Đầu năm đốt lại lò hương cũ : CHARLIE ngày ấy & CHARLIE bây giờ
Vị trí và địa hình cứ điểm Charlie trên bản đồ quân sự
Quả tình nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.
Charlie, "Cải Cách," hay "C," đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.
Từ xa xưa cho đến khi ngọn đồi này bị tràn-ngập. Nó vốn không hề có tên. Charlie chỉ là một check point trên bản đồ quân-sự cho các cuộc hành-quân hoặc một chiến-dịch. Và cái tên Charlie cũng chỉ là nhất thời, nó cũng như những check point khác như Delta, Yankee, Metro . . . chỉ được sử-dụng trong một giai-đoạn có thể là rất ngắn cho đến khi hết cuộc hành-quân hoặc chiến-dịch mà thôi. Qua đến chiến-dịch hoặc cuộc hành-quân khác, những check point cũ sẽ không còn được sử-dụng nữa. Chúng có thể sẽ được sử-dụng bởi những tên mới khác.
Charlie cái tên được đặt đầu mùa 1972 cho một ngọn đồi để tiếp nhận định mệnh tàn khốc trong cuộc chiến trùng trùng.
Thiếu tá Lê Văn Mễ lên thay thế và tiếp tục cuộc “thánh chiến” tử thủ Charlie.
Thiếu tá Lê Văn Mễ (dang rộng tay) cùng đồng đội của Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù
trên đồi Charlie trước cơn bão lủa Hè 1972
Sau
7 ngày giao chiến không được tiếp tế, hết thực phẩm nước uống, cạn đạn
dược. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù được lệnh bỏ cứ điểm. Trong màn đêm họ rút về
hướng Đông Bắc. Một số binh sĩ bị thương quá nặng đã tình nguyện ở lại
cầm chân địch quân để đồng đội an toàn rời tử địa. Tiểu đoàn rút khỏi
đỉnh đồi gần nửa cây số những cơn địa chấn dội xuống từ pháo đài bay
B-52 san bằng Charlie, Cứ Điểm Thép của 11 Nhảy Dù cháy hừng hực trong
cơn bão lửa, trong vụn vỡ nát tan của núi rừng hoang dã Tây Nguyên,
chẳng còn gì nguyên vẹn ngoại trừ hồn phách của những người lính Nhảy Dù
can
trường của Tiểu Đoàn Song Kiếm Trấn Ải !
Charlie, "Cải Cách," hay "C," đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.
Từ xa xưa cho đến khi ngọn đồi này bị tràn-ngập. Nó vốn không hề có tên. Charlie chỉ là một check point trên bản đồ quân-sự cho các cuộc hành-quân hoặc một chiến-dịch. Và cái tên Charlie cũng chỉ là nhất thời, nó cũng như những check point khác như Delta, Yankee, Metro . . . chỉ được sử-dụng trong một giai-đoạn có thể là rất ngắn cho đến khi hết cuộc hành-quân hoặc chiến-dịch mà thôi. Qua đến chiến-dịch hoặc cuộc hành-quân khác, những check point cũ sẽ không còn được sử-dụng nữa. Chúng có thể sẽ được sử-dụng bởi những tên mới khác.
Charlie cái tên được đặt đầu mùa 1972 cho một ngọn đồi để tiếp nhận định mệnh tàn khốc trong cuộc chiến trùng trùng.
Người ở lại Charlie, Cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo (phải),
Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù (với Đ/U Dù Đoàn Phương Hải. trái)
Tháng 4 năm 1972 Sư đoàn 320 Bắc Việt bao vây cứ điểm Charlie. Những cơn mưa pháo kinh khiếp, tàn nhẫn đạt tới “ điểm đứt hơi, điểm vỡ của chiến trận”(chữ dùng của PNN) phủ chụp xuống đồi Charlie, nối tiếp những đợt cường tập biển người của Cộng quân. Ngày 12 tháng 4 hỏa tiễn 122 mm pháo trúng hầm chỉ huy, Trung tá Nguyễn Đình Bảo (Tiểu Đoàn Trưởng ) tử trận.
Một trong những con sói đầu đàn của binh chủng Nhảy Dù sau mười hai năm
ngang dọc chiến trận đã chấm hết phút đó trên cao độ 1020 trông về bốn hướng chập chùng đồi cao tiếp núi thẩm. Trường Sơn ác độc nhận thêm một hình hài ! Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù (với Đ/U Dù Đoàn Phương Hải. trái)
Thiếu tá Lê Văn Mễ lên thay thế và tiếp tục cuộc “thánh chiến” tử thủ Charlie.
