Saturday, March 22, 2014


Today at 5:36 PM

XIN THEO DÕI NGUYÊN NHÂN XA , GẦN ĐƯA ĐẾN THẾ CHIẾN- NHỮNG THỦ ĐOẠN RẤT BÀI BẢN - ĐƯA ĐẾN CHIẾN TRANH TỔNG LỰC - NHÌN QUA BIẾT NGAY- KHÔNG CẦN PHÁN ĐOÁN QUANH CO
 
anh truong
 
THẾ CHIẾN LẦN THỨ II
tka23 post
Với  quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có không quân và tàu ngầm,
Đức  phát triển thành một quân đội hùng mạnh nhất thế giới rồi gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai(1939-1945).
   Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan. Cuộc xâm lược khiếnAnh  Pháp tuyên chiến với Đức, theo hiệp ước hai nước này đã ký kết với Ba Lan.
   Theo sau Anh, các nước Úc, Canada, New Zealand, Cộng hoà Nam Phi cũng tuyên chiến với Đức. Sau chiến dịch tại Ba Lan, chiến tranh bước đến một giai đoạn tương đối im lặng gọi là Chiến tranh Giả vờ.
   Giai đoạn này kết thúc khi Đức xâm chiếm Đan Mạch và Na Uy vào tháng 4 năm 1940 và Hà Lan, Bỉ  Pháp vào tháng 5. Tất cả các nước bị xâm chiếm lần lược bị sụp đổ trong khi Anh và các đồng minh bị tổn thất nặng nề tại Na Uy và phải rút quân ra khỏi Pháp. Anh lại có nguy cơ bị đổ bộ, nhưng trong cuộc chiến trên bầu trời Anh, Luftwaffe (Không quân Đức Quốc xã) đã không giành được ưu thế và vì vậy Đức Quốc Xã đã đình hoãn kế hoạch xâm chiếm.
    Các sự kiện quân đội Đức bị đánh bại ở Trận Stalingrad năm 1942, ở Trận Kursk năm 1943, ở Chiến dịch Bagrachion năm 1944 và sự kiện Hoa Kỳ cùng các đồng minh Anh và Canada mở Mặt trận phía Tây tháng 6 năm 1944 đã làm thay đổi cán cân lực lượng bất lợi cho Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt với sự đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện của Đức, sự sụp đổ của Đức quốc xã, và cái chết của Adolf Hitler.
Trong hai năm đầu, chiến thuật của Đức Quốc xã là nói chuyện hòa bình, bí mật chuẩn bị chiến tranh, thực hiện chính sách ngoại giao cẩn trọng, tái vũ trang trong bí mật nhằm tránh các nước Đồng Minh viện dẫn Hòa ước Versailles để chống Đức bằng quân sự.

