Sunday, April 8, 2012



LST: 
 
Nhớ Về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

(Phạm Phong Dinh, Trần Việt Hải)
 
 
 
 
QLVNCH: Huynh Đệ Chi Binh

 
 
(website quehuongngaymai.com) Nhà văn TRẦN VIỆT HẢI ở Los Angeles đă nhận được thư hỏi của bạn Quách Vi ở thành phố Los Angeles và đă chuyển thư đó đến cho chúng tôi. Những câu hỏi của bạn trẻ Quách Vi thật thú vị, hay và lạ, phản ảnh sự quan tâm của giới trẻ Việt Nam ngày nay đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Thú vị bởi các bạn trẻ đa số theo cha mẹ di tản sang Mỹ từ thuở c̣n rất nhỏ, hoặc sinh ra và lớn lên trên xứ người, nhưng các bạn vẫn tìm kiếm những sự thật về cội nguồn của mình, trong đó có những Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từng một thời anh dũng chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc, mà chắc rằng gia đình, ông bà, cha mẹ của các bạn trẻ đã thụ nhận công lao và ân nghĩa máu xương ấy của các anh. Sự hiện hữu của gần ba triệu người Việt, trong đó có thành phần thế hệ trẻ Việt Nam trên những đất nước tự do toàn thế giới : Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp, Nhật,... sau ba mươi mốt năm không phải là một sự đương nhiên, mà chính là do sự tận lực chiến đấu đến tận ngày cuối cùng là ngày 30.4.1975 của Những Ngưới Lính QLVNCH, ngăn chận bước tiến của giặc cộng, để cho hàng trăm ngàn người di tản có được những khoảng thời gian tối thiểu an toàn ra đi. Hay là vì các bạn trẻ tự tìm hiểu , biết được nhiều danh xưng những đơn vị chiến đấu của QLVNCH. Lạ là do bạn trẻ đã hỏi chúng tôi làm sao phân biệt được sự khác nhau giữa các binh chủng. Đó là những câu hỏi lần đầu tiên chúng tôi rất sung sướng được nghe và được hỏI, vì bạn Quách Vi đã cho chúng tôi một cơ hội để đem hình ảnh Người Lính QLVNCH đến gần các bạn trẻ hơn. Xin cám ơn bạn rất nhiều.

 

Bạn trẻ Quách Vi đặt cho chúng tôi ba câu hỏi như sau, mà chúng tôi mạo muội xin các bậc đàn anh trong quân đội cho phép được giải đáp một cách tổng quát :

1./ Tại sao QLVNCH lập ra ba binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân ? Vai trò của họ có trùng hợp hay không ? Nếu trùng hợp tại sao lại phân chia ra như vậy ?
2./ Biệt Cách Dù và Lực Lượng Đặc Biệt có giống nhau không ? Biệt Kích Mỹ và Lực Lượng Đặc Biệt (Special Forces) là một hay khác nhau ?
3./ Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đều dùng Dù thì hai đơn vị này có liên hệ mật thiết về kỹ thuật hành quân, chiến thuật tác chiến, có đúng không ?

Xin được lần lượt trả lời từng câu hỏi của bạn trẻ Quách Vi như sau.

1./ Vai trò của ba binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân không có sự trùng hợp, bởi sự phân nhiệm chiến đấu từ lúc khởi đầu các binh chủng này được hình thành. Mỗi binh chủng thực hiện phần trách nhiệm của mình trong cuộc chiến tranh tự vệ chống cộng sản Miền Bắc, đáp ứng với sự biến chuyển của từng thời kỳ.

Binh chủng Nhảy Dù : 


Là một trong những lực lượng chính qui của QLVNCH được thành lập sớm nhất, gắn liền với lịch sử hình thành cùa QLVNCH , là binh chủng anh cả của toàn quân đội. Đơn vị Nhảy Dù Việt Nam được thành lập đầu tiên chính là Đại Đội 1 Nhảy Dù Đông Dương, vào ngày 1.1.1948, chiến đấu dưới sự điều động của quân đội Pháp tại Việt Nam. Những Đại Đội Dù khác tiếp theo được thành lập. Ba năm sau, các Đại Đội Nhảy Dù Việt Nam được nâng lên cấp tiểu đoàn. Các Tiểu đoàn Dù VN hoạt động như là những đơn vị tổng trừ bị, sẵn sàng ứng chiến và phản ứng nhanh trong bất kỳ hoàn cảnh nào, có mặt trong thời gian sớm nhất ở bất cứ mặt trận nào, với nhiệm vụ giải tỏa áp lực địch lên quân bạn, giải quyết cán cân chiến trường. Ở thời điểm đó, quân đội Pháp thường dùng chiến thuật nhảy dù từ trên không xuống để tràn ngập trận địa và thanh toán nhanh chiến trường.


Sau khi đất nước bị phân đôi từ ngày 20.7.1954, th́ gần như toàn bộ các lực lượng quân đội Việt Nam đều di chuyển vào Miền Nam. Ngày 1.5.1955, Liên Đoàn Nhảy Dù được thành lập. Mười năm sau, ngày 1.12.1965, chương sử mới của binh chủng Nhảy Dù được mở ra với buổi lễ xuất quân hùng hậu của Sư Đoàn Nhảy Dù với thành phần gồm 3 lữ đoàn bao gồm 9 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh và các tiểu đoàn yễm trợ tiếp vận. Với chiều dầy kinh nghiệm chiến đấu trên mọi chiến trường lớn và khốc liệt từ Bắc vào Nam, với những thành tích lừng lẫy, binh chủng Nhảy Dù vẫn luôn được Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tin tưởng trong vai trò làm lực lượng Tổng Trừ Bị. Tổng Trừ Bị khác với các sư đoàn bộ binh ở chỗ Nhảy Dù luôn luôn di động khắp mọi miền đất nước để đáp ứng với nhu cầu,đòi hỏi khẩn cấp của những mặt trận mà những đơn vị bộ binh hay Địa Phương Quân không giải quyết được. Sư đoàn bộ binh chỉ hoạt động trong khu vực quân khu và khu chiến thuật của mình, rất ít ra khỏi vùng trách nhiệm, ngoại trừ một vài biệt lệ.

Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến : 

Sau Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến là một lực lượng kỳ cựu của quân đội VNCH, xuất thân từ các Đại Đội Commandos, Đại Đội Yễm Trợ Giang Đoàn của hai quân chủng Hải Quân và Lục Quân (Quân chủng là những lực lượng lớn mà trong đó có thành phần là những lực lượng nhỏ, binh chủng hay sư đoàn). Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến được chính thức thành lập từ Sắc Lệnh ngày 15.10.1954 do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ký ban hành. Hai điều khoản 1 và 3 của Sắc Lệnh quy định rõ nhiệm vụ của Thủy Quân Lục Chiến như sau :

Điều khoản 1 : Hiệu lực kể từ ngày 1.10.1954, nay thành lập trong tổ chức Hải Quân Việt Nam một binh chủng bộ binh đặc trách kiểm soát các thủy trình và thực hiện những cuộc hành quân thủy bộ dọc theo bờ biển Nam Hải và trong sông ng̣òi, mang tên “Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến “ hay “Bộ Binh Hải Quân”

Điều khoản 3 : Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến sẽ gồm nhiều đơn vị khác nhau tùy theo nhiệm vụ, đã có sẵn trong quân chủng Hải Quân và Lục Quân, hay sẽ được thành lập tùy theo kế hoạch phát triển của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa Ngày 1.1.1955, các Đại Đội Commandos (cũng thuộc quyền điều động của Pháp và vào Nam sau ngày 20.7.1954) cùng các Đại Đội Yễm Trợ Giang Đoàn được kết hợp nâng lên thành Tiểu Đoàn 1 TQLC. Sau đó là việc hình thành Tiểu Đoàn 2 TQLC. Quân số tăng trưởng đến cấp liên tiểu đoàn, nên có đề nghị từ cấp chỉ huy TQLC cho nâng binh chủng lên ngang tầm với Nhảy Dù, trở thành một binh chủng biệt lập với Hải Quân và được làm lực lượng Tổng Trừ Bị cho Bộ Tổng Tham Mưu. Kế hoạch này mãi đến năm 1965 mới được chấp thuận, Bộ Tư Lệnh TQLC được thành lập để chỉ huy hai Chiến Đoàn TQLC với 5 tiểu đoàn TQLC và 1 tiểu đoàn pháo binh, tách ra khỏi Hải Quân và chính thức mang danh xưng dầy kiêu hănh : Tổng Trừ Bị của QLVNCH. Sau Tết Mậu Thân 1968, với thành tích chiến thắng ở hai mặt trận lớn là Sài Gòn và Huế của Thủy Quân Lục Chiến, Bộ Tổng Tham Mưu thấy đă đến lúc cho thành lập Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Đến năm 1970 thì Sư Đoàn có 3 Lữ Đoàn với 9 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh và các tiểu đoàn yễm trợ tiếp vận. Tình hình chiến trường sau năm 1968 đă trở nên nặng độ, một Sư Đoàn Dù không đủ cáng đáng được nhiều mặt trận lớn cùng một lúc, Sư Đoàn TQLC nhận vinh dự làm lực lượng Tổng Trừ Bị QLVNCH, hănh diện sánh vai và chia sẻ gánh nặng chiến trường với Sư Đoàn Nhảy Dù, nhưng vẫn giữ nhiệm vụ khởi đầu từ năm 1954 là hành quân thủy bộ, kiểm soát vùng biển và sông ngòi Miền Nam.