Thiếu tá Lê Văn Mễ (dang rộng tay) cùng đồng đội của Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù
trên đồi Charlie trước cơn bão lủa Hè 1972
Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tử
Nửa ngày ở Dakto
Sớm mai bắn súng lên trời
Chào cô gái Thượng mang đời trên lưng
Buổi trưa xuống, phố tưng bừng
Chào nhau, Mũ Đỏ không mừng không lo.
Vào Charlie
Trăm con chim lạ về rừng
Cờ treo hai ngọn, lẫy lừng chiến khu
Kontum gió núi, sương mù
Theo quân vào cuộc, sinh, từ, quê hương
Ba lô, súng trận, sa trường
Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Điệu sầu nửa phím tơ loan
Áo phong sương đã mấy lần tả tơi
Xung phong vũ khúc lên đồi
Bom rơi, pháo nổ, thây người ngả nghiêng
Tóc tai phủ mặt đêm đen
Đầy trời khói lửa Tam Biên, bảo bùng
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Charlie gẩy cánh thiên thần. Tiếc Thương
Cánh dù lộng gió muôn phương
Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi
Tay khô đốt sáng đỉnh trời
Lập loè đốm lửa, thắp đời quạnh hiu.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập Để kính nhớ cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, và đồng đội tôi.
Để tưởng nhớ đề lô Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù, Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn Úy Sơn, và 10 đệ tử trong đó có hai đệ tử chúng tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nhì Nhỏ còn ở lại Charlie…
Để tưởng nhớ anh em Không Quân đã hy sinh để bảo vệ chúng tôi suốt trận đánh lịch sử này…
CHARLIE bây giờ
( Sinh Tồn chuyển )
Nửa ngày ở Dakto
Sớm mai bắn súng lên trời
Chào cô gái Thượng mang đời trên lưng
Buổi trưa xuống, phố tưng bừng
Chào nhau, Mũ Đỏ không mừng không lo.
Vào Charlie
Trăm con chim lạ về rừng
Cờ treo hai ngọn, lẫy lừng chiến khu
Kontum gió núi, sương mù
Theo quân vào cuộc, sinh, từ, quê hương
Ba lô, súng trận, sa trường
Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Điệu sầu nửa phím tơ loan
Áo phong sương đã mấy lần tả tơi
Xung phong vũ khúc lên đồi
Bom rơi, pháo nổ, thây người ngả nghiêng
Tóc tai phủ mặt đêm đen
Đầy trời khói lửa Tam Biên, bảo bùng
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Charlie gẩy cánh thiên thần. Tiếc Thương
Cánh dù lộng gió muôn phương
Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi
Tay khô đốt sáng đỉnh trời
Lập loè đốm lửa, thắp đời quạnh hiu.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập Để kính nhớ cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, và đồng đội tôi.
Để tưởng nhớ đề lô Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù, Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn Úy Sơn, và 10 đệ tử trong đó có hai đệ tử chúng tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nhì Nhỏ còn ở lại Charlie…
Để tưởng nhớ anh em Không Quân đã hy sinh để bảo vệ chúng tôi suốt trận đánh lịch sử này…
CHARLIE bây giờ
Ngày hôm
nay, khi chúng tôi lại một lần nữa đến viếng ngọn đồi đã lừng-danh này.
Cũng là ngôi mộ mang tên Charlie chôn kín niên-trưởng Cố Đại-tá
Nguyễn-Đình-Bảo, Tiểu-đoàn Trưởng Tiểu-đoàn 11 – Song Kiếm Trấn Ải con
sói đầu đàn của Sư-đoàn Nhảy Dù. Cùng bao chiến-sĩ Dù thuộc cấp của Ông.Từ
một người phụ-nữ lam-lũ với đồng-áng, nương, rẫy. Đến những người
hành-nghề Honda ôm tại Pleiku, Kontum nói chung, ở Sa-châu nói riêng
v.v… tất thảy họ đều biết ngọn đồi Charlie. Họ sẽ chỉ-dẫn rất tận-tình
và rõ-ràng những chi-tiết cho những ai muốn đến nơi đó.
