Nhìn Lại Ngày 30/4/1975
MỘT BÀI NÊN ĐỌC CỦA CỰU DÂN BIÊU VNCH NGUYỄN LÝ TƯỞNG
Chúng tôi vừa nhận được bài của Cựu Dân Biểu VNCH Nguyễn Lý Tưởng. Xin post lên để quý vị và các bạn khắp nơi tham khảo.
Hạnh Dương.
VietPress USA.
________________
1. Tình hình Miền Nam VN trước ngày 30/4/1975.
Về mặt chính tri:
Sau khi lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1/11/1963), các tướng lãnh
thay nhau lãnh đạo Miền Nam VN (tức VNCH). Các cuộc chỉnh lý rồi đảo
chính xảy ra liên tục. Các phong trào tranh đấu của sinh viên và Phật tử
chống chính phủ quân nhân mà ai cũng biết đàng sau các phong trào nầy
là các nhà sư… đặc biệt là hai Thượng Toạ Thích Trì Quang và Thích Thiên
Minh gốc Miền Trung lãnh đạo, với những yêu sách không bao giờ thoả
mãn. (Báo chí thời đó thường gọi là Phật Giáo Ấn Quang để phân biệt với
Việt Nam Quốc Tự do hai Thượng Toạ gốc Bắc Kỳ di cư là Thích Tâm Châu và
Thích Tâm Giác không cùng lập trường… điển hình là biến cố mùa Hè 1966
bàn Phật xuống đường tại Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị). Chính Phủ do Thiếu
Tướng Nguyễn Cao Kỳ lãnh đạo đã cương quyết dẹp tan các phong trào tranh
đấu tại Miền Trung vào mùa Hè 1966 và đã tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập
Hiến sau đó (1966) cho đến ngày 1/4/1967, Hiến Pháp của nền Đệ II Cộng
Hoà ra đời và các cuộc bầu cử Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Dân Biểu Nghị
Sĩ đã tạm thời ổn định tình hình chính trị tại Miền Nam VN.
Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử Tổng Thống ngày 3/9/1967, Liên danh của
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, mặc dầu đang
nắm chính quyền, vẫn không đạt được số phiếu đắc cử trên 50% (mà chỉ đạt
được trên 30% sự tín nhiệm của cử tri). Điều đó chứng tỏ các vị tướng
lãnh không được đa số nhân dân Miền Nam Việt Nam ủng hộ. Sự chia rẽ
trong nội bộ Miền Nam VN sau cuộc bầu cử Tổng Thống 1967 đã làm tan nát
hàng ngũ những người quốc gia chống Cộng.
Mấy tháng sau cuộc
bầu cử là cuộc tổng tấn công, tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Tết Mậu
Thân. Trước tình thế đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cần có sự hợp tác
của các lực lượng chống Cộng có hậu thuẫn quần chúng tại Miền Nam VN để
tạo đoàn kết quốc gia, ổn định tình hình và có được hậu thuẫn chính trị
trong nước trước khi đi gặp Tổng Thống Nixon (mới đắc cử vào năm 1968)
tại Honolulu. Mặt trận 6 đảng ra đời có tên là “Mặt Trận Quốc Gia Dân
Chủ Xã Hội” do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là Chủ Tịch của Chủ Tịch Đoàn
với 6 vị lãnh tụ chính trị là các ông Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc Dân
Đảng), Hà Thúc Ký (Đại Việt Cách Mạng Đảng), Nguyễn Gia Hiến (Lực Lượng
Đại Đoàn Kết tức Công Giáo Bắc Di Cư), Trương Công Cừu (Việt Nam Nhân Xã
Cách Mạng Đảng gọi tắt là Nhân Xã tức hậu thân của Đảng Cần Lao), Trình
Quốc Khánh (Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Hoà Hảo Dân Xã) và
ông Nguyễn Văn Hướng (Tổng Thư Ký Phủ Tổng Thống với Lực Lượng Tư Do Dân
Chủ)…Với hậu thuẫn chính trị của Mặt Trận 6 đảng nầy, Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu đã đi gặp Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon và sau đó, đã cử
phái đoàn tham dự hội nghị Paris (cũng gọi là hoà đàm Paris) gồm có 4
bên: Hoa Kỳ, VNCH và Hà Nội-MTGPMN ….
