. It was an American decision. The TV reporter in question either was ignorant of that fact or chose to ignore it in order to do a hatchet job on the American allies. Considering his blatantly biased words and tone of voice, I concluded that any ignorance he suffered from was deliberate. Another example of media bias came during the Khe Sanh siege. If you asked a thousand Americans which units fought at Khe Sanh, most of those who had heard of the battle would probably know that U.S. Marines did. But it would be surprising if more than one out of the thousand knew that a South Vietnamese Ranger battalion had shared the rigors of the siege with American Marines. Other South Vietnamese units took part in supporting operations outside the besieged area. The U.S. media just did not consider the American allies worthy of coverage unless they were doing something shameful, so these hard-fighting soldiers became quite literally the invisible heroes of Khe Sanh. All this -- soldier and media bias -- came together clearly during news reports of the 1972 incursion into Laos. Consider a TV documentary a decade ago. It included film of some American GIs being interviewed during the Laotian fighting. These guys, themselves safely inside South Vietnam, were "explaining" the South Vietnamese army's struggle in contemptuous, racist remarks. The reporter then suggested that these American GIs understood the situation better than the American generals. The incursion, of course, is the source of the infamous photo of a South Vietnamese soldier escaping from Laos by clinging to a helicopter skid. This image was and is held up to Americans again and again as "proof" of South Vietnamese unworthiness. In fact, it is a classic example of photography's power to lie. What happened was this: The South Vietnamese were struck by overwhelming Communist forces. The U.S.military failed to provide the support that had been promised because enemy anti-aircraft fire was too strong. There were reports of U.S. helicopter crews kicking boxes of howitzer ammunition out the doors from 5,000 feet up, hoping the stuff would land inside South Vietnamese perimeters. The helicopters simply couldn't get any closer. Given that context, consider the way Colonel Robert Molinelli, an American officer who witnessed the action, described it in the Armed Forces Journal of April 19, 1971: "A South Vietnamese battalion of 420 men was surrounded by an enemy regiment of 2,500-3,300 men for three days. The U.S. could not get supplies to the unit. It fought till it ran low on ammunition, then battled its way out of the encirclement using captured enemy weapons and ammunition. It carried all of its wounded and some of its dead with it. Reconnaissance photos showed 637 visible enemy dead around its position. The unit was down to 253 effectives when it reached another South Vietnamese perimeter. Some 17 of those men did panic and rode helicopter skids to escape. The rest did not. Now, some might consider dangling from a high-flying, fast-moving helicopter for many miles, subject to anti-aircraft fire, to be a pretty gutsy move. But, aside from that, how can such an isolated incident -- during a hard-fought withdrawal-while-in-contact (universally acknowledged to be just about the toughest maneuver in the military inventory) -- be inflated into condemnation of an entire army, nation and population? The answer is racism. The guys hanging from the helicopter skids were funny-looking foreigners. If they had been Americans, or even British, the reaction undoubtedly would have been one of compassion for the ordeal they had been through.. Evidence for this is found in how Americans responded to the British retreats early in World War II. There were some disgraceful displays among British forces at Dunkirk and elsewhere. At Dunkirk a sergeant in one evacuation boat had to aim a submachine gun at his panicky charges to keep order on board. On another boat soldiers had to pummel an officer with their weapons to keep him from climbing over the gunwale and swamping the boat. In Crete, a New Zealand brigade had to ring its assigned embarkation beach with a cordon of bayonets to keep fear-stricken English troops from swarming over the boats. Yet the image of Britain's lonely stand against Hitler in 1940 is one of heroism. That's perfectly justified by the facts, and isolated incidents like the ones described above should not detract from the overall picture of courage and devotion. It is certainly true that South Vietnamese forces gave an undistinguished performance in the final days, with the exception of the incredibly heroic defense of Xuan Loc. Yet there are reasons for that. And there are reasons to believe that, with more loyal support from the Americans, the South Vietnamese could have turned in more Xuan Loc-style performances and perhaps even have saved their country. The real issue again is not just how the South Vietnamese performed, however; it is how their performance compared with the way Americans might have performed under similar circumstances.. And the truth is that American troops -- if they were abandoned by the U.S. the way South Vietnamese were -- probably would perform no better than the South Vietnamese did. Remember: the United States had cut aid to South Vietnam drastically in 1974, months before the final enemy offensive. As a result, only a little fuel and