Tổng thống Nguyễn văn Thiệu thăm Tiểu đoàn 2 Trâu Điên TQLC tháng 12-1968
Binh chủng Biệt Động Quân :


Là một lực lượng đàn em của hai binh chủng Dù và TQLC, ra đời ngày 1.7.1960 để đáp ứng với hình thái chiến tranh du kích của Việt cộng ở Miền Nam bắt đầu dậy lên từ năm 1959 với những hành động tàn bạo của chúng như ám sát, bắt cóc, khủng bố, đấp mô, gài mìn trên đường, phá cầu cống, ngăn trở giao thông,...

Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đă giúp huấn luyện binh chủng Biệt Động Quân. Tổng Thống Ngô Đình Diệm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã chỉ thị Nhảy Dù, các sư đoàn bộ binh tuyển những chiến sĩ tình nguyện sang chiến đấu dưới màu cờ của binh chủng Biệt Động Quân. Nên sau này các bạn trẻ thấy nhiều vị chỉ huy BĐQ và sĩ quan có người mang trên ngực áo những cánh dù trắng. Dần dần, có 65 đại đội BĐQ được thành lập. Năm 1961, một dự án được Tổng Thống Diệm phê chuẩn để nâng tổng số lên thành 81 đại đội BĐQ. Biệt Động Quân có nghĩa là một lực lượng quân đội có những công tác hoạt động đặc biệt và hành quân biệt lập. Những đại đội BĐQ được huấn luyện chiến thuật phản du kích, chống sự xâm nhập của thổ phỉ Việt cộng vào những vùng kiểm soát của Quân Đội VNCH, tìm và tiêu diệt địch ngay trong những an toàn khu của chúng.

Tổng Thống Diệm đă đích thân chọn lựa những đại đội ưu tú nhất của các sư đoàn bộ binh để cải chuyển sang thành các đại đội BĐQ. Như vậy, Biệt Động Quân giải quyết những chiến trường nhỏ, đương đầu với những toán Việt cộng, thường thường là cấp đại đội, chủ động tìm và đánh vào chỗ trú ẩn của chúng trước, chứ không chờ đợi mặt trận nổ lớn rồi mới đến, hay mở những cuộc hành quân lùng địch cấp tiểu đoàn, lữ đoàn hoặc chiến đoàn như Dù và TQLC.

Năm 1963, binh đội cộng sản Bắc Việt bắt đầu vào Miền Nam mở những trận đánh lớn cấp tiểu đoàn. Để thích ứng với với tình hình khẩn trương đó, cấp đại đội không đủ hỏa lực đối đầu với cấp tiểu đoàn địch, các đại đội BĐQ được kết hợp thành tiểu đoàn. Khi địch mở những trận địa chiến cấp trung đoàn, các tiểu đoàn BĐQ lại được kết hợp thành những liên đoàn, mỗi liên đoàn có 3 tiểu đoàn bộ binh. Đó là thời điểm sau năm 1966, song song với sự phát triễn lớn mạnh của toàn QLVNCH, BĐQ
cũng được nâng lên cấp Liên Đoàn, với năm Liên Đoàn 1, 2, 3, 4 và 5 BĐQ. Mỗi liên đoàn được làm thành phần trừ bị của mỗi Vùng Chiến Thuật mang con số tương ứng, riêng Liên Đoàn 5 trực thuộc Vùng III Chiến Thuật. Như vậy từ thời điểm 1966, lực lượng Mũ Nâu BĐQ đă chia gánh nặng chiến tranh với hai binh chủng đàn anh trong vai trò ̣ trừ bị Vùng, sau này là trừ bị quân khu (từ cuối tháng 10.1970, Vùng được đổi tên là Quân Khu). Đến cuối năm 1970, Lực Lượng Đặc Biệt được giải thể, nhiều binh sĩ và sĩ quan chuyển sang BĐQ. Đồng thời lực lượng Dân Sự Chiến Đấu Thượng (CDIG) và Biệt Kích Thượng Mike Force cũng được sáp nhập vào BĐQ, nâng tổng số tiểu đoàn lên đến 54. Đầu năm 1973, Bộ Tổng Tham Mưu soạn thảo một kế hoạch tái tổ chức binh chủng BĐQ, kếp hợp 54 tiểu đoàn thành 15 Liên Đoàn BĐQ, làm thành phần trừ bị chiến thuật cho ba Quân Khu I, II và III, bởi Sư Đoàn Dù và TQLC đã được Quân Khu I cầm giữ vô thời hạn, QLVNCH cần đến BĐQ như là một lực lượng thay thế, ít nhất là cơ động phản ứng, tăng viện và tiếp cứu nhanh trong mỗi quân khu.

Tình hình càng đòi hỏi, quân số Tổng Trừ Bị thiếu hụt, nên Bộ Tổng Tham Mưu đã nâng các Liên Đoàn 4, 6 và 7 BĐQ lên thành Tổng Trừ Bị. Năm 1975, có kế hoạch tổ chức đến 4 sư đoàn BĐQ phân phối cho bốn quân khu, nhưng chỉ có Sư Đoàn 101 BĐQ được hình thành trong tháng 4.1975 tại Sài Gòn.

Kết luận :
Mỗi binh chủng từ lúc thành lập nhận một nhiệm vụ chiến thuật, chiến lược riêng và dần dần tiến hóa biến đổi theo cùng với tình hình. Từ sau năm 1971 trở đi, cộng sản Hà Nội đã mở những mặt trận kiểu quy ước chiến (có nghĩa là dàn quân đánh lớn bằng đủ loại hỏa lực chúng có, thách thức ý chí và sức mạnh của QLVNCH), nên ba binh chủng xuất sắc nhất của QLVNCH là Dù, TQLC và BĐQ cũng phải dàn đại quân nghênh chiến. Đánh lớn khắp nơi, những đặc điểm riêng của từng binh chủng không được phân biệt rõ, để chỉ chọn một binh pháp chung, là cùng làm Tổng Trừ Bị. Mỗi binh chủng đều có những kinh nghiệm, quan niệm hành quân và chiến thuật cá biệt, cơ cấu tổ chức và huấn luyện khác nhau. Nói là trùng hợp thì không hẳn đúng quân đội cần rất nhiều lực lượng tổng trừ bị để tung ra các chiến trường đỏ lửa. Mỗi binh chủng có màu cờ, màu mũ đội trên đầu, sắc áo riêng và niềm hãnh diện truyền thống của binh chủng ấy.

2. Biệt Cách Dù và Lực Lượng Đặc Biệt có giống nhau không ?


Câu trả lời là Có và Không. Có là vì các chiến sĩ ấy cùng chiến đấu dưới huy hiệu chung của Lực Lượng Đặc Biệt (Hình con Hổ Nhảy Dù). Không là vì nhiệm vụ mỗi bên khác nhau. Lực Lượng Đặc Biệt được thành lập năm 1957, với những nhiệm vụ bí mật và đặc biệt như nhảy ra Bắc lấy tin tức, sách động dân chúng, các sắc tộc nổi dậy, viễn thám sang đất Lào, quấy phá vùng biển miền Bắc. Năm 1961, LLĐB thành lập thêm một số Đại Đội Biệt Cách Nhảy Dù Biệt Lập để làm thành phần hỗ trợ, ứng cứu cho những toán nhảy qua Lào hay ở những vùng biên giới nguy hiểm. 
Năm 1964, các Đại Đội BCD được kết hợp thành Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Nhảy Dù, vẫn chịu sự chỉ huy của LLĐB. Năm 1968, Tiểu đoàn được cải danh thành Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Song song với hoạt động của Tiểu Đoàn 91 BCD, LLĐB thành lập Trung Tâm Hành Quân Delta. Tháng 8.1970, LLĐB được giải thể (bởi sau năm 1968, LLĐB không còn phụ trách xâm nhập đất liền và vùng biển miền Bắc nữa), binh chủng chỉ còn tồn tại Trung Tâm Hành Quân Delta và Tiểu Đoàn 81 BCD, hai đơn vị này sáp nhập lại thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, quân số dần dần lên đến 3,000 chiến sĩ và được chia ra làm ba Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật. Mỗi Bộ Chỉ Huy Chiến thuật có 4 Biệt Đội, mỗi Biệt Đội có 200 chiến sĩ.

Biệt Cách Nhảy Dù (Mỹ gọi là Airborne Ranger)
Có nghĩa là hành quân biệt lập và cách biệt với mọi binh chủng bạn, bởi nhiệm vụ quá đặc biệt và bí mật của binh chủng này. Nhiệm vụ chính yếu là nhảy toán (mỗi toán thông thường là 6 người), thâm nhập vào các mật khu, hậu cứ địch để lấy tin tức, quấy rối, phá hoại căn cứ địch, bắt cóc tù binh, cung cấp tọa độ đánh bom cho Không Quân, khám phá những kho vũ khí, thực phẩm của địch. Khi tình thế cho phép thì các chiến sĩ BCD cũng tổ chức đánh địch ngay trong lòng địch. Nói chung, Liên Đoàn 81 BCD được hình thành không phải để nhận nhiệm vụ đánh trận địa chiến. Các chiến sĩ BCD được ví von như là những chiếc “chén kiểu” quí giá vô cùng, vì các anh được huấn luyện cho những công tác thật đặc biệt. Sở trường của BCD là đánh đêm. Tuy nhiên, khi tình hình nguy ngập như trong Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lừa 1972, Phước Long 1974, Bộ Tổng Tham Mưu đă sử dụng Liên Đoàn 81 BCD như là một lực lượng Tổng Trừ Bị tăng viện, tiếp cứu và thanh toán chiến trường. 

Các chiến sĩ Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù

Sau chiến thắng Mùa Hè 1972 ở An Lộc và Quảng Trị, Liên Đoàn 81 BCD được vinh dự làm lực lượng Tổng Trừ Bị sánh vai với các binh chủng tinh hoa bậc nhất của QLVNCH. Cán binh Hà Nội học thuộc lòng câu kinh nhật tụng sau đây : “Có ba thứ trong Nam là tử thần, đừng gặp là hơn : Nhảy Dù - Biệt Cách Dù và Bom B 52”.