Chương trình tái vũ trang 1934-1936

Trong lúc này, Đức Quốc xã theo đuổi một cách không mệt mỏi chương trình tái vũ trang. Quân đội  tăng quân số lên gấp ba – từ 100.000 lên 300.000 quân tính đến ngày 1 tháng 10 năm 1934.
   Hải quân Đức (Kriegsmarine) đã bắt đầu đóng hai chiếc  thiết giáp hạm  26.000 tấn (Hòa ước Versailles hạn định tối đa 10.000 tấn).
   Việc đóng tàu ngầm, mà Hòa ước Versailles ngăn cấm, đã được thực hiện  bí mật ở Phần Lan, Hà Lan  Tây Ban Nha dưới chế độ Cộng hòa Weimar.
  Hermann Göring cũng tất bật trong hai năm này để lo gây dựng Không quân. Với tư cách là Bộ trưởng Hàng không – được hiểu là Hàng không Dân sự  – ông đặt hàng cho các cơ xưởng thiết kế máy bay chiến đấu.
   Việc đào tạo phi công quân sự được bắt đầu ngay dưới lốt ngụy trang Liên đoàn phi công  Thể thao.
Ngày 16 tháng 3 năm 1935, Adolf Hitler ban hành nghị định thiết lập chế độ quân dịch và một quân đội thời bình gồm có 12 quân đoàn và 36 sư đoàn – khoảng nửa triệu quân .
   Pháp và Anh chỉ lên tiếng phản đối nhưng không có hành  động  nào khác. Xiềng xích  hiệp ước Versailles, biểu tượng của chiến bại và nỗi nhục nhã của Đức, đã bị tháo bỏ.
Ngày 21 tháng 5 năm 1935, Hitler bí mật ban hành Luật Bảo vệ Đế chế, bổ nhiệm TS. Hjalmar Schacht làm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh và tái tổ chức quân lực; Bộ Quốc phòng được đổi thành Bộ Chiến tranh. Quân đội Đức từ danh hiệu Reichswehr (Quân Phòng vệ Đế chế) dưới thời Cộng hòa Weimar bây giờ được chuyển thành Wehrmacht (Lực lượng Phòng vệ). Hitler kiêm thêm Tư lệnh Tối cao Quân lực, Đại tướng Werner von Blomberg được chỉ định làm Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực. Mỗi quân chủng có Tư lệnh và Bộ Tư lệnh riêng. TướngLudwig Beck được chỉ định là Tham mưu trưởng Lục quân.
Cùng ngày, Hitler đề nghị việc giải trừ quân bị. Đặc biệt, Đức sẵn sàng giới hạn Hải quân Đức mới ở mức 35% của trọng tải lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh. Chính phủ Anh rơi vào bẫy của Hitler một cách ngây thơ, nông nỗi  xóa bỏ mọi hạn chế hải quân ghi trong Hòa ước Versailles. Vì lẽ, đồng ý cho Đức gây dựng hải quân bằng 35% hải quân Anh tức là đã cho phép Đức tự do đóng tàu cho hạm đội càng nhanh càng tốt theo khả năng có thể – ngang bằng khả năng huy động tối đa các xưởng đóng tàu và nhà máy thép trong 10 năm. Vì thế, đây không phải là giới hạn tái vũ trang của Đức mà là khuyến khích bành trướng binh chủng hải quân nhanh chóng theo khả năng của Đức.
Đức chiếm Rhineland
Sáng 7 tháng 3 năm 1936, một lực lượng nhỏ của Đức đi qua các cầu sông Rhine và tiến vào khu phi quân sự Rhineland. Lực lượng Đức bao gồm từ 4 lữ đoàn (theo Hitler cho biết) đến 3 sư đoàn (theo Quân báo của Đồng Minh). Pháp lo tập trung 30 sư đoàn gần biên giới Đức, nhưng chỉ để tăng cường cho Phòng tuyến Maginot. Hitler dám đánh ván bài liều là do Pháp lưỡng lự và Anh nhu nhược. Anh không muốn gây rủi ro chiến tranh cho dù lực lượng của Đồng Minh vượt trội hẳn so với Đức.
Ngày 7 tháng 3 năm 1936, Hitler giải tán Nghị viện, tổ chức "bầu cử" mới và trưng cầu dân ý về việc Đức chiếm Rhineland. Theo tài  liệu chính thức, 99% cử tri đi bỏ phiếu trưng cầu dân ý, và 98,8% chấp thuận hành động của Hitler.
Ngày 30 tháng 1 năm 1937, Hitler đọc diễn văn trước Nghị viện, tuyên bố "rút chữ ký" của Đức ra khỏi Hòa ước Versailles. Đây là hành động rỗng tuếch nhưng đặc biệt  của Hitler, vì  hòa ước đã bị Đức khai tử từ lâu.

Nước cờ định mệnh ngày 5/11/1937

Buổi chiều 5 tháng 11 năm 1937, Hitler triệu 6 người đến để ông trình bày chiến lược quân sự: Thống chế Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Werner von Blomberg, Đại tướng Tư lệnh Lục quân Werner von Fritsch, Đô đốc Tư lệnh Hải quânErich Raeder, Đại tướng Tư lệnh Không quân Hermann Göring, Nam tước Ngoại trưởng Konstantin von Neurath, và Đại tá Hossbach, tùy viên quân sự cho Hitler. Hitler  thông báo quyết định không gì lay chuyển được: tiến hành chiến tranh. Các tư lệnh và vị Ngoại trưởng đối mặt với những thời điểm cụ thể để thật sự tấn công hai nước láng giềng Tiệp Khắc  Áo – hành động mà họ tin chắc sẽ dẫn đến chiến tranh toàn Châu Âu. Họ phải sẵn sàng vào năm 1938, và chậm nhất là 1943-1945.