Từ 1970, Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu và những người ủng hộ ông, đã nhìn thấy tình hình an
ninh được vãn hồi sau Tết Mậu Thân, kế hoạch phượng hoàng đã loại trừ
được các cơ sở nằm vùng của VC trong thành phố cũng như ở nông thôn.
Việc thực hiện chính sách Chiêu Hồi đã có kết quả, bộ đội VC bị bắt hoặc
rời bỏ hang ngũ trở về với VNCH đã lên đến con số 300.000 người…Sự hiện
diện của quân đội Mỹ với những vũ khí tối tân, sự yểm trợ của pháo đài
bay B.52 tại Miền Nam cũng như oanh tạc miền Bắc…Điều đó đã làm cho
những người có chính quyền trong tay an tâm tin tưởng vào sự vững mạnh
của chính quyền và không lo sợ VC nữa. Từ đó họ nghĩ đến cách làm giàu
và hưởng thụ. Tình trạng tham nhũng lan tràn từ trên xuống dưới, tạo nên
sự bất công trong xã hội.
Sau khi củng cố được quyền lực,
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã quay lưng với Mặt Trận 6 Đảng và chuyển
dần qua chế độ độc tài, độc đảng. Cuộc bầu cử Tổng Thống 1971, Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu ứng cử độc diễn, không có ai ra ứng cử tranh với
ông (mặc dầu đã có sự vận động để có tối thiểu là một liên danh đối lập
trong cuộc bầu cử Tổng Thống 1971). Đảng Dân Chủ do Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu làm Chủ Tịch đã chính thức ra đời khiến cho 6 đảng trong Mặt
Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội đương nhiên quay lưng lại với ông và Mặt
Trận nầy đã tự động tan rã không kèn không trống.
Hiệp định
Paris ký kết ngày 27/1/1973 với mục đích để cho Mỹ rút quân khỏi VNCH.
Hiệp định không đề cập đến sự hiện diện của quân Bắc Việt tại Miền Nam
VN và cũng không có điều khoản nào bắt buộc Hà Nội phải rút quân ra khỏi
Miền Nam VN và trở về phía Bắc vĩ tuyên 17, trở lại tình trạng Hiệp
Định Geneve 1954. Như thế là Mỹ đã đạt được mục đích và sau đó họ không
thực hiện lời hứa với VNCH là sẽ viện trợ quân sự, vũ khí, súng đạn và
cho B.52 ném bom ngăn chận sự tái xâm nhập của quân đội Bắc Việt nhằm
xâm lăng VNCH. Như thế, nhìn từ hiệp định Paris, chúng ta thấy, VC hoàn
toàn thắng lợi và VNCH hoàn toàn thất bại về cả hai mặt quân sự lẫn
chính trị.
Sau hiệp định Paris, Hội Đồng Giám Mục Miền Nam VN
đã cho phổ biến một bức thư lên tiếng về tình trạng tham nhũng và bất
công xã hội. Dựa vào tinh thần bức thư đó, LM Trần Hữu Thanh (thuộc Dòng
Chúa Cứu Thế Saigon) đã cho ra đời Phong Trào Chống Tham Nhũng và Kiến
Tạo Hoà Bình. Phe Phật giáo miền Trung (thường được báo chí gọi là PG
Ấn Quang) đã cho thành lập “Lực Lượng Hoà Giải Dân Tộc” do Nghị sĩ Vũ
Văn Mẫu tự nhận là thuộc “thành phần thứ ba” lãnh đạo đã vận động thực
hiện hiệp định Paris, đòi Mỹ rút hết quân đội khỏi Miền Nam VN, đòi lập
CP ba thành phần, và ủng hộ ông Dương Văn Minh trong vai trò lãnh đạo
VNCH thay thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Đồng thời, các chính đảng,
nhân sĩ trí thức, các tôn giáo, truyền thông báo chí cũng như một số Dân
Biểu, Nghị Sĩ cũng ngã theo khuynh hướng đối lập với chính quyền.