ammunition were being sent to South Vietnam. South Vietnamese air and ground vehicles were immobilized by lack of spare parts. Troops went into battle without batteries for their radios, and their medics lacked basic supplies. South Vietnamese rifles and artillery pieces were rationed to three rounds of ammunition per day in the last months of the war. The situation was so bad that even the North Vietnamese commander who conquered South Vietnam, General Van Tien Dung, admitted his enemy's mobility and firepower had been cut in half.. Aside from the direct physical effect, we must take into account the impact this impoverishment had on South Vietnamese soldiers' morale. Into this miserable state of affairs the North Vietnamese slashed, with a well-equipped, well-supplied tank-and-motorized-infantry blitzkrieg.. Yes, the South Vietnamese folded. Yes, they abandoned some equipment (much of which would not work anyway for lack of spare parts) and some ammunition (which they had hoarded until it was too late to shoot it or move it, because they knew they would never get any more). So whose fault was that? Theirs... or America's? Yes, South Vietnam's withdrawal from the vulnerable northern provinces was belated and clumsy, leading to panic and collapse. But how could the South Vietnamese government have abandoned its people any earlier, before the enemy literally forced it to? For a while the South Vietnamese hoped the American B-52s would return and help stem the Communist tide. When it became clear they would not, understandable demoralization set in. The fighting spirit of the forces was sapped, and many South Vietnamese soldiers deserted -- not because they were cowards or were not willing to fight for their country, but because they were unwilling to die for a lost cause when their families desperately needed them. Would Americans do any better under the conditions that faced the South Vietnamese in 1975? Would U.S. units fight well with broken vehicles and communications, a crippled medical system, inadequate fuel and ammunition, and little or no air support -- against a powerful, well-supplied and confident foe? I doubt it. Would the South Vietnamese have won in 1975 if the U.S. government had kept up its side of the bargain and continued matching the aid poured into North Vietnamese by the Communists? The answer is unknowable. Certainly they would have had a fighting chance, something the U.S. betrayal denied them. Certainly they could have fought more effectively. Even if defeated, they might have gone down heroically in a fight that could have formed the basis for a nation-building legend and for continued resistance against Communism on the Afghan model. Even if the South Vietnamese had been totally defeated, wholehearted U.S. support would have enabled Americans to shrug and say they had done their best. However, the U.S. did not do its best, and for Americans to try to disguise that fact by slandering the memory of South Vietnam and its army is wrong. It is too late now for Americans to make good the terrible crime committed in abandoning the South Vietnamese people to Communism. But it is not too late to acknowledge the error of American insults to their memory. It is not too late to begin paying proper honor to their achievements and their heroic attempt to defend their liberty.
Harry F. Noyes III (BA,
University of the South; MA, University of Hawaii) served four years of
active duty in the Air Force after his ROTC commissioning in 1967. He
was an information officer
at Norton AFB, California, and
Yokota AB, Japan, and a film researcher/scenarist at Tan Son Nhut AB,
South Vietnam. Presently a civilian public affairs specialist at
Headquarters US Army Health Services Command, Fort Sam Houston, Texas,
he has been editor of the joint Army-Air Force Wiesbaden Post, Wiesbaden Military Community, West Germany, and a reporter covering military affairs at Fort Head, Texas, for the Killeen Daily Herald. He has written articles for a variety of
publications.
Xin
bấm vào Link của Google dưới này để xem rất nhiều bài viết, tài liệu,
hình ảnh, Video liên quan đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa:
Người lính Cộng Hòa trong mắt Người Dân
Những đoạn Video ngắn Tuyệt Vời, xem để ghi nhơ công ơn của nhửng vị anh hùng dân tộc.
Mời Quý Vị bấm vào những links dưới đây để xem hình ảnh kiêu hùng của những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà: - - - oOo - - - Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Part 1 http://www.youtube.com/v/9mi8c2Kl4bc&hl=en&fs=1 Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Part 2 http://www.youtube.com/v/wH_mwkVfSVY&hl=en&fs=1 Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Part 3 http://www.youtube.com/v/sHYgEwxue7Q&hl=en&fs=1 Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Part 4 http://www.youtube.com/v/O-Ji8rPOCQc&hl=en&fs=1 Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Part 5 http://www.youtube.com/v/4gRil0ma9QE&hl=en&fs=1 Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Part 6 http://www.youtube.com/v/66-59cuZzN4&hl=en&fs=1 Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Part 7 http://www.youtube.com/v/U0nt0sYjjTo&hl=en&fs=1 Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Part 8 http://www.youtube.com/v/UFGQSzOZUz4&hl=en&fs=1 Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Part 9 |
No comments:
Post a Comment