Blomberg, Fritsch, Neurath và Schacht bị loại

Cả Werner von Blomberg, Werner von Fritsch, Konstantin von Neurath  Hjalmar Schacht đều tỏ ý ít nhiều chống lại quyết định đi đến chiến tranh của Hitler. Chẳng bao lâu, họ đều rơi rụng bằng cách này hay cách khác. Neurath và Schacht bị thay thế, riêng hai tướng Blomberg và Fritsch bị dàn cảnh để rồi bị loại ra khỏi quân đội.

Áo sáp nhập vào Đức

Trong buổi hội kiến với Thủ tướng Áo Kurt Schuschnigg, Hitler đưa tối hậu thư với các điều kiện: Áo phải bãi bỏ lệnh cấm Đảng Quốc xã Áo, ân xá mọi đảng viên Quốc xã đang ngồi tù, cử luật gia thân Quốc xã TS. Arthur Seyss-Inquart làm Bộ trưởng Nội vụ với quyền hành chỉ huy các lực lượng cảnh sát và an ninh, cử hai người thân Quốc xã khác làm Bộ trưởng Chiến tranh và Bộ trưởng Tài chính. Cộng thêm sự đe dọa của Đức sẽ tấn công bằng quân sự, Schuschnigg từ chức, Seyss-Inquart lên thay. Đức ngụy tạo một bức điện tín của Seyss-Inquart kêu gọi Hitler đưa quân vào Áo để lập lại trật tự.
Ngày 12 tháng 3 năm 1938, quân Đức tiến vào Áo trong khi Bộ Ngoại giao Đức cho rằng phát biểu của Schuschnigg về tối hậu thư của Đức là "hoàn toàn bịa đặt".
Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 10 tháng 4 năm 1938, đa số người Áo bỏ phiếu thuận theo Hitler để sáp nhập Áo vào Đức. Không cần bắn một phát súng và không có sự can thiệp của Anh, Pháp và Liên Xô vốn có lực lượng quân sự áp đảo, Đức Quốc xã chiếm được một vị trí chiến lược có giá trị to  lớn lao cho những kế hoạch trong tương lai. Quân đội của Đức chế ngự Tiệp Khắc ở ba mặt, và Áo là cửa ngõ mở ra vùng Đông-Nam Châu Âu.
Cũng vào giữa năm 1938, khi Đức ngấp nghé thôn tính tiếp Tiệp Khắc, nổi lên bước khởi đầu của phong trào chống Hitler, kéo dài cho đến gần cuối cuộc chiến.

Đức thôn tính Tiệp Khắc

Đức lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người Đức thiểu số ở Tiệp Khắc làm cái cớ để xâm chiếm  nước này, trong khi Anh và Pháp vẫn chưa nhận ra mưu đồ ấy. Hitler chỉ thị cho Đảng người Đức Sudeten thân Quốc xã là "phải ra những đòi hỏi mà chính phủ Tiệp Khắc không thể chấp nhận", tức "phải luôn đòi hỏi nhiều để ta không bao giờ được thỏa mãn". Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain gây áp lực bắt Tiệp Khắc phải nhượng bộ.
Kết quả là Tiệp Khắc nhường cho Đức gần 30.000 kilômét vuông lãnh thổ. Trên lãnh thổ này là một hệ thống lô cốt mà từ trước đến giờ tạo nên tuyến phòng thủ vững chắc nhất Châu Âu, có lẽ chỉ kém Phòng tuyến Maginot của Pháp. Cả hệ thống đường sắt, đường bộ,điện thoại  điện tín của Tiệp Khắc đều bị xáo trộn. Theo tài  liệu của Đức, Tiệp Khắc mất trên dưới 80% than non, hóa chất, xi măng; trên dưới 70% than đá, sắt, thép, điện năng; và 40% gỗ. Một đất nước công nghiệp phồn thịnh trong phút chốc bị tan rã và phá sản.
Đức Quốc xã thôn tính Memel
Memel, một cảng trên bờ Biển Baltic với khoảng 40.000 dân, đã bị Hòa ước Versailles cắt ra từ Đức để trao cho Litva. Hitler quyết định chiếm Memel từ ngoài biển. Ông và Thủy sư Đô đốc Erich Raeder muốn phô trương sức mạnh của hải quân nên cả hai đi trên chiếc tàu thiết giáp bỏ túi Deutschland đến Memel ngày 22 tháng 3 năm 1939, đúng một tuần sau khi Hitler tiến vào thủ đô Praha của Tiệp Khắc. Ngày hôm sau, Litva đã chịu ký nhường Memel lại cho Đức.
Lúc 2:30 giờ chiều ngày 23 tháng 3 năm 1939, Hitler có thêm một chuyến đi chiến thắng vào một thành phố mà ông vừa thôn tính, lần này ở Memel ông cũng phát biểu với một đám đông người Đức mà ông vừa "giải phóng". Thêm một điều khoản của Hòa ước Versailles đã bị xé bỏ. Thêm một cuộc thôn tính không đổ máu. Dù cho Hitler không biết, đấy là cuộc thôn tính không đổ máu cuối cùng.