Sinh hoạt trong Quốc Hội dần dần tẻ nhạt, khối Dân Biểu, Nghị Sĩ thân
chính chí biết giơ tay biểu quyết theo lệnh của Phủ Tổng Thống, mọi
quyền lợi đều ưu tiên cho khối thân chính trong Quốc Hội mà không nghĩ
gì đến phía đối lập. Để củng cố quyền lực, Tổng Thống Thiệu đã dựa vào
khối đa số (Thân chính) để ban hành các luật thất nhân tâm: sưu cao thuế
nặng, luật uỷ quyền, luật quy chế chính đảng mới, luật tu chính Hiến
Pháp. Mãi đến giai đoạn chót của tình hình trước 1975, các Dân Biểu,
Nghị Sĩ thân chính dưới sự chỉ đạo của ông Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân mới
họp nhau để viết ra một bản điều trần về tình hình đất nước. Nghị sĩ
Trần Trung Dung đại diện nhóm thân chính trong Quốc Hội (lưỡng viện)
trực tiếp trình bày nội dung bản điều trần nầy với Tổng Thống. Nhưng
thiện chí của quý vị nầy xem như đã quá muộn màng và Tổng Thống Thiệu
đang trong cơn khủng hoảng không còn sáng suốt để kịp thời cứu vãn tình
hình được nữa.
Về mặt quân sự
Sau hiệp định Paris, CS
Hà Nội vẫn tiếp tục xâm nhập Miền Nam VN. Năm 1974, VC tấn công Phước
Long và chiếm luôn tỉnh lỵ nầy, đó là bước đầu của một cuộc thăm dò và
cũng là để chứng minh sức mạnh của họ. Quân đội VNCH ở trong tình trạng
thụ động, không phản công tái chiếm. Do đó, CS Hà Nội càng tăng cường
xâm nhập qua đường Trường Sơn (thường gọi là đường mòn Hồ Chí Minh) một
cách ào ạt nào xe tăng, vũ khí, đạn dược và binh lính… mà VNCH không có
khả năng ngăn chận. Mỹ không thực hiện lời hứa sẽ cho B.52 ném bom ngăn
chặn sự xâm nhập của quân Bắc Việt. Năm 1975, Mỹ cũng từ chối viện trợ
bổ túc 300 triệu dollars vũ khí và nhiên liệu cho VNCH. Nói tóm lại, sau
khi rút chân ra khỏi Miền Nam VN, Mỹ để mặc cho số phận Miền Nam VN ra
sao thì ra. Như thế, rõ ràng là Mỹ chủ trương bỏ rơi VNCH.
Trong khi đó, Liên Xô và Trung Cộng chủ trương bành trướng chủ nghĩa CS
khắp thế giới nên đã viện trợ dồi dào vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, xe
tăng… cho Hà Nội để thực hiện mộng xâm lăng của họ. Trên thực tế, hoả
lực của VC mạnh hơn VNCH rất nhiều. Trong khi VNCH phải rải quân ra để
bảo vệ lãnh thổ thì VC lại tập trung lực lượng để tấn công vào một điểm
nhất định. Tại vùng II chiến thuật, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã cho tập
trung quân để bảo vệ Pleiku thì tháng 3, 1975, VC lại tấn công Ban Mê
Thuột. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu chẳng những không
ra lệnh phản công tái chiếm Ban Mê Thuột là vị trí chiến lược quan
trọng, lại còn cho lệnh rút quân khỏi Pleiku làm cho tan rã một Quân
Đoàn, gây hỗn loạn trong quân đội và dân chúng, làm hoang mang các nơi
khác, làm suy sụp tinh thần chiến đấu của binh sĩ khắp nơi.
Sau
khi chiếm được Ban Mê Thuột và các tỉnh Cao Nguyên, VC lại đánh chiếm
Mỹ Chánh, phần đất còn lại phía Nam tỉnh Quảng Trị sau 1972, uy hiếp
Huế. Cũng trong tháng 3, 1975, quân đội VNCH rút khỏi Huế, hàng trăm
ngàn người thi nhau chạy về Đà Nẵng và tìm cách về Sài Gòn, gây khủng
hoảng trầm trọng cho Đà Nẵng cũng như Trung Ương Sài Gòn. Cuối cùng,
trước áp lực của VC, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I phải bỏ Đà Nẵng. Các
tỉnh vùng II rút về Quy Nhơn, Nha Trang và cuối cùng cũng đã bỏ Quy
Nhơn, Nha Trang…để chạy về Sài Gòn. Các thành phố Miền Trung bỏ ngõ, VC
chưa đến mà quân đội và chính quyền đã rút lui, chứng tỏ các cấp chỉ huy
không có một tinh thần trách nhiệm nào và binh sĩ thì đã không còn tinh
thần để chiến đấu trước kẻ thù. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghị, nguyên
là Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở Cần Thơ, bị mất chức vì bị tố cáo tham
nhũng…đã tình nguyện ra trấn giữ Phan Rang chiến đấu bên cạnh các đơn vị
địa phương , để lập công…Nhưng ví quá cô thế, ông cũng đã thất bại và
đã bị VC bắt làm tù binh.
