Người Chiến Sĩ QLVNCH
trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến.
39 năm trôi qua...Không bao giờ quên những ngày oai hùng trên các chiến trường Việt nam.
On Tuesday, March 25, 2014 11:43 AM, Nguyen bac ninh <bacninh75@gmail.com> wrote:
Vào ngày cuối cùng của cuộc
chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu
dũng cảm. Một vài tài
liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:
1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ –
chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn
công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã
bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một
trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn rơi.
Trong khi đó, nhiều người đã
không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào
lộn và xả súng (đại liên 6 nòng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở
ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ
anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào
xuống mặt đất.
Trong một bức thư của một phi
công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những
phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện
các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô
Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những
chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của
cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn
sàng hi sinh.
2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của
Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra
ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt
Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ
Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản.
Trong ngày 29 tháng 4, tướng
Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục
đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân
Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân
Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại
rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối
đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại
pháo và tấn công từ hai ngả vào Sàigòn.
Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt
vọng như vậy, tướng Phát và những người lính chiến đấu vẫn phải chiến đấu đến
cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và
đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong
những trận rút bỏ khác.)
Những người lính chiến đấu này
không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không
cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền
Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng,
không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu
chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng
bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi
quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn
đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như
mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.
Trong thời gian thật ngắn
khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác
từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe
tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ
không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện
trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng.
Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia
tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng.
Cánh quân Cộng Sản từ Long
Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào
dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai
Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai
xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà.
Hầu như những cánh quân Cộng
Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngã này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng
cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa
(Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố
Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.
Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng
vội thúc giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát,
thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu.
Tất cả những người lính
chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào
cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân
chúng, tìm đường về nhà.
Một câu chuyện khác do tướng
Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh
ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã
đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu
tự tử.
Khi vị tư lệnh cuối cùng của
Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn
300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm
súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ
trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần
kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho
gia đình.
Tự tử không có ích lợi gì
cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử.
Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba
Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng
500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những
chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu
hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng
Sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California
ngày 30 tháng 10 n ăm 1998.
Nhưng hai trận đánh trên đây
cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh
Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng
2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không
muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng
phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em
hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ
từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má.
3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975,
bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có
tựa đề "Truy Điệu Nam Việt Nam" - "…Nam Việt Nam đã chống cự hữu
hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ
ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân
lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta
còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.
Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi
và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực
ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn
tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm
ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã
bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc
chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến
đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số
người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài
giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn".
4/ Tài liệu của ký giả người
Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và
30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ
đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những
khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng.
Họ điều động như thể đang dự
một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai
Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận
đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và
sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này
vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá.
Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và
chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người
biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.
Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên
bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các
đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận
chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ
dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh.
Các sĩ quan này khuyên họ
nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy
ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận
địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.”
Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng
trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới,
giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi
vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ
diễn hành và đôi bao tay trắng.
Một đồng nghiệp của Larteguy là
Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố
nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết
không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!”
- "Vì sao?"
- "Tại vì chúng tôi không
chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản!"
…Các xe tăng đầu tiên của Cộng
Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa… Bộ binh thì tiến
từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào
lúc 5 giờ chiều.
Từ ngày hôm trước các đơn vị
cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy
Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ
quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng
quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố
Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên
chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp.
Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính
Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết
đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu
đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và
từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các
nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các
binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Darcourt
cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.
Sưu tầm : Nguồn trên Net