Hiệp ước Xô-Đức


Ngày 23 tháng 8 năm 1939, Ngoại trưởng Joachim von Ribbentrop của Đức và Ngoại trưởng Viatcheslav Mikhaïlovitch Molotov của Liên Xô ký kết Hiệp ước Xô-Đức hay còn gọi là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, có tên chính thức là "Hiệp ước Bất tương xâm giữa Đức và Liên bang Xô viết". Nghị định thư bí mật đính kèm quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva  România thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Hai bên đồng ý phân chia Ba Lan. Nhiều năm trước, Hitler đã tiên đoán trong quyển Mein Kampf: "Việc ký kết mối liên minh với Nga chỉ là kế hoạch cho cuộc chiến kế tiếp". Trong lúc này, Đức được rảnh tay với Liên Xô để chú tâm thôn tính Ba Lan.
alt
alt
Các nước dưới sự chiếm đóng của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Đức tấn công Ba Lan

Sáng ngày 1 tháng 9 năm 1939, quân Đức tràn qua biên giới Ba Lan và đều hướng về thủ đô Warszawa từ ba phía bắc, nam và tây. Đức đã lấy cuộc tấn công giả tạo của Đức vào đài truyền thanh của Đức ở Gleiwitz nhằm biện minh cho hành động gây hấn lạnh lùng với Ba Lan.
Ngày 3 tháng 9, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.
Ngày 17 tháng 9,  Tập đoàn quân Bắc dưới quyền Tướng Fedor von Bockbắt tay với Tập đoàn quân 14 của Tướng Siegmund von List, bao vây tất cả lực lượng Ba Lan. Vài nhóm lẻ tẻ còn chống cự một cách anh dũng, nhưng số phận của họ đã bị khép lại.
Bắt đầu từ ngày 17 tháng 9, Liên Xô đưa quân vào Ba Lan. Ngày 29 tháng 9, Molotov và Ribbentrop ký kết một hiệp ước mới gọi là "Hiệp ước Biên giới và Hữu nghị Đức-Liên Xô" quy định những quyền lợi của hai quốc gia; trong mỗi lãnh thổ chiếm được hai quốc gia sẽ tái lập "hòa bình và trật tự" và " cư dân sống ở đấy một đời sống an bình trong việc gìn giữ bản sắc dân tộc của họ". Cũng có nghị định thư mật thêm Litva vào "vùng ảnh hưởng" của Liên Xô.
Hitler đã thắng cuộc chiến ở Ba Lan, nhưng người hưởng lợi nhiều nhất là Stalin, và quân đội Liên Xô hầu như không phải nổ phát súng nào. Liên Xô chiếm gần phân nửa Ba Lan và bóp nghẹt các nước vùng Baltic.