Thừa thắng, Hà Nội huy động toàn lực
Miền Bắc tiến thắng vào Nam trên Quốc Lộ I (từ Bắc vào Nam) mà không
gặp trở ngại nào. Các tỉnh vùng IV (đồng bằng sông Cửu Long) vẫn còn
toàn vẹn, chưa bị tan rã. Mặt trận Long Khánh vẫn còn quyết liệt, Tướng
Lê Minh Đảo và Sư Đoàn 18, bước đầu bảo vệ được ngõ vào Sài Gòn. Nhưng
từ ngày 19/3/1975 trở đi, đồng bào cũng đã bỏ nhà cửa, tài sản kéo nhau
chạy về Saigon. Sau ngày 20/4/1975 kể như Long Khánh đã bị VC tràn ngập
và Tướng Lê Minh Đảo cũng phải rút về Sài Gòn.
2.-Sài Gòn ngày 30/4/1975
Lúc bấy giờ tại Sài Gòn có dư luận cho rằng sở dĩ Mỹ không viện trợ cho
VNCH vì Mỹ không ủng hộ TT Thiệu và muốn TT Thiệu phải ra đi…Sau đó,
Thủ Tướng Trần Thiên Khiêm đã cùng Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên chính
thức gặp TT Nguyễn Văn Thiệu, yêu cầu Tổng Thống từ chức để giải quyết
tình hình. TT Thiệu trả lời: Theo Hiến Pháp thì Thủ Tướng từ chức chứ TT
không từ chức.
Vào những ngày đầu tháng 4, 1975, sau khi mất
các tỉnh vùng I và Vùng II, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm từ chức. Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu chọn ông Nguyễn Bá Cẩn, Chủ Tịch Hạ Nghị Viện lên
làm Thủ Tướng, lập một chính phủ gọi là “đoàn kết”. Nội các Nguyễn Bá
Cẩn tồn tại được 13 ngày (từ 4/4/75 đến 27/4/75).
Tối
21/4/1975, TT Thiệu lên Đài Phát Thanh Sài Gòn tuyên bố từ chức để trao
quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương (theo Hiến Pháp). Tối
22/4/75, Tổng Thống Thiệu và Cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm được Đại Sứ
Mỹ Martin đưa lên máy bay rời Saigon. Ngày 23/4/1975, Tân Thủ Tướng
Nguyễn Bá Cẩn xin từ chức. Tân Tổng Thống Trần Văn Hương yêu cầu ông
tiếp tục xử lý thường vụ cho đến khi có Chính Phủ mới.
Lực
lượng Hoà Giải Dân Tộc của NS Vũ Văn Mẫu được hậu thuẫn của Thượng Toạ
Thích Trí Quang (PG khối Ấn Quang) đang vận động ráo riết để cho Đại
Tướng Dương Văn Minh thay thế Cụ Trần Văn Hương. Trong lúc đó, Phong
Trào Quốc Gia Cấp Tiến họp đại hội vào ngày 27/4/1975 ra tuyên bố “sẵn
sàng nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử” và cá nhân GS Nguyễn Ngọc Huy
(Tân CT Phong Trào QGCT thay thế GS Nguyễn Văn Bông bị ám sát chết mấy
năm trước đây) cũng đã đích thân vận động với TT Trần Văn Hương cử ông
làm Thủ Tướng thay thế ông Nguyễn Bá Cẩn sau khi được tin TT Thiệu đã
rời khỏi VN.
Trung Tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng
Trưởng Quốc Phòng trong CP Nguyễn Bá Cẩn cũng muốn cái ghế Thủ
Tướng…Ngày 26/4/1975, TT Trần Văn Hương đến trình bày trước Quốc Hội
Lưỡng Viện đề nghị các DB, NS chấp thuận trao quyền cho Đại Tướng Dương
Văn Minh thay ông làm Tổng Thống để nói chuyện với phía CS. Các DB thuộc
đảng Tân Đại Việt (Phong Trào QGCT) như Nhan Minh Trang, Nguyễn Ngọc
Tân…đã lên diễn đàn chống việc trao quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh
trong khi đó, DB Lý Quý Chung lại xin Quốc Hội Lưỡng Viện chấp thuận
trao quyền cho ĐT Dương Văn Minh và ông tuyên bố ĐT Dương Văn Minh là
một quân nhân, nhất định sẽ chiến đấu bảo vệ VNCH, không đầu hàng CS.