Biệt Kích Mỹ và Lực Lượng Đặc Biệt (Special Forces) là một hay khác nhau ?
Câu trả lời là hoàn toàn khác nhau.

Xin nói về LLĐB trước : 


Thành lập năm 1957 và nằm dưới quyền điều động của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH để thực hiện những công tác đặc biệt và tối mật : nhẩy ra Bắc lấy tin tức, trà trộn vào dân chúng Việt Nam hay người sắc tộc, thám sát những hệ thống tiếp vận trên đường mòn Hồ Chí Minh, nhẩy sang Lào thám sát hệ thống đường mòn HCM, đổ bộ và quấy phá vùng biển miền Bắc. LLĐB là một binh chủng nằm trong QLVNCH. Mối tương quan duy nhất của LLĐB với Biệt Kích Mỹ là cùng đóng chung trong những trại biên phòng dọc theo biên giới Việt - Miên - Lào.
LLĐB được giải thể tháng 8.1970 vì đă hết nhiệm vụ nhẩy Bắc, nhẩy Lào và đổ bộ biển.

Biệt Kích Mỹ : 


Danh từ này rất mơ hồ, dùng để chỉ chung hai lực lượng được CIA Mỹ mướn và trả lương, hoàn toàn không thuộc về QLVNCH :
a./ Pḥòng Vệ Dân Sự : CDIG (Civil Defence Irregular Group) : Gồm toàn những thanh niên người Thượng của nhiều bộ tộc ở cao nguyên miền Trung, ở vùng biên giới Việt - Miên - Lào, một số khác là người Việt gốc Miên. CDIG có nhiệm vụ đồn trú trong những trại dọc biên giới Việt - Miên - Lào ở những nơi CIA nghi ngờ là những điểm từ đó binh đội Bắc Việt xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. CIA nghĩ rằng người Thượng, người Miên là dân tộc miền núi chiến đấu giỏi, thông thuộc rừng núi, là nơi sinh ra và lớn lên của họ. Thông thường mỗi trại quân số lên đến vài trăm người, có sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ chỉ huy, sau này lại có thêm sĩ quan LLĐB Việt Nam đến, nhưng coi bộ quân CDIG không thích mấy và rất miễn cưỡng chịu thi hành lệnh của sĩ quan LLĐB Việt Nam. Các trại biên phòng luôn là mục tiêu tấn công của quân cộng, vì các trại ấy là trở ngại rất khó chịu trên đường xâm nhập hay hoạt động của chúng trong lãnh thổ VNCH.
b./ Biệt Kích Mỹ : hay còn gọi là Mike Force do danh xưng Mobile Strike Force (Lực Lượng Tấn Công Cơ Động). Lính Biệt Kích Mỹ giống như Phòng Vệ Dân Sự, do CIA mướn và trả lương, với thành phần là người Thượng và Miên. Họ mặc áo rằn ngụy trang(camouflag) rất khác biệt và rất dễ nhận ra so với áo rằn Dù, rằn TQLC, BCD, hay hoa rừng của BĐQ. 


Lính Mike Force, như danh xưng, là một lực lượng hành quân tích cực hơn CDIG, thông thường là tiếp cứu những trại Phòng Vệ Dân Sự bị cộng quân tấn công. Biệt Kích Mỹ không có nhiệm vụ tiếp cứu các đồn trại của QLVNCH. Nhưng ngược lại, nếu cần thì chính các đơn vị QLVNCh sẽ tiếp cứu các trại CDIG và Biệt Kích Mỹ.

Năm 1970, LLĐB Mỹ rút về nước, bàn giao CDIG và Mike Force cho QLVNCH, từ đó quân số hai lực lượng này nằm trong quân số của QLVNCH, do chính quyền VNCH quản trị và trả lương. Bộ Tổng Tham Mưu đổi tên hai lực lượng này thành Biệt Động Quân Biên Phòng cấp tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn trấn đóng một trại biên phòng dọc theo biên giới Việt - Miên - Lào khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Cuối năm 1973, Bộ Tổng Tham Mưu quyết định bãi bỏ các trại biên phòng, cho sát nhập BĐQ Biên Phòng vào hợp chung với Biệt Động Quân bình thường, và đều nằm chung dưới quyền chỉ huy của Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân. Có tất cả 54 tiểu đoàn BĐQ vừa biên phòng vừa bình thường được gom lại thành 45 tiểu đoàn, từ đó thành lập 15 liên đoàn BĐQ phân phối trên ba Quân Khu I, II và III (Quân Khu IV với các sư đoàn bộ binh và lực lượng Địa Phương Quân - Nghĩa Quân lớn mạnh, đủ sức đánh dẹp quân cộng, nên không cần các binh chủng Tổng Trừ Bị và BĐQ nữa). 

3./ Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đều dùng chiến thuật đổ quân bằng dù, như thế có liên hệ mật thiết về kỹ thuật hành quân và tác chiến không ? Câu trả lời là Không, bởi lẽ nhiệm vụ chiến thuật, chiến lược của hai binh chủng hoàn toàn khác nhau.
Nhảy Dù : 

Huy hiệu của Biệt Đoàn Lôi Hổ

Binh chủng Tổng Trừ Bị, có nhiệm vụ đánh trận địa chiến, kết hợp liên binh chủng rất hùng hậu như pháo binh, thiết giáp, không quân. Tuy mang tiếng nhảy dù, nhưng những trận đánh có nhảy dù thực sự từ trên máy bay xuống rất ít, chỉ một đôi lần, thí dụ cụ thể nhất là trận Ấp Bắc năm 1963. Về sau, vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh, chiến trường đa số thuộc vùng rừng núi rất trở ngại cho việc nhảy dù, nên kỹ thuật được ưa thích nhất là nhảy từ trực thăng xuống (gọi là chiến thuật trực thăng vận), vừa an toàn, vừa tập họp binh sĩ một cách nhanh chóng và đầy đủ nhất. Tuy vậy mỗi năm, mỗi chiến sĩ Dù từ binh sĩ lên đến hàng sĩ quan, ai cũng phải nhảy dù gọi là “Nhảy bồi dưỡng” một số saut ở những địa điểm an toàn.

Biệt Cách Dù : 


(Airborne Ranger) Cũng là một binh chủng Tổng Trừ Bị nhưng hoàn toàn không nằm dưới quyền điều động của sư đoàn Nhảy Dù, quan niệm và kỹ thuật hành quân, tác chiến cũng rất khác biệt.
Bởi nhiệm vụ đặc biệt và bí mật, nhảy toán nhỏ, nên chiến sĩ BCD hoạt động sâu trong vùng địch, hoàn toàn cách biệt với các binh chủng bạn. Binh chủng liên hệ mật thiết và luôn luôn là “ good and super friends” của BCD là các chiến sĩ trực thăng của Không Quân, và các chiến sĩ Không Quân có nhiệm vụ đưa các anh BCD đến địa điểm để nhảy xuống, rồi bay đến bốc các BCD về. Cũng được học nhảy dù như các chiến sĩ Dù Mũ Đỏ, nhưng các chiến sĩ Dù Mũ Xanh BCD chưa từng nhảy dù trên trận địa bao giờ, và rất dễ bị địch phát hiện từ trên không. Biệt Cách Dù không được huấn luyện đánh trận địa chiến, trang bị hỏa lực nhẹ, đi rừng rất giỏi, đánh trong thành phố thần sầu, sở trường đánh đêm. Tuy vậy, khi cần thì các BCD cũng được Bộ Tổng Tham Mưu ném vào những chiến trường lớn như An Lộc, Quảng Trị Mùa Hè 1972, Phước Long 1974 để đánh trận địa chiến, các anh đã anh dũng hoàn thành sứ mạng ngay cả trên những chiến trận không thuộc sở trường của mình .

Nhân ngày Quân Lực 19.6 năm nay, kỷ niệm 41 năm ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đứng ra gánh vác trách nhiệm lèo lái, bảo vệ Tổ Quốc và Dân Tộc, chúng ta, những người còn sống dù là lính hay là dân, là thế hệ thuộc chiến tranh hay thế hệ trẻ Việt Nam trong thờI bình, xin chân thành cúi đầu tưởng nhớ đến anh linh của 250 ngàn chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng hy sinh trên khắp nẽo chiến trường trong ṛòng rã hai mươi năm binh lửa, ngậm ngùi tiếc thương các anh và chia sẻ niềm đau cùng với hàng triệu quả phụ cô nhi, chân thành tri ân 500 ngàn chiến sĩ QLVNCH chiến thương vẫn còn sống khoắc khoải, đói khổ cùng cực ở quê nhà. Những người lính đă chết, các anh thương binh bên kia bờ Thái Bình Dương và những người lính chúng ta còn sống, tất cả đều tự hào đã từng khoác chiếc áo lính màu xanh ô liu, hoa Dù, áo rằn Cọp Biển, Biệt Cách Dù, áo hoa rừng Biệt Động Quân, áo trắng Hải Quân, áo xanh Không Quân, kiêu hãnh được chiến đấu dưới Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ Đại Nghĩa Việt Nam và dưới bóng Lá Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Dù có một lần QLVNCH bị các thế lực thù và “bạn” bức tử, nhưng tất cả NHỮNG NGƯỜI LÍNH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA vẫn luôn ngẫng cao đầu đi vào lịch sử chống xâm lăng từ phương Bắc và đã bền bỉ đổ máu xương bảo vệ TỔ QUỐC, làm tṛòn TRÁCH NHIỆM của người trai thời chiến. Những người lính ấy luôn nêu cao DANH DỰ của một quân đội mà luôn là cơn ác mộng triền miên của cộng sản và binh đội Bắc Việt. Chúng chỉ thắng được chúng ta, những Người Lính QLVNCH khi chúng ta đă bị buộc phải buông súng. Nếu cây súng còn trên tay, viên đạn cuối cùng vẫn còn nằm trong ṇồng súng, thì bọn tiểu nhân Hà Nội chưa chắc đă dám ngỗ ngáo đắc chí đến tận ngày nay.
. . . Người Lính QLVNCH là khắc tinh, là cơn ác mộng hãi hùng của chúng đến vô tận vô cùng.
Phạm Phong Dinh
Ngày 11/06/2006