Một ngày nào đó, khi non-sông gấm-vóc của chúng ta được tươi-sáng lại, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước mắt của người lính VNCH trên "địa linh" CHARLIE sẽ được hồi sinh cho thế hệ con cháu đời sau chiêm ngưỡng.
Nếu không có sự hy-sinh của Tiểu-đoàn Song Kiếm Trấn Ải Hè Đỏ Lửa 1972. Hẳn trong dân-chúng miền Tây-nguyên đã không bao giờ biết đến nó, nhớ đến nó. Cố Đại-tá Nguyễn-Đình-Bảo và các chiến-hữu của Ông đã định danh cho nó rồi : Đồi CHARLIE.
Nếu trên Ql 14, tại Dakto chúng ta sẽ phải rẽ trái (hướng Tây). Rồi mất thêm 49 cây số nữa mới tới được Charlie tại thị-trấn Sa-châu.
Nhưng khởi-hành từ Kontum chúng ta đi, thì tới ngã ba Trung-chính chúng ta rẽ trái (hướng Tây) và chỉ mất hơn 20 cây số là đến Charlie (Sa-châu) mà thôi. Như vậy, nếu ta lấy 3 điểm Kontum, Dakto và Charlie, thì chúng sẽ tạo ra một hình tam-giác mà Charlie là đỉnh có cạnh đáy là Kontum và Dakto.
Đồi Charlie và khu dân-cư Sa-châu, được nhìn từ Sa-bình cách Sa-châu 9 cây số.
Một ngày nào đó, khi non-sông gấm-vóc của chúng ta được tươi-sáng lại, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước mắt của người lính VNCH trên "địa linh" CHARLIE sẽ được hồi sinh cho thế hệ con cháu đời sau chiêm ngưỡng.
Nếu không có sự hy-sinh của Tiểu-đoàn Song Kiếm Trấn Ải Hè Đỏ Lửa 1972. Hẳn trong dân-chúng miền Tây-nguyên đã không bao giờ biết đến nó, nhớ đến nó. Cố Đại-tá Nguyễn-Đình-Bảo và các chiến-hữu của Ông đã định danh cho nó rồi : Đồi CHARLIE.
Nếu trên Ql 14, tại Dakto chúng ta sẽ phải rẽ trái (hướng Tây). Rồi mất thêm 49 cây số nữa mới tới được Charlie tại thị-trấn Sa-châu.
Nhưng khởi-hành từ Kontum chúng ta đi, thì tới ngã ba Trung-chính chúng ta rẽ trái (hướng Tây) và chỉ mất hơn 20 cây số là đến Charlie (Sa-châu) mà thôi. Như vậy, nếu ta lấy 3 điểm Kontum, Dakto và Charlie, thì chúng sẽ tạo ra một hình tam-giác mà Charlie là đỉnh có cạnh đáy là Kontum và Dakto.
Đồi Charlie và khu dân-cư Sa-châu, được nhìn từ Sa-bình cách Sa-châu 9 cây số.
Van Toan (TM toàn thể thân hữu Quốc Nội)
Lối vào dễ-dàng nhất và gần nhất để đến Charlie.
( Sinh Tồn chuyển )
Charlie, Ngọn Ðồi Quyết Tử
Charlie, Ngọn Ðồi Quyết Tử
Nửa ngày ở DaktoSớm mai bắn súng lên trờiChào cô gái Thượng mang đời trên lưng Buổi trưa xuống, phố tưng bừngChào nhau, Mũ Ðỏ không mừng không lo.Vào CharlieTrăm con chim lạ về rừngCờ treo hai ngọn, lẫy lừng chiến khu Kontum gió núi, sương mùTheo quân vào cuộc, sinh, từ, quê hươngBa lô, súng trận, sa trườngTiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn Ðiệu sầu nửa phím tơ loanÁo phong sương đã mấy lần tả tơiXung phong vũ khúc lên đồiBom rơi, pháo nổ, thây người ngả nghiêng Tóc tai phủ mặt đêm đenÐầy trơiø khói lửa Tam Biên, bảo bùngMột thời ngang dọc kiêu hùngCharlie gẩy cánh thiên thần. Tiếc Thương Cánh dù lộng gió muôn phươngVào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùiTay khô đốt sáng đỉnh trờiLập loè đốm lửa, thắp đời… quạnh hiu.