Ngày 27/4/1975, phái đoàn do Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu
Trưởng) và Trung Tướng Trần Văn Đôn (Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc
Phòng)… đến trình bày tình hình quân sự trước Quốc Hội đề nghị Quốc Hội
chấp thuận trao quyền cho ĐT Dương Văn Minh…Những DB, NS không đồng ý
đã phát biểu rằng:“ theo Hiến Pháp, nếu Tổng Thống và Phó Tổng Thống đều
mệnh một hay từ chức thì người kế vị để lãnh đạo quốc gia sẽ là Chủ
Tịch Thượng Nghị Viện. Ông Dương Văn Minh không có tư cách dân cử và đã
một lần lên nắm chính quyền sau khi TT Ngô Đình Diệm bị lật đổ và đã
chứng tỏ không có khả năng gì để ổn định tình hình, trái lại còn giúp
cho CS phát triển nhanh chóng và lấn chiếm Miền Nam…Nhiều người biết rõ
ông Dương Văn Minh có người em là sĩ quan cao cấp trong hàng ngũ CS và
cả hai bên đã nhiều lần liên lạc với nhau…” Nhưng cuối cùng, Quốc Hội
cũng đã chấp thuận trao quyền cho ĐT Dương Văn Minh mặc dù biết làm như
vậy là vi hiến. Trước khi Quốc Hội biểu quyết, những NS và DB bất đồng ý
kiến…đã bỏ phòng họp ra đi. Họ trở về nhà và lo tìm đường chạy thoát
trước khi CS tiến vào Sài Gòn. Tại Thượng Nghị Viện, sau khi tan họp,
Ông Chủ Tịch Trần Văn Lắm cũng đã bí mật rời khỏi VN và trao lại cho
Trung Tá Nguyễn Bá Tường (Chánh Văn Phòng) một cái xách tay trong đó có
chìa khoá văn phòng và con dấu Chủ Tịch TNV. Ngoài ra còn một mảnh giấy
viết tay của ông Trần Văn Lắm gửi cho ông Trần Trung Dung, Đệ I Phó
CT/TNV “uỷ quyền cho ông Trần Trung Dung thay thế ông Trần Văn Lắm xử lý
thường vụ Chủ Tịch TNV”…
Tối 28/4/1975, trong cuộc bàn giao
giữa Tổng Thống Trần Văn Hương và Đại Tướng Dương Văn Minh tại Dinh Độc
Lập, ông Dương Văn Minh đã trình diện Nội Các tạm thời chỉ có 3 người
là: Cụ Nguyễn Văn Huyền (Phó Tổng Thống) và GS Vũ Văn Mẫu (Thủ
Tướng)…những chức vụ khác trong Chính Phủ chưa có. Việc lập Nội Các mới
vào ngày hôm sau cũng chưa hoàn thành. (Theo lời Trung Tướng Nguyễn Hữu
Có kể lại: Ngay sau đó, Ông Dương Văn Minh đã nhờ Thượng Toạ Thích Trí
Quang liên lạc với VC, đồng thời đã cử một phái đoàn do cụ Nguyễn Văn
Huyền vào gặp VC tại trại David trong phi trường Tân Sơn Nhứt, đưa đề
nghị ngưng chiến để thương lượng. Nhưng tất cả mọi người đã bị CS lừa
gạt. Các tướng lãnh có trách nhiệm đều đã bỏ trốn, Bộ Tổng Tham Mưu vắng
vẻ, không còn một người nào. Ông Dương Văn Minh đã cử các tướng Vĩnh
Lộc, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Có, Đỗ Kế Giai, v.v….đứng ra tổ chức lại
quân đội nhưng đã quá muộn. VC đang tiến vào Sài Gòn và lên tiếng trên
đài phát thanh “Giải Phóng” kêu gọi Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện
và trao quyền lại cho họ. Tân Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đã lên tiếng yêu cầu
người Mỹ hãy rút ra khỏi Việt Nam để nội bộ người Việt Nam tự giải
quyết với nhau trong tinh thần huynh đệ.