 
Xem link: Nhớ Về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Phạm Phong Dinh, Trần Việt Hải:



On Fri, 4/6/12, Hoang Lan  wrote:
From: Hoang Lan
Subject: E1. Tháng Tư Buồn
To: tngo51@gmail.com
Date: Friday, April 6, 2012, 10:25 AM


From: Mai Thanh Truyet
Date: 2012/4/6
Subject: Tháng Tư Buồn


Xin trích lại bài viết trong 
Tâm Tình Người Con Việt, 2012 của Mai Thanh Truyết
Xin liên lạc EnviroVN@gmail.com

Tháng  Tư  Buồn

Không biết tự lúc nào sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mỗi năm vào dịp nầy lòng tôi dường như chùng xuống. Mặc dù công việc hàng ngày vẫn chu toàn 8 giờ để trả nợ áo cơm, một vài giờ cho cái business consultant của tôi, và thì giờ cho các buổi phỏng vấn hay ngồi suy tư và viết bài hay đi đó đi đây…tôi vẫn cảm nhận được một nỗi niềm u uẩn nào đó trong tôi.
Bỏ qua những ngày  tháng nghiệt ngã còn lại ở Việt Nam trước khi vượt biên, phải thành thật mà nói lúc đó tôi không có thì giờ để “buồn” như hôm nay, vì miếng cơm manh áo và mãi lo “tìm đường ra đi” (cứu nước?) cho một gánh nặng với 4 đứa con dại…
Bỏ qua những năm đầu tiên sống đời tị nạn, tôi cũng chưa thực sự quan tâm gì mấy cũng như không co thì giờ để buồn…như tôi buồn hôm nay vì cuộc ‘vật lộn” với cuộc sống mới
Chỉ trong vòng 20 năm trở lại đây, khi gia đình tương đối ổn định và sau khi bắt đầu bước vào con đường tranh đấu cho Việt Nam qua ngã môi trường,  tôi mới thực sự cảm thấy buồn. Và mỗi năm nỗi buồn đo càng se sắc hơn, ngậm ngùi hơn.
Buồn để mà buồn một mình!
Không thể nào nói tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn được. Mà tôi hiểu và hiểu rất rõ nỗi buồn thực sự của tôi vì hai lý do: - Đất Nước còn điêu linh,  - và Bà con mình vẫn còn chìm đắm trong nỗi nhục nhằn làm công dân hạng hai cho một chế độ phản dân tộc chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.
Nhìn lại những ngày bắt đầu từ giữa tháng tư năm 75, có thể nói cả thành phố Sài Gòn đang lên cơn sốt. Nào là chạy đôn chạy đáo thăm dò tình hình…mặc dù biết rằng miền Nam đang trong cơn hấp hối, nhưng cũng mong tìm và hy vọng một phép lạ. Nào là, đối với những người có chút tiền, lo chạy đi đổi tiền, làm…áp phe, hay do là tin tức tìm đươờng ra đi.
Tin tức đồn đãi nhiều khi trái ngược nhau, tin vui lẫn với tin buồn.
Nhưng nỗi buồn của tôi thực sự buồn khi rời trụ sở USAID ở đường Lê Văn Duyệt sau khi làm “thủ tục”…ra đi. Cầm tấm thẻ vô tri có hình của một “ông giáo trẻ” đầy nhiệt huyết, mà khi về lại Việt Nam năm 1973, nguyện sẽ làm một cái gì cho thanh niên Việt Nam. Tôi không thiết ăn cơm chiều hôm đó. Nếu tôi nhớ không lầm, đó là ngày thứ tư 09/4/1975.
Tới thứ hai tuần sau đó, lên Đại học Cao Đài Tây Ninh, tôi lại được mấy anh chàng “CIA” trẻ đóng trên đài phát tuyến ở đỉnh Núi Bà cho tôi biết rằng ngày mai, họ sẽ rút về Mỹ và khuyên tôi nên rời bỏ quê hương qua một giọng Bắc rất rành rọt. Suốt các buổi lên lớp sau đó, tôi nói như người mất hồn, một tâm trạng mà chính giờ phút viết lên dòng chữ nầy, tôi lại thêm một lần “phiêu diêu” nữa.
Đi?  Ở?
Hai chữ nầy ám ảnh mãi nơi tôi trong suốt thời gian còn lại cho đến ngày 30/4 năm đó.
Hình ảnh Ba tôi lẩn quẩn trong đầu. Hình ảnh một ông giáo già đã về hưu từ lâu, căm cụi viết thư cho con mình đi du học mỗi buổi sáng thứ năm trong tuần, để rồi, sang sáng thứ bảy đem thư ra Bưu diện gữi đi cho kịp chuyến máy bay Air France bay về Pháp, để cho con mình nhận được thư đúng ngày thứ hai. Việc nầy xảy ra đúng như in, không hề sai sót suốt hơn hai năm trời cho đến khi Ba tôi mất. Ba tôi mất ngày chủ nhựt và thứ hai sau đó tôi vẫn nhận được thư ba tôi viết trước khi nhận được điện tín của anh tôi.
Còn Má tôi. Một người mẹ già gặp lại và sống với con chưa đầy hai năm…Mà cũng chính trong thời gian nầy, tôi luôn bận bịu với những “đam mê” cho cuộc sống, chuẩn bị cho con đường “công danh” của mình… thì làm sao tôi có thì giờ chăm sóc hay hỏi han đến mẹ già. Và mỗi khi nhìn lại mình, chính tôi cũng phải tự thú rằng mình cũng không có thì giờ để nghĩ đến mẹ mình nữa trong thời gian nầy. Tôi thật có tội với má tôi.
Trở lại thời gian giữa tháng 4 năm xưa. Tâm trí tôi luôn bị ray rứt với tâm trang nửa  nửa Đi.
Đi không đành cũng vì mẹ già đơn côi.
Đi không đành cũng vì bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ kíu kéo lại để làm một “cái gì” cho quê hương.
Và đi cũng không đành vì một suy nghĩ non dại (mà chắc cũng có nhiểu người suy nghĩ như tôi), đó là “Mình có thể đối thoại với người cộng sản, vì trước khi họ là cộng sản, họ là người Việt Nam với đầy đủ dân tộc tính; vì vậy mình có thể hợp tác được”.
Khi đã biết sai lầm thì đã muộn, tôi phải trả cái giá gần 8 năm trong nhà tù lớn Việt Nam dưới chế độ nầy. Cái sai lầm nầy cũng giống như cái sai lầm của người thầy giáo Tạ Ký khi đi học tập về củng ngồi uống rượu với Gs Tôn Thất Trung Nghĩa và tôi tại Chợ Đuổi nằm tại góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp năm 1981 như sau:“Hai mươi năm mới biết chuyện xưa lầm. Thì tuổi trẻ đã biến thành uất hận!”
Chiều thứ hai 28/4, khi một tên phi công (tôi không muốn nhắc tới tên nầy lên đây, vì làm sao tôi quên được tên những kẻ phản bội quê hương) dội bom dinh Độc Lập, và từ đó lịnh giới  nghiêm 24/24 được ban hành. Tôi liền chạy lên nhà một người bạn vong niên trên cư xá giáo chức ở đường Tự Đức.
Tôi đã chứng kiến được gì và đã học được gì?
Xin ghi lại vài dòng để chiêm nghiệm nỗi đau thương, nhục nhằn của những đứa con Việt trước cảnh quốc phá gia vong. Đó là:
  • Hình ảnh một Trung tá TQLC chạy từ Đà Nẵng về nhà người anh cũng ở cùng cư xá, hình ảnh giọt nước mắt lưng tròng khi anh cổi chiếc áo trận và cắt từng nút áo cũng như hai bông mai bạc trên cầu vai. Anh nói với người anh qua giọt nước mắt và trong từng tiếng nấc “Anh xem như em đã chết rồi ngày hôm nay”.
  • Hình ảnh từng đoàn trực thăng Mỹ chiếu đèn sáng rọi vào mặt chúng tôi trên sân thượng của cư xá trong lúc tháo chạy và chở người đi ra hạm đội.
  • Hình ảnh những người lính tôi không còn nhớ Dù hay Thủy Quân Lục Chiến tiếp tục chiến đấu ở cầu Phan Thanh Giản trên con đường đi ra Ngã tư Hàng Sanh. Tiếng súng bắt đầu ngay sau khi tướng Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10 giờ 37 phút sáng 30/4. Tiếng súng chỉ im lặng lúc xế trưa, có nghĩa là tất cả anh em binh sĩ đã chiến đấu cho đến quả lựu đạn cuối cùng.
Chuyện ĐI và Ở đã được tôi quyết định ở khúc quành định mệnh nầy.
Qua ngày thứ năm 1/5, lệnh trên radio yêu cầu (bắt thì đúng hơn) mọi công chức phải đến trình diện tại trụ sở làm việc của mình. Sáng đó, tại cư xá có mặt Ông Khoa trưởng, Ông Phó Khoa trưởng và một số giáo sư, tôi và một giảng nghiệm viên tình nguyện vào Trường Sư phạm xem tình hình.
Mọi sự có vẻ êm xuôi vì “họ” chưa có người vào tiếp quản, ngoài một số “cơ sở” địa phương thôi. Nhưng một hình ảnh khác làm bẽ bàng và làm đão lộn những suy nghĩ tốt đẹp trong tôi khi nhìn thấy một số đồng nghiệp của mình mới chỉ vừa cách đây một ngày, nay đã mang “băng đỏ cách mạng” từ cung cách hướng dẫn chỗ để xe, cho tới thái độ trong lúc nói chuyện. Đáng phỉ nhổ nhựt là những người ngày nào thưa anh, xưng em với tôi, mà nay trở mặt dương dương tự đắc tự xưng tôi, tôi, anh, anh một cách trơ trẻn.
Có những chị giáo sư thước tha, dịu hiền trong khi lên lớp mà nay ngoài băng đỏ, thậm chí còn để lá cờ vàng ba sọc đỏ dưới chỗ chân bàn đạp xe hơi nữa. Và hơn nữa, có giáo sư trong suốt thời gian chưa đầy hai năm ngắn ngũi của tôi, đã xem tôi như “thần tượng” mặc dù biết tôi đã lập gia đình rồi, thường xuyên đi ăn uống chung; thậm chí đã dám cùng tôi “nhậu thịt chó” nữa…Người đó bây giờ là một “công thần” của chế độ.
Trên đây, tôi xin diễn lại bức tranh vân cẩu chập chùng những ý nghĩ lộn xộn trong những ngày quốc phá gia vong. Xin chia xẻ cùng bà con. Đây không phải là lời tự thú hay than thở, hay nói về mình.
Nơi đây tôi chỉ muốn nói lên vài điều suy nghĩ chủ quan. Đó là:
  • Truyết, mầy đừng bao giờ mơ tưởng người Việt cộng sản là người Việt Nam.
  • Tình đời như chiếc lá, đổi trắng thay đen và lòng người thật khó lường (hơi cải lương một chút).
Và để thoát khỏi ý nghĩ tiêu cực trong những ngày đau thương của Đất và Nước, tôi tự điều hướng cho chính mình cần phải hành xử trong tương lai như:
  • Đứng trước quá khứ, hãy ngả mũ. Đứng trước tương lai, hãy XẮN TAY ÁO (H.L.Mencken).
  • Người khôn ngoan đi tìm nguyên do lỗi lầm ở bản thân. Kẻ khờ dại đi tìm nguyên do ở người khác. (Câu nói của Khổng Tử giản dị như vậy mà còn có kẻ không học được!).