Ðể
kính nhớ cố Ðại Tá Nguyễn Ðình Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, cùng đồng
đội Nhảy Dù và Không Quân đã hy sinh trong trận Charlie…
Ðại Tá Nguyễn Ðình Bảo
Ðể
tưởng nhớ đề lô Tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy Dù, Trung úy Nguyễn Văn
Khánh, Chuẩn Úy Sơn, và 10 đệ tử trong đó có hai đệ tử chúng tôi là Hạ
sĩ Hạnh, Binh nhì Nhỏ còn ở lại Charlie…
Tất
cả ám danh đàm thoại truyền tin của Pháo binh Nhảy Dù đều bằng 4 con
số, thí dụ như pháo kích gọi là 3113, bắn hiệu quả gọi là 3134, và tên
các giới chức gọi bằng 3 con số, thí dụ như tên chúng tôi gọi là 314,
mọi tần số truyền tin đều chuyển qua hệ thống của đề lô cho dể tác xạ,
và bài này sử dụng bạch văn cho độc giả dể hiểu.
(
Tiếng động cơ trưc thăng hoặc tiếng phi cơ vận tải dồn dập rồi đáp
xuống). Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 2 Pháo binh theo
Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù đi hấp tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Phước
Tuy, giửa chương trình huấn luyện có một cuộc hành quân nhảy dù và có
phi pháo yễm trợ bằng đạn thật. Cũng như những lần tập trước đây, bải
đáp là một cánh đồng trống với nhiều bụi tre lúp xúp, khi toàn bộ Tiểu
đoàn 7 và một Pháo đội Dù với 6 cây đại bác 105 ly kiểu M102 được trang
bị vũ khí đầy đủ nhảy từ phi cơ 123 an toàn đáp xuống đất, là mở đầu
ngay cuộc tấn công mục tiêu bằng đạn thật vào một khu rừng sát chân núi (
tiếng đạn nổ trên mục tiêu). Cũng vào thời gian này Pháo binh Nhảy Dù
vừa mới được trang bị loại đạn cay CS 105 ly nên Tiểu đoàn của chúng tôi
được lệnh phải bắn thử loại đạn này, tôi cùng một Tiền Sát Viên hình
như là Trung úy Ðỗ Trọng Dụng được lệnh đeo mặt nạ ngồi dưới hầm gọi tác
xạ bắn ngay trên đầu để thử công hiệu.
Cuộc
bắn thử này có nhiều giới chức quân sự cao cấp đứng trên một khán đài ở
xa để quan sát. Tôi vừa hồi hộp vừa tự trấn an, ai bảo đi pháo binh,
sinh nghề tử nghiệp mà, nếu điều chỉnh xa mục tiêu thì mất mặt KBC 4522,
còn nếu bắn ngay trên đầu thì chiếc mặt nạ thổ tả này có chịu nổi hàng
chục trái đạn cay hay không. Tôi chưa kịp lo ra thì Tiểu đoàn thông báo
cho tôi xuống pháo đội lảnh hai đề lô đi tiền sát cho Tiểu đoàn 9 Dù.
Một chiếc xe Dodge đưa ngược chúng tôi về Saigon, thầy trò vừa xuống xe
vào trình diện Ban 3 Tiểu đoàn 9 thì lại được một công điện về trình
diện Tiểu đoàn 11 của Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo để đi Kontum.
Những
bất thường trong đời lính làm cho tôi không thấy có điều gì bất tường
cả trong lệnh điều động này. Ðầu năm 1972, chiến sự đã trở nên sôi động
nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến được gọi là chiến
tranh ý thức hệ này cũng chẳng được giới sĩ quan trẻ như chúng tôi để ý
nhiều, chỉ quan niệm đơn giản đến tuổi là phải đi lính để bảo vệ quốc
gia. Mới đổi về Nhảy Dù đúng một năm mà đã tham dự hàng chục cuộc hành
quân lớn nhỏ, cái chết lúc nào cũng cận kề làm tôi chẳng còn ý niệm gì
về những cuộc ra đi của bạn bè về vùng 5 da ngựa bọc thây. Vì ở đâu,
Nhảy Dù có đụng là đụng thứ thiệt, chơi thật sự với
đại pháo 130 ly, với xe tăng T54, và biển người cỏ rác nhất định sinh
Bắc tử Nam để thực hiện cho bằng được mộng làm tôi đòi cho cộng sản quốc
tế của Bắc Bộ Phủ, ở đâu, chúng tôi cũng phải một đánh ba là thường
xuyên, còn nếu không Bộ Tổng Tham Mưu chẳng bao giờ chịu sử dụng cả.