Chiến tranh giả vờ ở phía Tây

Không có gì nhiều xảy ra ở phía Tây. Hầu như không có tiếng súng nổ. Đức không lấy làm ngạc nhiên lắm; họ xem việc Pháp tấn công là khó xảy ra.
Tham mưu trưởng Hành quân Alfred Jodl của Bộ Tổng tham mưu khai trước Tòa án Nürnberg:
Nếu chúng tôi không sụp đổ năm 1939, đấy chỉ nhờ sự kiện là trong chiến dịch Ba Lan, khoảng 110 sư đoàn Pháp và Anh hoàn toàn bất động khi đối mặt với 23 sư đoàn của Đức.
Có nhiều lý do tại sao quân đội Pháp không tấn công Đức: tư tưởng chủ bại trong quân đội, chính phủ và người dân Pháp; hồi ức trongThế chiến thứ nhất khi Pháp bị bỏ mặc cho đến kiệt quệ và e sợ cuộc thảm sát tương tự lần này; Pháp nhận ra rằng vào giữa tháng 9 quân đội Ba Lan đã bị đánh tan nát và Đức chẳng bao lâu sẽ chuyển quân về phía Tây và có thể đẩy lùi bước tiến của Pháp.
Hitler đề nghị hòa bình, Anh-Pháp nói phải chấp nhận thực tế "là Ba Lan không thể cất đầu lên lại nữa". Ngày 12 tháng 10 năm 1939, Chamberlain trả lời Hitler, nói những đề nghị của Hitler là "mơ hồ và thiếu chắc chắn" và nhận xét rằng "không có đề nghị nào nhằm sửa chữa những sai lầm đã gây ra cho Tiệp Khắc và Ba Lan". Ông nói, không thể nào tin tưởng những lời hứa của "Chính phủ Đức hiện giờ".

Đức tấn công Đan Mạch và Na Uy

Hải quân Đức từ lâu đã dòm ngó miền bắc nhằm lập căn cứ hải quân ở Na Uy để phá vỡ sự phong tỏa của Anh trên Biển Bắc, mở đường cho tàu Đức thông thương ra đại dương. Tương tự, Không quân Đức dòm ngó các sân bay Đan Mạch để làm bàn đạp tấn công Anh.
Ngày 9 tháng 4 năm 1940, nhà vua Đan Mạch đầu hàng và ra lệnh chấm dứt mọi hành động chống cự. Tổng cộng phía Đan Mạch có 13 người tử trận và 23 người bị thương. Phía Đức có khoảng 20 thương vong.
Na Uy chống cự ngay từ đầu, tuy không phải là ở khắp nơi. Đến ngày 28 tháng 5, Na Uy mới chịu đầu hàng. Vua Håkon VII của Na Uyvà chính phủ được đưa đến Luân Đôn và sống ở đây 5 năm trong cảnh lưu vong.
Cuộc tấn công thần tốc Đan Mạch và Na Uy là một chiến thắng quan trọng cho Đức Quốc xã. Chiến thắng giúp  tuyến vận chuyển quặng sắt trong mùa đông, tạo thêm sự bảo vệ cho Đức ở ngõ ra vào Biển Baltic, cho phép Hải quân Đức tiến ra vùng Bắc Đại Tây Dương, cung cấp các cảng biển vô cùng thuận lợi cho cuộc chiến trên biển với Anh, cho phép Không quân Đức sử dụng các sân bay tiến gần đến địch thủ hơn hàng trăm dặm. Và có lẽ yếu tố quan trọng nhất là uy tín quân sự của Đức Quốc xã được nâng cao rõ rệt.

Hà Lan đầu hàng

Vào ngày 10 tháng 5 năm 1940, dọc chiến tuyến 280 kilômét trải dài từ Biển Bắc đến Phòng tuyến Maginot, quân Đức tràn qua biên giới của ba quốc gia trung lập nhỏ bé Hà Lan, Bỉ  Luxembourg. Ngày 15 tháng 5, Hà Lan ký văn kiện đầu hàng.