Xin góp phần vào những Ngày Buồn Tháng Tư

Mai Thanh Truyết
 
 
On Fri, 4/6/12, MY LOAN wrote:
 
 
CÁI DŨNG CỦA NGƯỜI ĐÔNG PHƯƠNG
Việt Hải, Los Angeles


 



Link: Cái Dũng của Người Đông Phươnghttp://phanchautrinhdanang.com/30thang4/VH11.htm


Những cái gương can đảm của các binh lính trong đạo quân Kamikaze quyết tử của quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản đốt nén nhang lên đường sáng hôm 7 tháng 12 năm 1941 để tấn công hạm đội Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng làm con trai tôi tự hỏi vì sao họ lại như thế khi tôi cùng các con xem cuốn phim tài liệu chiến tranh "Pearl Harbor" do đạo diển Michael Bay dàn dựng. Sau khi liệng hết bom, bắn hết đạn, từng chiếc phi cơ của phi đội quyết tử Thiên Hoàng nhắm vào các boong tàu hải quân Hoa Kỳ cứ lao vào như điên dại. Nước Mỹ sững sờ, nước Mỹ rúng động, và nước Mỹ đau thương trong trận Trân Châu Cảng. 
 
 

Từ sự đau thương đó đến 4 năm sau nước Mỹ nhất quyết kết thúc chiến tranh mau lẹ bằng đường tắt ném hai quả bom nguyên tử vào ngay trung tâm thành phố Hiroshima và Nagasaki, số thương vong của người Nhật là 66,000 và bị thương 69,000 tại Hiroshima, và 39,000 chết và 26,000 bị thương tại Nagasaki. Hằng triệu người Nhật ngơ ngác trong cơn chấn động khủng khiếp của bom nguyên tử vốn xa lạ với con người thuở đó. Nước Nhật kinh hoàng, nước Nhật giận dử và nước Nhật đau thương. Để tránh thêm thiệt hại và chết chóc cho nhân dân vô tội, ngày 2 háng 9 năm 1945 Nhật hoàng Hirohito ký hoà ước chấp nhận thua trận vô điều kiện trên chiếc hàng không mẫu hạm USS Missouri. Tin buồn đến với quân đội Nhật, hàng ngàn binh sĩ Nhật từ chối thua trận và những thước phim lịch sử đã thu nhận tinh thần dũng sĩ quả cảm của người lính Nhật, mặc dù thế giới lên án sự dã man của quân đội Nhật trong thời chiến tranh. Nhưng người ta không khỏi bùi ngùi, thương tâm khi thấy trong tinh thần samurai của kiếm sĩ đạo kendo hay võ sĩ đạo bushido, người lính thất trận tự đâm và m̏ bụng chính mình, theo truyền thống harakiri, vì danh dự họ từ chối đầu hàng. Chỉ trong vài ngày sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các đơn vị quân đội Nhật Bản ghi nhận gần 600 binh sĩ Nhật tự vận và con số tiếp tục, số binh sĩ tự vận tại hải ngoại không đuoc kiểm kê. Trong hàng tướng lãnh của Nhật có bộ trưởng chiến tranh Korechika Anami, tướng Seiichi Tanaka, tướng Hajime Sugiyama, tướng Umetzu, đô đốc Hải quân Ugaki và đô đốc Takijiro Onishi đã tự rút gươm đâm thủng bụng mình tự sát, họ để lại cho quân sử Nhật bản những tấm gương samurai bất khuất mãi mãi.

Cũng chuyện ngày xưa của nước Tàu, trong thời xuân thu chiến quốc, chuyện kể rằng một vị tướng quân thua trận, ông và người hầu cận bị đánh đuổi bỏ chạy lên núi cao. Hết ngày này qua ngày nọ, hết tháng này sang tháng kia, ông cảm thấy ô nhục mãi ẩn náu trên miền cao sơn và ngày về vô vọng, ông từ chối chết dần, chết mòn. Ông bảo người hầu cận chuẩn bị cho ông con chiến mã. Sau khi khoác chiến bào với thanh kiếm trên tay như thuở xông pha nơi chiến trận, ông thúc chiến mã phi bay từ cao sơn rơi xuống vực sâu thẳm đểhọn cái chết xứng đáng cho đạo làm tướng. Câu chuyện này nói lên cái ý niệm đơn giản: Là ngừời lãnh đạo, chỉ huy phải tròn trách nhiệm với sơn hà, là một tướng quân là giữ phong cách, danh dự và sĩ khí của người làm tướng mà phong vị của họ gầy dựng do công trạng "Nhất tướng công thành vạn cốt khô".
Do đó từ những phi đội thần phong quyết tử hay những bushido hay kendo đã harakiri của người Nhật cho đến viên tướng Tàu trong thời tao loạn xuân thu thuở xưa chỉ nêu lên cái giá trị của người Đông phương liều chết cho lý tưởng mà họ mang để quên thân mình. Như lịch sử Việt Nam không thiếu gương can đảm từ Trần Bình Trọng, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương,... Tôi bùi ngùi nhớ về các vị Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn,... mang cái "Dũng" của người xưa.
 

 
Nói những dòng này như vậy để tôi cũng xin khơi lại lòng dũng cảm của vô số anh hùng vị quốc vô danh trong QLVNCH mà những ngày cuối cùng của trang sử miền Nam, tổng thống của họ vì sợ nhân dân vô tội chịu cơn mưa đại pháo của "cái-gọi-là" Quân đội Nhân dân Việt Nam (QDNDVN) man rợ, vô nhân tính xâm lăng từ bắc phương, hàng ngàn chiến binh VNCH đang chiến đấu tới cùng như các Thiên Thần Mũ Đỏ của binh chủng Dù quyết tử thủ bảo vệ thành trì Hoàng Hoa Thám chận sức tiến quân của địch từ hướng Hốc Môn hay những chi̓n binh cọp biển của Thủy Quân Lục Chiến tiếp tục bảo vệ tuyến đường xa lộ Biên Hòa chận đoàn quân CS tràn về thủ đô. Họ chiến đấu trong danh dự, họ quyết tử vì lý tưởng bảo vệ sơn hà, cũng như nhiều anh em quân nhân khác từ chối thua cuộc cùng nhau rút chốt lựu đạn ôm nhau nổ tung để chọn cho mình cái chết xứng đáng nhất mà sử xanh của QLVNCH sẽ mãi mãi tri ân họ. Sự ra đi hào hùng của ho là cái uy dũng khi bảo vệ từng tất đất quê hương của quân đội VNCH, tương phản với cái hèn hạ đốn mạt của người CSVN là âm thầm triều cống đất đai của tiền nhân để lại để được nước đàn anh Trung quốc xoa đầu cho an vị tiếp tục thống trị quê hương Việt Nam.

Trong bầu không khí 30-04 lại về, tôi xin hân hạnh giới thiệu hai tác phẩm viết bằng kinh nghiệm đau thương của nhà văn Dương Viết Điền (DVĐ), có bút hiệu là Hạ Ái Khanh, anh là một sĩ quan ngành chiến tranh chính trị, một tù nhân nếm mùi khắc nghiệt của cái cụm mỹ từ gọi là "học-tập-cải-tạo", một hình thức tù tội bịp bợm trá hình, một phương cách trả thù người quân dân VNCH để hòng đánh lừa dư luận quốc tế. Anh DVĐ đã bỏ ra một thời gian dài để hoàn tất hai tác phẩm, loại biên khảo có giá trị về sử liệu Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân" và thiên hồi ký bi thương "Trại Ái Tử và Bình Điền". Cả hai tác phẩm khi đọc người ta không khỏi ngậm ngùi cho tinh thần bất khuất hay thán phục cũng như cảm thông vì cái dũng khí mà những người lính QLVNCH đã kinh qua. 