Trở lại tình hình nước
Mỹ trước ngày 30/4/1975, trong khi tinh hình VN rất đen tối thì tại Hoa
Kỳ, TT Nixon rồi Phó TT Agnew phải từ chức vì vụ Water Gate, Quốc Hội
Mỹ đã đề cử ông Geral Ford lên làm Tổng Thống. Tân Tổng Thống Ford đã
cam kết tiếp tục chính sách của TT Nixon, sẽ không bỏ rơi VN. Nhưng Quốc
Hội Mỹ đã từ chối viện trợ bổ túc về quân sự cho VN…Và dư luận báo chí
Mỹ lúc đó đang nghiêng về phong trào phản chiến, chủ trương tìm một giải
pháp chính trị cho VN và chấm dứt chiến tranh. Điều đó hoàn toàn bất
lợi cho VNCH và tất nhiên là có lợi cho CS…Trong những ngày cuối cùng
trước khi Sài Gòn rơi vào tay CS, Mỹ đã di tản nhân viên của Toà Đại Sứ
và các cơ quan quân sự của họ ra khỏi Việt Nam bằng máy bay…
Đại sứ Pháp tại Sài Gòn, ông Merillon và Tướng Vanuxem đã đứng ra liên
lạc với VC cũng như với ông Dương Văn Minh, đề nghị một giải pháp chính
trị cho VN. Ông cũng đề nghị ông Dương Văn Minh kêu gọi 13 quốc gia ký
tên bảo đảm cho việc thi hành hiệp định Paris trong đó có Trung Cộng,
hãy trực tiếp can thiệp để ngăn chận sự xâm lăng của Hà Nội, để bảo đảm
cho Miền Nam một chế độ trung lập với ba thành phần…Nhưng Dương Văn Minh
và những người chung quanh ông ta lúc đó đã chủ trương đầu hàng CS nên
đã từ chối lời đề nghị này. Giờ chót Tướng Vanuxem gặp Trung Tướng Vĩnh
Lộc phía sau lưng nhà thờ Đức Bà Saigon…Ông đã khóc khi báo tin cho
Trung Tướng Vĩnh Lộc biết “sứ mạng của ông ta đã thất bại” và khuyên
Trung Tướng Vĩnh Lộc hãy tự lo cho bản thân. Trung Tướng Vĩnh Lộc liền
đến gặp Đại Tá Hải Quân Nguyễn Văn Tấn và Đại Tá Tấn đã giúp cho ông và
gia đình lên tàu hải quân tại bến Bạch Đằng (Sài Gòn) di tản ra khỏi VN.
Trong khi Đại Tá Tấn cùng gia đình đã bước lên tàu nầy thì phu nhân của
Đại Tá lên cơn đau tim phải đưa vào cấp cứu ở trong bệnh viện Grall của
Pháp gần đó. Vì thế Đại Tá Tấn và gia đình đã kẹt lại và sau đó phải đi
trình diện “học tập cải tạo” vì chiếc tàu kia không thể chờ đợi được,
đành phải nhổ neo cho kịp giờ…(Thời gian gặp nhau trong nhà tù CS sau
1975, chính Đại Tá Nguyễn Văn Tấn đã kể lại cho Nguyễn Lý Tưởng chi tiết
nầy)
Sáng 30/4/1975, trong lúc CS trên đường tiến vào Sài Gòn
thì Dương Văn Minh đã tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn “đầu hàng CS”
và kêu gọi quân đội ngưng chiến. Xe tăng của CS tiến vào Dinh Độc Lập,
nơi đó, Dương Văn Minh và những người ủng hộ ông đang có mặt để trao
quyền lại cho CS…
Tại Cần Thơ, ngay khi được tin ông Dương Văn
Minh thay thế Cụ Trần Văn Hương làm Tổng Thống VNCH, Thiếu Tướng Nguyễn
Khoa Nam đã tiếp một phái đoàn của Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ từ
Sài Gòn đến bằng máy bay trực thăng. Ông Nguyễn Cao Kỳ và các chính
khách Sài Gòn đã đề nghị ông Nguyễn Khoa Nam với tư cách Tư Lệnh vùng IV
(đồng bằng sông Cửu Long) cương quyết giữ vững Vùng IV để cho anh em
khắp nơi chạy về đây góp sức nhau tạo thành một lực lượng tự vệ hầu có
thể thương lượng với CS. Nhưng ông Nguyễn Khoa Nam trả lời: “Tôi là một
quân nhân, tôi không làm chính trị, tôi chỉ biết chấp hành mệnh lệnh của
cấp chỉ huy. Trước đây Tổng Thống Thiệu là cấp chỉ huy của tôi và bây
giờ Đại Tướng Dương Văn Minh là cấp chỉ huy của tôi…”. Phái đoàn của ông
Nguyễn Cao Kỳ thất vọng trở về Saigon, sau đó, mạnh ai nấy chạy thoát
thân.
Sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, các tướng Phạm
Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ…đã tự
tử…
Khi nghe tin Duong Van Minh đã đầu hang và bộ đội CS đang
tiến vào Sài Gòn, đồng bào mạnh ai nấy chạy, tìm đường thoát khỏi chế độ
CS bằng đủ mọi phương tiện: máy bay, tàu thuỷ, ghe thuyền…Những người
còn ở lại chịu áp bức, tù dày, kỳ thị, mất nhà cửa tài sản, ruộng vườn,
mất việc làm, mất mọi quyền tự do của một công dân trong chế độ dân chủ
mà quan trọng nhất là quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng. Các
tu viện, trường học, cơ sở văn hoá, từ thiện của các tôn giáo bị tịch
thu, các tu sĩ bị bắt, bị tù dày, bị xử tử…vì dám đứng lên tranh đấu cho
tự do tôn giáo. Từ 1975 các cuộc tranh đấu đòi xoá bỏ chế độ CS, đòi tự
do tôn giáo, đòi thực thi các quyền tự do dân chủ, nhân quyền…vẫn tiếp
tục diễn ra khắp mọi nơi, mọi lúc, ở trong nước, ở hải ngoại, từ thế hệ
già cho đến thế hệ trẻ, không phân biệt nam nữ, địa phương, sắc
dân…không bao giờ ngừng. Hàng triệu người bỏ nước ra đi không phải để
kiếm cái ăn, cái mặc nhưng trước hết là để được sống tự do, không bị áp
bức về tư tưởng, về tôn giáo, không bị phân chia giai cấp, không bị ràng
buộc bởi lý lịch, được thăng tiến theo tài năng của mình…
Chuyện bên lề về VC Dương Văn Nhật (em Dương văn Minh)
Thời gian tôi bị giam giữ tại trại tù Hà Tây (tỉnh Hà Sơn Bình, miền
Bắc VN) khoàng 1978, tôi có gặp Đại Tá Nguyễn Lễ Trí là Chánh Văn Phòng
của Đại Tướng Dương Văn Minh. Vợ của Nguyễn Lễ Trí là em ruột vợ của
Dương Văn Minh…Ông Nguyễn Lễ Trí đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
Ông Dương Văn Minh có hai người em trai: một người là Dương Thanh Sơn,
sĩ quan VNCH năm 1964 mang cấp bậc Thiếu Tá Quân Cụ tại Sài Gòn. Người
khác là Dương Văn Nhật mang cấp bậc Đại Tá (sau này lên Tướng của CS Hà
Nội). Năm 1963, ngay sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ thì VC
cho Dương Văn Nhật về Sài Gòn liên lạc với Dương Văn Minh. Dương Văn
Nhật được bố trí ở tại nhà người em là Thiếu Tá Dương Thanh Sơn (trước
1975 là Đại Tá Quân Cụ)…Một hôm, ông Dương Văn Minh ra lệnh cho ông
Nguyễn Lễ Trí (năm 1964 là Thiếu Tá) lái xe đến nhà Thiếu Tá Dương Thanh
Sơn chở một người (không cho biết tên) và dặn: ông nầy bảo chở đi đâu
thì cứ chở đi…đừng hỏi han gì cả…
Ông Nguyễn Lễ Trí đã sử dụng
xe Jeep nhà binh đến nhà ông Dương Thanh Sơn và đã chở một người đi từ
Sài Gòn về hướng Tây Ninh (Củ Chi) đến một quãng xa, bên cạnh cánh đồng
lúa xanh, đàng xa xa giữa cánh đồng, có một xóm nhà…Ông kia ra dấu cho
ông Nguyễn Lễ Trí ngừng lại…ông ấy xuống xe, đi bộ qua cánh đồng và khi
đã khuất sau xóm nhà thì ông Nguyễn Lễ Trí mới lái xe về trình lại với
ông Dương Văn Minh “đã thi hành xong”…Về sau mới biết người đó chính là
tên sĩ quan VC Dương Văn Nhật, em ruột ông Dương Văn Minh…
Khoảng từ 1969-1970, lúc đó ông Dương Văn Minh đang ở bên Thái Lan thì
Dương Văn Nhật được Hà Nội cho qua Pháp chữa bệnh. Hai anh em Minh và
Nhật thường liên lạc với nhau qua con trai của ông Minh du học bên Pháp
thường qua lại Thái Lan thăm ông Dương Văn Minh.