Nhưng ở đây, Charlie, chúng tôi phải một đánh mười, Mặt trận B3 của cộng
quân với Sư đoàn Thép 320, Sư đoàn 968, chưa kể các Trung đoàn pháo và
phòng không dầy đặc đã sẳn sàng đợi Tiểu đoàn “Song Kiếm Trấn Ải ” danh
hiệu 11 Dù hai cây đèn cầy.
Phi
cơ bay ra Pleiku ở một đêm, rồi hôm sau theo đường bộ ra Kontum, rồi đi
Tân Cảnh theo Quốc lộ 14, dọc đường nhiều quán thịt rừng mọc lên làm
tôi nhớ lại Saigon, những bửa còn tiền thì đấu với đại võ sĩ Rémy Martin
hoặc cạn túi thì chơi với võ sĩ hạng lông rượu rắn tại Quán thịt rừng
Tân Vạn, gần hậu cứ Nguyễn Huệ. Xe qua Căn cứ B5 rồi Diên Bình, những
người lính Ðịa Phương Quân đứng trên cầu vẫy tay cười cười, cái khung
cảnh bình yên này chỉ trong thời gian ngắn nửa thôi là có chuyện lớn xảy
ra, đó là cái bất tường của đời lính. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ở
Võ Ðịnh, tôi nhận bản đồ hành quân từ Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù của
Thiếu Tá Bùi Ðức Lạc (hiện ở San Jose), là vị Tiểu Ðoàn Trưởng tiền
nhiệm của Tiểu đoàn tôi, và chuẩn bị nhảy vào Charlie. Sĩ Quan Liên Lạc
Pháo Binh Tiểu đoàn 11 Dù tức đề lô chúa là Trung úy Lưu Văn Ðúng danh
hiệu 310, một đàn anh chưa bao giờ chịu học nhảy dù, đã triệu tập chúng
tôi lại phân chia và thông báo nhiệm vụ, Trung úy Nguyễn Văn Khánh danh
hiệu 311, cũng là bạn cùng khóa với tôi là đề lô Ðại đội 111 của Trung
úy Thinh. Chuẩn Úy Sơn danh hiệu 312, đề lô Ðại đội 112 của Ðại Úy Hùng
móm. Chuẩn Úy Trưng danh hiệu 313, đề lô Ðại đội 113 của Ðại Úy Hùng
mập. Trung úy Nguyễn Văn Lập danh hiệu 314, đề lô Ðại đội 114 của Trung
úy Phan Cảnh Cho (hiện nay ở Quận Cam). Ðại đội 110 của Ðại Úy Nho đóng
chung với Bộ chỉ huy Tiểu
đoàn 11. Pháo binh từ Căn cứ 5 danh hiệu 415, Pháo binh Căn cứ 6 danh
hiệu 416, Căn cứ Yankee của Pháo đội D1 ở hướng bắc danh hiệu 417, và
Pháo đội C1 danh hiệu 418 với 1 trung đội 155 ly C 220 danh hiệu 419 ở
hướng Nam yễm trợ trực tiếp hoặc tăng cường cho chúng tôi theo yêu cầu.
Nhìn một dọc các căn cứ hỏa lực yễm trợ cho Tiểu đoàn 11, tôi nhận thấy
ngay tình hình rất là nghiêm trọng, một cuộc tapi khốc liệt sẻ diễn ra
trên ngọn đồi vô danh nào đó nằm sâu trong dảy Trường Sơn.