Trong cuốn "Trại Ái Tử và Bình Điền", tác giả có đề cập một gương bất khuất của một vị sĩ quan đáng kính QLVNCH là Thiếu tá TQLC Võ Đằng Phương noi gương theo tinh thần sống vinh hơn chết nhục, năm 1985 từ trại tù Bình Điền ông viết thơ gởi cho Thủ tướng CSVN là Phạm Văn Đồng để tố cáo chính sách thâm độc trả thù dã man, ngược đãi tù nhân là những quân nhân cán chính VNCH. Trong khi trước đó Phạm Văn Đồng khoe khoang tuyên bố với các phóng viên quốc tế họ đối xử nhân đạo, khoanhồng với các viên chức phục vụ trong chế độ cũ và người CS không hề chủ trương đánh người ngã ngựa. Bài sưu khảo của tác giả DVĐ cho thấy tội ác đê hèn của nhà cầm quyền CSVN là sự tra tấn, đánh đập tù nhân cho đến chết hay gây thương tích cho họ lâu dài. Trích đoạn như sau:

"Thiếu tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG:
Biểu tượng bất khuất và kiêu hùng của một sĩ quan Quân lực VNCH (QLVNCH). Nói đến cuộc bạo động trong tù, chúng ta không thể quên được "Vụ 20 tháng 04 năm 1979" xảy ra tại phân trại 04 thuộc trung tâm trại "cải tạo" Bình Điền tại tỉnh Thừa Thiên. Vụ này do một ban tham mưu gồm 9 sĩ quan của QLVNCH chỉ huy toàn thể 500 tù nhân trong trại vùng dậy đòi cải tổ chế độ lao tù.
9 sĩ quan trong ban tham mưu đó là:
- Trung tá Nguyễn Tri Tấn: Trung đoàn phó trung đoàn 2/SĐ3BB
- Thiếu tá Vũ Ngọc Tụng: Quân Trấn Đà Lạt
- Thiếu tá Phạm Cang: Tiểu đoàn trưởng TQLC
- Thiếu tá Lê Quang Liển: Sĩ quan TQLC
- Thiếu tá Hoàng Hưng: Sĩ quan Bộ Binh
- Thiếu tá Phan Văn Lập: Chi đoàn trưởng Thiết giáp.
- Đại uý Trần Biên: Sĩ quan Truyền tin SĐ5/BB
- Đại uý Nguyễn Thuận Cát: Sĩ quan Biệt Động Quân
- Đại uý Nguyễn Đình Khương: Tiểu đoàn phó TĐ120 Địa Phương Quân, tiểu khu Quảng Trị...

Sau vụ này nhiều anh em tù nhân đã bị bọn công an đánh đập một cách bạo tàn đến gãy xương, trào máu, bầm gan, tím ruột. Nhiều sĩ quan đã bị chết trong tù sau những trận đòn dã man vô nhân đạo như Đại uý Nguyễn Văn Báu, Đại uý Nguyễn Thuận Cát, Thiếu uý Trần Hữu Sơn. Còn tất cả 9 sĩ quan trong ban tham mưu nói trên đều bị cùm tay, cùm chân gần năm năm trời trong nhà biệt giam. Nếu ai có ở tù tại phân trại 4 thuộc trung tâm trại "cải tạo" Bình Điền lúc bấy giờ (20 tháng 04 năm 1979) mới chứng kiến được c̏nh công an từ dưới Ty Công An thuộc tỉnh Bình Trị Thiên lên tàn sát tù nhân bất chấp cả bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Chúng đã dã man, bạo tàn đánh đấm liên tục không biết mệt. Sau khi hành nghề đánh, đấm, đá, đạp 3 tiếng đồng hồ, bọn Công An "thợ đấm" bắt đầu rút khỏi trại để lại trong trại 50 tù nhân nằm la liệt, rên la quằn quại trên những vũng máu như anh Nguyễn Văn Thiện, anh Nguyễn Văn Vy, anh Nguyễn Hữu Ái,anh Đôn, anh Nguyễn Trung Việt, anh Nguyễn Hữu Tứ, v.v. giống như cảnh ở ngoài chiến điạ hoang tà chờ trực thăng đến bốc xác chết và những người bị thương vậy.

Chứng kiến cảnh đánh đập một cách man rợ như vậy tất cả tù nhân trong trại đều căm thù đến uất nghẹn. Có một sĩ quan trong phân trại 4 lúc bấy giờ cảm thấy hận thù thêm chất ngất. Mang sẵn trong người giòng máu bất khuất và anh hùng Lê Lợi, Quang Trung, giòng máu kiên cường và dũng cảm của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng cũng như ý thức được Trách nhiệm, Danh dự và Tổ quốc, anh nguyện dấn thân lao vào cuộc chiến mới ngay trong ngục tù Cộng sản; Tiếp tục nuôi dưỡng ý chí đấu tranh đến giọt máu cuốicùng, ngõ hầu mang vinh quang về bồi đắp cho quê mẹ, tô thắm cho non sông. Bởi vì anh ta biết rằng, chân lý dù có bị đè bẹp xuống dưới bùn lầy nước đọng rồi cũng sẽ ngóc đầu dậy mĩm cười với trời xanh bất chấp cả thời gian lẫn không gian. Cho dù anh có thể bị đoạ đày trong kiếp tù tội thêm 10 hay 20 năm nưã, cho dù anh có thể bị xử bắn theo luật rừng, anh vẫn hiên ngang bảo vệ chân lý đến cùng không một chút nao núng trong lòng, đó là:
Thiếu tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG, thuộc Lữ-đoàn 258 TQLC/QLVNCH. Nhận thấy Cộng sản đã đối xử quá tàn nhẫn vơí tù nhân qua chế độ lao tù trong các trại "cải tạo" nhận thấy Cộng sản đối xử tàn tệ vơí vợ con cuả tất cả các sĩ quan cũng như cuả các viên chức thuộc chính phủ Việt Nam Cộng hoà trước đây, nhận thấy Cộng sản sau khi chiếm được miền Nam vẫn cổ xuý chiến tranh gây hấn Kampuchia làm con dân nước Việt chết thêm hàng chục nghìn người, nhận thấy Cộng sản không chịu thực thi những lời cam kế hòa giải dân tộc mà vẫn làm cho nhân dân Việt Nam đói khổ sau hơn 10 năm chiếm được miền Nam,Thiếu tá Võ Đằng Phương mặc dầu đang ở trong ngục tù Cộng sản, quyết định viết một bức thư gởi cho tên Thủ tướng Phạm Văn Đồng để yêu cầu tên thủ tướng nầy giải toả những vấn đề nêu trên. Anh Võ Đằng Phương ở tù lúc bấy giờ đã hơn 10 năm rồi, nhưng anh vẫn dứt khoát viết một bức thư gởi tên Thủ tướng Phạm Văn Đồng để đại diện cho nhân dân Việt Nam yêu cầu chính ph̗ Hà Nội xét lại chính sách hà khắc cai trị nhân dân cuả đảng Cộng Sản Việt Nam. Chính Đại uý Nguyễn Đình Khương, Tiểu đoàn phó TĐ 120 Điạ Phương Quân, người đã tham gia vụ 20 tháng 04, đã bị Cộng Sản cùm gần 5 năm mới được thả ra, đã được anh Phương móc nối để cùng nhau thảo nên bức thư đó. Nội dung bức thư mà anh Võ Đằng Phương gởi lên tên thủ tướng Phạm văn Đồng rất cương trực."

Thơ khá dài, lời lẽ khúc chiết, thẳng thắng, và hợp lý yêu cầu chính quyền CS hãy thực thi vấn dề nhân đạo và hoà giải dân tộc. Hậu quả của lời kêu gọi từ đáy ngục này của các tù nhân VHCH là những trận đòn trả thù và rồi CS đưa ông Võ Đằng Phương ra một tòa án ngụy tạo và kết án ông thêm 10 năm tù. Trong thời gian bị giam cầm ông bị đánh đập tàn nhẫn đến mang thương tích. Khi được trả ra khỏi tù năm 1995 thì sau đó cơn bệnh nội thương do những trận đòn trong ngục tù là ông từ trần.
Quyển sách này còn kể lại nhiều chi tiết động trời khác của chính sách trả thù tù nhân rất đê hèn của kẻ chiến thắng mà tác giả là nhân chứng sống trong trại, ngày nay anh ghi nhận lại để đóng góp thêm cho nguồn sử liệu của quê mẹ Việt Nam.




Tôi xin đi sang quyển sách thứ hai mà cựu tù nhân Dương Viết Điền viết, đó là quyển "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân". 
Sách dầy khoảng 430 trang, gom góp nhiều tài liệu về những tấm gương kiêu hùng sáng ngời của 5 vị tướng tuẩn tiết là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú,Trần Văn Hai và Lê Nguyên Vỹ cùng cái chết vô cùng bất khuất của đại tá Hồ Ngọc Cẩn, một hiện thân của tướng Trần Bình Trọng trong cuộc chiến ý thức hệ mà hệ lụy của biến cố đau thương 30-04-1975 vẫn làm cho chúng ta nhức nhối. Sách được chia ra làm 3 chương chính:
* Chương 1: từ trang 1 đến 13 tác giả luận bàn về Đạo làm tướng, trích dẫn sách Khổng Minh, các gương bất khuất của tiền nhân Việt Nam trong lịch sử chống Tàu, kháng Tây.
* Chương 2: trang 41 đến 246, xem như chương một trong hai chính của sách, nói về cái chết oai hùng của 6 vị sĩ quan cao cấp của QLVNCH.
* Chương 3: trang 264 đến 415, nói về những cái chết tức tưởi, những cuộc tự sát khác của các quân nhân cán chính VNCH không để lọt vào tay giặc.