Vợ con ông
Đại Tá Nguyễn Lễ Trí, vốn là gốc dân Tây, quốc tịch Pháp, nên đã rời Sài
Gòn qua Pháp trước ngày 30/4/1975. Khi ông Dương Văn Minh thay Cụ Trần
Văn Hương làm Tổng Thống vào ngày 28-29/4/1975, ông Minh đã đem ông
Nguyễn Lễ Trí về làm Chánh Văn Phòng…Gia đình ông Nguyễn Lễ Trí ở chung
với mẹ vợ (cũng là mẹ vợ của ông Dương Văn Minh) tại Sài Gòn. Sau ngày
30/4/1975, Dương Văn Nhật từ Hà Nội vào Sài Gòn và chiếm ngôi nhà của
ông Nguyễn Lễ Trí, đuổi mẹ vợ ông Nguyễn Lễ Trí và cũng là mẹ vợ ông
Dương Văn Minh ra ở garage. Tất cả đồ đạc trong nhà như giày dép, quần
áo của ông Nguyễn Lễ Trí (đồng phục sĩ quan bằng len…) đều bị Dương Văn
Nhật lấy từ trong tủ ra để xài xem như của mình, chẳng e ngại gì
hết…thậm chí những vật ưa ý để trong tủ kính (kiếng) cũng lấy cho người
nầy người khác hoặc bán lấy tiền xài…Bà mẹ vợ ông Dương Văn Minh thấy
vậy rất buồn. Những người làm việc cho ông Dương Văn Minh tại Dinh Độc
Lập như Đại Tá Nguyễn Lễ Trí và Đại Tá Vũ Quang Chiêm (một ông là Chánh
Văn Phòng, một ông là Chánh Võ Phòng) đều bị đi tù cải tạo. Không có ai
được miễn đi học tập…Riêng Đại Tá Nguyễn Lễ Trí vì đã cho vợ con trốn đi
Pháp trước nên có tội và không được ân huệ gì hết…Bà mẹ vợ của ông
Dương Văn Minh thấy tư cách của Dương Văn Nhật như vậy nên rất khinh bỉ
anh ta…Ngoài ra vì bà cũng bị đối xử quá tệ nên rất buồn và mang bệnh,
chết tại Sài Gòn. Ông Nguyễn Lễ Trí phải nằm tù nhiều năm, đói, bệnh,
nhục nhã nhiều nên rất bất mãn và căm tù CS…Sau khi được ra tù, nhờ vợ
con bảo lãnh qua Pháp…Ông Nguyễn Lễ Trí xác nhận với Nguyễn Lý Tưởng:
Dương Văn Minh đã liên lạc với CS ngay sau khi TT Ngô Đình Diệm bị lật
đổ…xem như ông ta là người có công với CS.
Kết thúc bài nầy:
Tôi có nhiều điều muốn nói thêm nhưng sẽ có nhiều cơ hội để nói sau
nầy…Đối với những người hiện nay vào tuôi 60 trở lên, có mặt tại VN ngày
30/4/1975 thì những điểu tôi ghi lại trên đây thật thiếu sót…Nhưng chủ ý
của tôi là kể lại cho những người trẻ tuổi, thế hệ sau chúng tôi, sinh
vào khoàng 1975 trở về sau, chưa từng thấy, chưa từng nghe những chuyện
nầy…để họ biết được phần nào sự thật lịch sử của ngày 30/4/1975.
Westminster, CA ngày 13/4/2013
GS Nguyễn Lý-Tưởng
Cựu Dân Biểu VNCH
No comments:
Post a Comment