Sáng
ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 11 được trực thăng vận bốc vào vùng
hành quân, phi cơ bay ngang Tân Cảnh nơi đúng một năm trước đây, sau Hạ
Lào, một số đơn vị của Sư đoàn Nhảy Dù từ Quãng Trị bay thẳng về đây
giải tỏa Căn cứ 5 và Căn cứ 6. Cuộc hành quân ngoạn mục nhảy ngay trên
đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, lúc
này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót, tôi từ Tiểu đoàn 183
Pháo binh dã chiến Long Khánh về trình diện Thiếu Tá Lạc tại vùng hành
quân và được vị Tiểu đoàn trưởng chịu chơi cho 4 ngày phép về Saigon coi
như một đặc ân về Pháo Binh Nhảy Dù, đồng thời xù luôn 4 ngày trọng cấm
mà
Trung úy Toàn, Chỉ huy hậu cứ ( hiện ở tại San Jose) tặng cho tôi về
tội dám cãi lại quan anh ngay lúc tôi còn mặc bộ đồ xanh bộ binh về
trình diện Dù. Từ trên trực thăng nhìn xuống, ở xa về hướng nam, con
sông Poko màu bạc uốn khúc theo dẩy Trường Sơn rồi đổ ra cắt ngang quốc
lộ 14, đẹp như một nét chấm phá của thiên nhiên, và dẩy Trường Sơn ở
hướng Tây trùng điệp những đồi núi ngút ngàn với hầu hết là những ngọn
đồi trọc lá trơ cành, giơ những cánh tay khẳng khiu lên không như cầu
nguyện cho một thiên đường vừa đổ vở. Hai chiếc Cobra bay phía trước hộ
tống cho những chiếc chuồn chuồn UH1B đáp xuống căn cứ Charlie, không có
màn bắn dọn bải đáp vì đã có quân ta đáp xuống trước, những người lính
dù nhảy xuống trực thăng rồi
tản ra hai bên ghìm súng phòng thủ sát giao thông hào, và tôi đã có mặt
tại ngọn đồi vô danh mà sau này đã đi vào chiến sử Nhảy Dù như một địa
danh bất khuất không thể nào quên của người lính quốc gia, cũng như làm
cho tất cả quân dân cả Miền Nam biết đến qua bản nhạc “Người Ở Lại
Charlie” của Trần Thiện Thanh.
Theo
sự bố trí, Ðại đội 113 nằm phía bắc dưới chân đỉnh Yankee, cách Tiểu
đoàn gần 3 cây số. Ðại đội 111 thủ Charlie cao độ trên 1000 mét. Còn lại
Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và các Ðại đội 110, 112, và 114 đóng quân tại căn
cứ C2 cùng dẩy núi thoai thoải nhưng cao hơn và cách Charlie gần nửa cây
số. Nhìn trên bản đồ thì tất cả các đơn vị của Tiểu đoàn 11 Dù đóng
quân trên một trục Nam Bắc khá thẳng để dể quan sát về hướng Tây giáp
với Kampuchia, nơi đường mòn Hồ Chí Minh rẻ ra các ngả vào ba biên giới
Việt Miên Lào ở phía Tây Bắc, còn Căn cứ biên phòng Benhet thì nằm sâu
gần biên giới hơn. Suốt trận chiến Charlie nổi tiếng trong quân sử,
Benhet vẫn
bình yên vì cộng quân dồn mọi nổ lực để nhổ cái gai Charlie nằm chận
cuống họng xâm nhập vào Tỉnh Kontum qua ngả Dakto. Charlie là một căn cứ
hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ đã lâu giờ trông rất hoang tàn, khi Tiểu đoàn 11
đổ quân xuống, sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho tiện
việc phòng thủ. Bao quanh Charlie là những ngọn núi cao thấp với cao độ
trên một cây số. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối nhỏ dốc
đứng rất khó lên xuống nhưng nguồn tiếp tế nước uống và tắm rửa cũng từ
con suối này. Trận chiến diễn ra ác liệt tại quanh khu vực này nên gọi
chung là trận Charlie.