CHƯƠNG I:(Trang 1 đến 40)

Tóm tắt chương luận bàn về cái Dũng của người Đông Phương, gồm những điển tích, gương lịch sử Tàu, Nhật và Việt Nam:

"Một dũng tướng là một vị tướng hùng dũng, mạnh mẽ, can đảm, gan dạ, thấy việc nghĩa thì làm ngay, sẵn sàng gánh lấy trách nhiệm trước lịch sử, sẵn sàng hy sinh vì chính nghĩa, vì tổ quốc để bảo vệ danh dự và khí tiết của mình.
Vì vậy, trong thiên thứ bảy, Khổng Minh cũng đã đề cập đến lòng trung nghĩa của tướng súy như sau: "Việc binh là việc dữ, tướng súy là người giữ nhiệm vụ nguy hiểm. Do vì chí khí cứng cỏi thì phải thiếu thốn, lầm lỗi, nhiệm vụ quan trọng thì nguy hại đến thân thể.".
Hạng tướng mà có lòng trung nghĩa (một lòng vì nước) thường không sợ nguy hiểm, lầm lỗi và không sợ nguy hại đến thân thể, nghĩa là xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, chỉ biết chu toàn nhiệm vụ giao phó...

Khi phong trào Cần Vương nổi lên, ở miền Trung, cử nhân Mai Xuân Thưởng đã ngạo nghễ với câu, "Thà làm đoạn đầu tướng quân, chứ không thà làm hàng đầu tướng quân." Ở miền Bắc, cử nhân Nguyễn Cao đã khoét rún, móc ruột ném vào mấy tên giặc Pháp rồi cắn lưỡi tự tử, được người đời ca ngợi:

"Thệ tâm thiên địa phi trường xích
Thiết xỉ giang san mãn thiệt hồng"
(Rút ruột đỏ phơi tim vũ trụ
Nghiến răng hồng nhai lưỡi non sông)

Còn ở trong Nam, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực, Cử nhân Phan Văn Đạt, Hồ Huân Nghiệp, thà chịu tử hình chứ không bao giờ đầu hàng giặc Pháp."

CHƯƠNG 2: (Trang 41-263)

Tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu Việt Nam cũng như ngoại ngữ khi tham khảo viết sách nàỵ chương hai đề cập đến những tấm gương vị quốc vong thân như tựa đề sách này. Noi gương những vị anh hùng dân tộc nói trên, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản vì bị Đồng minh Hoa Kỳ phản bội khi bỏ rơi phủi tay ra đi, nhiều tướng lãnh trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã tự sát để bảo toàn danh nghĩa của một dũng tướng thời chiến. Tôi xin làm phần tóm lược như sau:

• Nguyễn Khoa Nam: Sinh ngày 23 tháng 9, 1927 tại Thừa Thiên. Tốt nghiệp khóa 3 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào năm 1953. Là một trong những sĩ quan trẻ tuổi được vinh thăng cấp tướng lẹ nhất do chiến công. Cấp bậc cuối cùng làm Thiếu tướng. Giờ cuối trước khi miền nam thất thủ ông là Tư lệnh Quân đoàn 4. Tướng Nam là một vị tướng cương trực, đức độ, thanh liêm và gan dạ. Sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội VNCH buông súng, bàn giao quyền hành lại cho quân đội Bắc Việt, ông ra lệnh cho quân các cấp hãy trở về với gia đình và ông tự sát bằng cách bắn vào đầu mình. 
• Lê Văn Hưng: Sinh ngày ngày 27 tháng 3 năm 1933 tại Hốc Môn. Tốt nghiệp hai quân trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức và Võ bị Đà Lạt. Cấp bậc cuối cùng là Chuẩn tướng, ông có 50 huy chương đủ loại, mà trong số đó có nhiều huy chương cao quí. Chức vụ cuối là Tư lệnh pho Quân đoàn 4, trú đóng tại Cần Thơ. Năm 1972, Tướng Hưng lập chiến công anh dũng tại An Lộc. Như Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, ông tự sát bằng súng để bảo toàn danh dự của QLVNCH. Tướng Hưng có thành tích cương trực, đạo đức và gan dạ khi chiến đấu.

• Phạm Văn Phú: Sinh năm 1929 tại Hà Đông. Ông tốt nghiệp trường Võ bị Liên quân Đà Lạt khoá 6. Ông là sĩ quan dù từ thuở chiến trường sôi động Điện Biên Phủ, năm 1954. Sau cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên khi ông phụ trách làm Tư lệnh Quân khu 2, ông về Sài Gòn lâm bệnh được điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hoà. Sáng ngày 29/04/1975 trước tình thế nguy ngập của Sài Gòn ông kết liễu đời mình bằng một liều thuốc cực mạnh.

• Trần Văn Hai: Sinh năm 1926 tại Cần Thơ. Ông xuất thân Khóa 7 trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Ông là cựu Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Động Quân, cựu Tổng giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Chức vụ cuối của Chuẩn tướng Hai là Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh đóng tại Mỹ Tho. Trong khi bàn giao nhiệm sở cho quân thù, ông dùng súng bắn vào đầu tự sát.

• Lê Nguyên Vỹ: Sinh ngày 22 tháng 8, năm 1933 tại Sơn Tâỵ Ông tốt nghiệp khóa 2 trường Võ bị Địa phương Trung Việt tại Đập Đá, Huế năm 1951. Ông cùng với tướng Lê Văn Hưng lập công đẩy lui cộng quân ra khỏi An Lộc, tỉnh Bình Long trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Chức vụ cuối của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ là tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Ông là tướng đánh giặc can đảm, kỷ luật và thanh liêm. Khi được lệnh buông súng, bàn giao nhiệm sở, ông kê súng vào cằm tự sát để giữ khí tiết của QLVNCH.

• Hồ Ngọc Cẩn: Sinh ngày 24 tháng 3, năm 1938 tại Cần Thơ. Ông theo học trường Thiếu Sinh Quân, theo học khóa 2 Sĩ quan Đặc biệt Nha Trang. Ông giữ nhiều chức vụ tác chiến trong binh chủng Biệt Động Quân trong giai đoạn đầu đường binh nghiệp, rồi được biệt phái sang các Sư đoàn 21 và Sư đoàn 9 Bộ Binh. Chức vụ cuối cùng của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn là Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện. Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu để cuối cùng địch quân vây bắt và mang ra xử bắn tại Sân vận động CầnThơ ngày 14 tháng 8, 1975.

Cái chết của các vị sĩ quan cao cấp này đem lại những đóa hồng tô điểm cho danh dự và sĩ khí của QLVNCH trong cơn đại hồng thủy đến với VNCH. Vị cố vấn Hoa Kỳ của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã phải hối hận thốt lên lời nuối tiếc như sau: "Là một người Mỹ tôi cảm thấy hối hận để miền Nam Việt Nam bị bức tử và Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị giết" (Trung tá Craig Mandeville).

CHƯƠNG III: (Trang 264-426)

Ngoài những vị tướng lãnh đã tự vẫn nói trên, còn có rất nhiều sĩ quan cấp tá, cấp úy, cấp hạ sĩ quan, binh lính và một số công chức, cảnh sát, cán bộ trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trước đây cũng đã tự sát trong biến cố đau buồn này. Cho đến hôm nay người ta mới chỉ biết tổng quát khoảng 22 Trung đoàn trưởng, Liên đoàn trưởng và hơn 100 sĩ quan đã tự sát sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản. Trên thực tế con số có thể cao hơn. Sau đây tôi cũng xin được trích ra hai trường hợp mà tác giả Dươg Viết Điền ghi nhận trong chương này:
 

nguyenvannam1004-1

 
* The Seven Samurai in VietNam: Theo tài liệu 30-04 trong kho dữ liệu của hãng Thông tấn Nhật bản Kyodo về "Bảy Hiệp Sĩ Việt Nam". Ngày 30-04-1975 là ngày đau thương vì QLVNCH bị bức tử, người lính bị bẻ gãy súng bởi chiến lược toàn cầu của Mỹ thay đổi. Bảy người lính Dù mà trưởng toán là thiếu úy Hoàng Văn Thái tụ họp tại một bùng binh trong Chợ Lớn, và họ chọn lựa sự buông súng trong danh dự khi tự kết liễu đời mình sau khi hát xong bài quốc ca VNCH, họ xếp thành vòng tròn, mỗi người tay trong tay một quả lựu đạn, mở chốt một lợt. Một tiếng nổ chát chúa tiễn biệt họ ra đi vì danh dự.

* Một trường hợp thứ hai tang thương không kém. theo lời tường thuật của anh Trung úy Cảnh sát Nguyễn Văn Đình định cư ở Houston chứng kiến tại hiện trường sự tự sát tập thể của 9 quân nhân Nhảy Dù, họ nằm trong toán bảo vệ Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình. Khi lệnh buông súng ban ra toán quân nhân này đã xã súng bắn vào nhau, xác thân họ tan nát cho sự ra đi nhuốm màu máu anh hùng nhất, đáng kính nhất của QLVNCH.

Như đã bàn ở phần trên, chương này được kéo dài khi tác giả nêu ra vô số những gương anh dũng của các chiến binh khắp các binh chủng, và các cán bộ, viên chức VNCH. Họ là những người con yêu, trung thành với lý tưởng QG, họ nêu cao những nguyên tắc: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Một khi sứ mạng bảo vệ non sông đất nước không vẹn toàn, họ chọn sự ra đi trong danh dự. Họ mang cái dũng khí như những Samurai Nhật Bản, họ trọng danh dự cá nhân. Quân sử VNCH muôn đời sẽ vinh danh họ.