Bỉ đầu hàng và quân Anh-Pháp bị bao vây

Vào buổi tối 13 tháng 5, các đơn vị thiết giáp của Đức chiếm được bốn bàn đạp bắt ngang con sông Meuse có bờ dốc và cây cối rậm rạp, từ Dinant đến Sedan, rồi chiếm lấy Sedan. Ngày kế, cơn hồng thủy ập đến. Sử dụng phương án tác chiến "Chiến tranh chớp nhoáng" (tiếng Đức: Blitzkrieg), một đoàn quân thiết giáp chưa từng thấy về quân số, sự tập trung, tính cơ động và hỏa lực, theo ba mũi trải dài đến 160 kilômét. Vào buổi tối 20 tháng 2, sư đoàn 2 Thiết giáp của Đức tiến đến thị trấn Abbeville gần cửa sông Somme, trong sự ngạc nhiên của tổng hành dinh của Hitler. Quân Bỉ, Lực lượng Viễn chinh Anh và ba tập đoàn quân Pháp bị bao vây.
Vua Leopold III của Bỉ đầu hàng sáng ngày 28 tháng 5 năm 1940.
Anh tổ chức cuộc di tản binh sĩ khỏi bờ biển Dunkerque. Đến ngày 4 tháng 6, gần 340.000 quân Anh và Pháp đã thoát ra khỏi gọng kìm của Đức, được đưa về Anh. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1940, sau khi quân Đức tiến chiếm thủ đô Paris, Philippe Pétain - người anh hùng của nước Pháp trong trận Verdun hồi năm 1916, lên làm Thủ tướng và bắt đầu đàm phán với Đức Quốc Xã.[1]
Vào ngày 22 tháng 6 năm 1940, Adolf Hitler buộc Pháp ký văn kiện đầu hàng trên một khoảnh trống trong khu rừng Compiègne. Sự kiện này đã tẩy bỏ một trong những ký ức đen tối nhất trong tâm trí của người Đức – cuộc đầu hàng của Đức vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 tại toa tàu hỏa cá nhân của Thống chế Pháp Ferdinand Foch ở Compiègne.[2] Hitler đã ngồi trên cái ghế ngồi của Foch khi ký kết hiệp định đình chiến nam 1918[1]. Đây cũng được xem là đỉnh điểm trong sự nghiệp của nhà lãnh đạo Đức Quốc xã[2].
Chiến dịch năm 1940 ở phía Tây được nhìn nhận là thắng lợi quân sự lớn nhất của Đức Quốc xã.[1] Trong vài tuần lễ kế tiếp, Hitler vẫn tin rằng sau khi Pháp bị đánh bại, Anh sẽ nôn nóng muốn hòa bình. Theo cái  nhìn của Đức, những điều khoản mà Hitler đưa ra là rộng lượng, nếu xét qua việc Đức đã đánh bại Anh ở Na Uy và Pháp. Hitler nói ông chỉ muốn Anh cho ông được tự do hành động trên lục địa Châu Âu. Nhưng Anh vẫn không chịu thỏa hiệp hòa bình.

Cuộc chiến trên bầu trời Anh quốc


Đức mở cuộc tổng không kích nhắm vào nước Anh bắt đầu ngày 15 tháng 8 với mục đích tiêu diệt Không lực Hoàng gia Anh và qua đấy tạo một điều kiện thuận lợi cho cuộc đổ bộ. Do những thất bại nặng nề của Không quân Đức, ngày 17 tháng 9, Hitler đình hoãn vô hạn định kế hoạch đổ bộ lên đất Anh. Trận không chiến tại Anh Quốc là thắng lợi đầu tiên của phe Đồng Minh trước Đệ tam Đế chế Đức và tạo điều kiện cho sự tiếp diễn của Trận chiến Đại Tây Dương[3].

Liên Xô chiếm vùng Baltic

Trong khi Đức đang bận rộn đánh Tây Âu, quân đội Liên Xô lần lượt tràn vào Litva, Latvia Estonia và lật đổ Chính phủ các nước này, đưa các lãnh đạo thân Liên Xô lên nắm quyền. Các cuộc bầu cử gian lận được tổ chức ở ba nước để hợp pháp hóa việc chiếm đóng, và Xô viết Tối cao (quốc hội của Liên Xô) sáp nhập ba nước vào Liên bang Xô viết: Litva ngày 3 tháng 8, Latvia ngày 5 tháng 9 và Estonia ngày 6 tháng 8. Adolf Hitler cảm thấy mất mặt, nhưng trong khi tất bật lo xâm lấn Anh, ông không làm gì được.

This message has been truncated

No comments:

Post a Comment