30-04-2004 này, tôi chọn 2 quyển sách "Trại Ái Tử và Bình Điền" và "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân" này để tưởng niệm gương hy sinh của bao nhiêu anh hùng tử sĩ của VNCH. Họ chiến đấu bảo vệ quê hương, họ không hèn, dù bạn bè đồng minh bỏ họ, người chiến sĩ can trường Hồ Ngọc Cẩn cũng như vô số anh hùng vô danh từ Dù, BĐQ, TQLC, LLĐB, Thiết Giáp,..., Địa Phương quân, Cảnh Sát QG vẫn còn chiến đấu. Họ biên những trang sử cuối cùng hào hùng nhất cho VNCH, lòng dũng cảm, cái hào khí "Chết Vinh Hơn Sống Nhục" này của họ chắc chắn sẽ được ghi nhớ và lưu danh muôn thuở. 

Ôn lại lịch sử cuộc nội chiến Nam-Bắc vì ý thức hệ dị biệt chính kiến trong thế kỷ 20, người CSVN vi phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác. Họ ngủ quên trong giấc mộng làm con cờ thí nhân lực Việt Nam cho chủ thuyết quốc tế hóa CS hay họ cố bám víu lấy nó làm bình phong để sinh tồn. Từ khi quân Pháp bại trận tại mặt trận Điện Biên Phủ, đảng CSVN thường huênh hoang, bốc thơm cuộc chiến đấu "thần thánh" của cái QDNDVN (sic), và rằng viên tướng Võ Nguyên Giáp "thần kỳ" điều binh khiển tướng,... rồi thêu dệt huyền thoại chiến thắng Điện Biên. Sau khi CSVN và CS Trung quốc đánh nhau năm 1979, viên Thống tướng Diệp Kiếm Anh của Trung quốc vén bức màn nhung của lịch sử, ông cho biết toàn bộ chiến lược, chiến thuật của cuộc diện Điện Biên được thiết kế, bày vẽ tại Bắc Kinh, quân đội Trung quốc đã tiếp sức nhân lực, vật lực, lính Trung quốc trà trộn vào, họ đã đổ máu cho sự ngụy tạo nên cái huyền thoại "thần kỳ" của tên tuổi Võ Nguyên Giáp. Những năm từ 1965 đến 1974, vì Hoa Kỳ phong tỏa chặt chẽ cảng H˧i Phòng, nên tàu Trung quốc chở thẳng vũ khí vào miền nam tiếp tế cho VC. Những mặt trận Ba Ngòi, Vũng Rô,... là các chuyến đổ hàng mà HQVNCH chận bắt. Rồi sự kiện quân đội Trung quốc sang Việt Nam đảm nhiệm vai trò yểm trợ tiếp vận chiến trường để Bắc Việt đẩy quân vào nướng tại chiến trường miền Nam qua chiêu bài "Sinh Bắc Tử Nam".

Chưa hết, hàng ngũ đảng và quân đội nhân dân CSVN thối nát, là một tập đoàn bán nước, là một hủ mắm khi tin tức tình báo quốc tế cho thấy hàng tướng lãnh cao cấp rất tham lam, tranh ăn, đấu đá lẫn nhau từ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, và họ sống bằng xương máu của dân tộc Việt Nam.
Khi chiếm xong miền nam, tướng Văn Tiến Dũng giành chiến công tung ra quyển sách "Đại Thắng Mùa Xuân", khoe khoang, khoác lác bẻ cong lịch sử như trò hề khi nói phét "cuộc chiến thần tốc" đánh chiếm miền Nam. Y tự kể công đầu bỏ ra yếu tố "thần kỳ" Võ Nguyên Giáp vào sọt rác, vì đảng CSVN vốn là đám lãnh đạo vô liêm sĩ, tham ăn, tranh giành quyền lực như loài kên kên, ác điểu cấu xé lẫn nhau. Nhiều tài liệu của giới truyền thông Hoa Kỳ trình bày từ báo chí đến Ti-Vi cho thấy Ngoại trưởng Henry Kissinger đã đi đêm thf1ýõng thảo ði ðến thoã thuận ngầm với Lê Đức Thọ tại Paris về việc quân đội Bắc Việt hãy để quân đội Hoa Kỳ rút êm ra khỏi Việt Nam. Henry Kissinger cũng bay sang Bắc Kinh gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai thương lượng cho những điều kiện trao đổi Trung quốc giúp Mỹ rút quân và khi Trung quốc xâm chiếm các hải đảo của VNCH thì Hạm đội Thứ 7 của Mỹ sẽ án binh bất động, không can thiệp. Lê Đức Thọ và chính trị bộ của CSVN đã nắm chắc lá bài tẩy từ chính quyền Hoa Kỳ là ý muốn rút quân bằng mọi giá. Mới đây Ti-Vi Mỹ cho trình chiếu lại buổi điều trần tại Quốc hội Mỹ của một trong những ông vua phản chiến là John Kerrỵ Sau khi từ chiến trường ở Việt Nam về y trở nên chống báng, bài bác chiến tranh Việt Nam, chỉ trích chính quyền Mỹ thậm tệ. Điều mà người Việt QG đau lòng nhất là đoạn ông kể rằng ông đã bay sang Paris gặp gỡ và điều đình với Lê Đức Thọ nhiều lần, hai bên thương thảo cho việc Mỹ rút quân. John Kerry cho Quốc hội Mỹ biết là Lê Đức Thọ cam kết Bắc Việt sẽ không tấn công Mỹ trong kế hoạch rút lui toàn bộ ra khỏi Đông Dương. Hành động đi đêm của Henry Kissinger và John Kerry với Lê Đức Thọ tại Paris là cái tát vào sự phét lác của sách Văn Tiến Dũng, những thoã thuận của các chuyến bay đêm này là những nhát dao ân huệ mà người bạn Đồng Minh kết liễu số mạng của VNCH.

Từ kế hoạch đánh chiếm tiền đồn Điện Biên Phủ do kiến trúc sư chiến thuật Diệp Kiếm Anh điều động trên cao năm 1954 cho đến những chuyến bay đêm của Henry Kissinger tại Paris và Bắc Kinh đưa CSVN đến việc sau này đảng và chính quyền CSVN phải đem đất đai phía bắc của quê hương mà tiền nhân để lại dâng hiến như hình thức trả nợ cho CS Trung Quốc, cũng như triều cống các hải đảo ngoài biển Đông qua những hiệp định giữa hai quốc gia. Lịch sử cho thấy người CSVN đội lốt hình hài của Lê Chiêu Thống tân thời, cỏng ȓn cắn gà nhà. Họ giỏi đè đầu cưỡi cổ nhân dân Việt Nam, nhưng lại nhút nhát, khúm núm đi bằng đầu gối trước đàn anh Trung quốc.

Sách DVĐ cho tôi dử kiện người quân nhân trong QLVNCH là những anh hùng khi "Quốc gia hưng phong, thất phu hữu trách", họ được đào tạo và phục vụ trong những đơn vị chuyên nghiệp trong sứ mạng để bảo vệ người dân và quê hương. Trong khi đó trớ trêu thay cái "Quân đội Nhân nhân Việt Nam" (QDNDVN) là thực thể núp vú Quân đội Trung quốc từ huyền thoại Điện Biên Phủ cho đến về sau. Xuyên qua bao tài liệu về cuộc chiến Việt Nam gần đây phanh phui ra về "cái-gọi-là" QDNDVN là không "thần thánh" như người CSVN vẽ vời, tự đánh bóng cho mìh, mà chỉ là đạo ngụy quân nhận lãnh vai trò xâm lăng để bành trướng cho chủ thuyết CS quốc tế theo đơn đặt hàng của Soviet khi xâm lăng các quốc gia lân bang, để rồi sinh mạng, xương máu người Việt Nam bị hy sinh vô ích và đất đai VN càng mất mát thêm vào tay ngoại bang phương bắc, và rồi QDNDVN chỉ là thứ phỗng đá vô tích sự. Kẻ thủ lợi vẫn chỉ là tầng lớp chóp bu trong đảng CSVN, thống lãnh quê hương. 

Sau hết, tôi xin chân thành cám ơn tác giả Dương Viết Điền đã bỏ nhiều thời giờ đi sưu tầm, tham khảo để viết ra hai quyển sách này, cũng như cho tôi nguồn tài liệu dùng trong sách tham khảo khi viết bài. Nói chung thì việc xuất bản hai quyển tài liệu trong giai đoạn miền nam bức tử này là một việc làm đáng ca ngợi, nhất là cho thế hệ mai hậu có thêm nguôn sử liệu. Anh đã bỏ ra năm năm trời ròng rã để hoàn tất cuốn "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân". Năm năm đi sưu tập dử kiện cho một quyển sách bình thườg như hồi ký cá nhân có thể là dài, nhưng nó sẽ không dài cho một tập tài liệu cặn kẽ có đặc tính sử ký quý báu soi sáng ngàn sau về bao anh hùng trong QLVNCH xã thân bảo vệ giang san. Tác giả DVĐ đã viết bằng tim óc, anh viết bằng nước mắt quê hương trong ngục tù, và viết bằng kinh nghiệm đau thương, nỗi nhục nhằn của chính mình. Anh nguyện viết với ngòi bút tri ân những anh hùng vị quốc vong thân. Họ ra đi trong cái khí phách hào hùng mà sách Dương Viết Điền so sánh với cái "Dũng" của người Đông Phương và chúng ta đã thấy anh đã trích dẫn trong sách. 

Việt Hải, Los Angeles 
_______________________
Vietnam Library Network http://www.vietnamlibrary.net
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
__._,_.___

No comments:

Post a Comment