Ðại
đội 114 đóng vòng cung phía Nam chịu trách nhiệm nặng nhất vì địa thế
thoai thoải dể đánh lên , và ngoài phòng tuyến cở 50 mét có nhiều cây
cao rất dể cho cộng quân nấp vào đó mà tấn công, và trận chiến bắt đầu
cũng từ hướng này trước. Chưa bao giờ tôi thấy một Ðại đội trưởng cho
đào một cái hầm trú ẩn hình chử nhật to và kiên cố đến như vậy với nắp
hầm vừa thân cây vừa bao cát cao đến gần 1 mét, Trung úy Cho bảo tôi ra
gần ngoài tuyến tìm chổ đào hầm, tôi nói tôi yễm trợ cho Trung úy, nếu
Trung úy nằm đâu thì tôi nằm đó. Trung úy Cho đành để tôi ở chung trong
hầm, nhờ vậy sau này tôi thoát chết dưới làn pháo khủng khiếp của cộng
quân. Tôi bảo hai đệ tử Hạnh và Nhỏ ra gần ngoài tuyến tìm chổ đào hầm,
còn máy PRC 25 thì đưa cho tôi, và thỉnh thoảng chạy vào xem tôi có cần
gì không. Chiều xuống, như thường lệ khi đi trận, tôi gọi 417 tác xạ
phòng thủ lập một số tuyến cản theo hình vòng cung ngoài vòng vị trí
khoảng 100 mét ( có tiếng pháo binh bắn điều chỉnh), xong yêu cầu gửi
yếu tố tác xạ đến các căn cứ khác để bắn theo yêu cầu khi cần. Nhờ những
tuyến cản này mà chúng tôi đã giử được phía Nam C2 cho đến ngày Charlie
thất thủ. Ðêm đầu tiên, tôi ngủ không được vì những tiếng rì rì của xe
cơ giới chạy suốt đêm, từng đoàn xe Molotova và có cả tiếng xe tank chạy
trong dảy Trường Sơn, hướng Tây và Tây Nam cách căn cứ Charlie không
xa, quân xa cộng quân mở đèn
chạy công khai như xa lộ không người. Tôi chấm một số điểm đâu đó trong
rừng tình nghi là đường mòn theo hướng xe chạy để bắn quấy rối (
harrasing fire), khi pháo binh ta bắn, quân xa địch tắt đèn ngưng chạy,
hết loạt đạn, chúng mở đèn chạy tiếp, đêm nào cũng thế, ngoài tầm bắn
của pháo binh ta nên bọn chúng gần như công khai di chuyển. Chắn chắn
chúng đang mở chiến dịch lớn lắm nên mới ồn ào điều quân như thế này, và
Quân đoàn II cũng biết như thế nhưng không hiểu tại sao không cho B52
dập.
Ngày
hôm sau 26/3/1972, tôi theo Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu đoàn phó danh hiệu
Mê Linh (hiện nay ở San Jose), dẫn hai đại đội 112 và 114 đi đánh giải
vây cho một đơn vị Tiểu đoàn 2 Dù ở hướng Nam. Mục tiêu là một đỉnh đồi
cách Charlie khoảng gần 1 cây số, cộng quân thuộc Trung đoàn 3/ 320 đã
chiếm ngọn đồi này và xác một Chuẩn Úy của ta vẫn còn đó. Gần đến nơi,
Thiếu Tá Mễ gọi tôi bắn dọn đường xong chuyển xạ bằng một quả khói lên
ngay trên đỉnh đồi cho phi cơ nhận diện đánh bom, rồi pháo binh làm tiếp
.
-418 đây 314 xin tác xạ. Hết.
-314 đây 418 xin tác xạ. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói nổ chạm. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói. Hết.
Ðộ hai phút sau.
-Bắn. Trả lời.
-Bắn. Hết. (tiếng pháo nổ)
Thiếu Tá Mễ liên lạc với đứa con đi đầu, xong xin điều chỉnh tác xạ
-Hướng 800. Gần lại 100. Một khói . Hết.
-Hướng 800. Gần lại 100. Hết.
Ðến
quả đạn khói thứ hai thì điều chỉnh vào đúng mục tiêu, dứt trái khói,
Mê Linh nói tiếng Anh như gió liên lạc thẳng với phi cơ Phantom Mỹ nhào
xuống thả bom, rừng núi rung chuyển như cơn địa chấn vì mục tiêu cách
chúng tôi chỉ hơn 100 mét ( tiếng bom nổ). Khi phi đội rời mục tiêu, tôi
xin pháo đội bắn hiệu quả 10 tràng vừa đạn nổ vừa delay để phá hầm,
khẩu 3 (đang điều chỉnh) bắn trước một quả (mổi pháo đội có 6 đại bác
tức là bắn 60 quả). Mê Linh dặn tôi khi dứt loạt đạn này là xung phong.
Tôi trình Mê Linh để tôi chuyển xạ ra phía sau thành một tuyến lửa không
cho tụi nó chạy, phải chấp nhận giao chiến với mình. Mê Linh OK. Dứt
loạt đạn
hiệu quả, pháo đội chuyển xạ thành một tuyến phía sau. Trung đội đầu
tiến dè dặt vì địa hình không cho phép và đạn AK từ phía trên đỉnh đồi
bắn xuống xối xả không xung phong được. Từng khinh binh Dù tiến lên theo
thế chân vạc. Ðạn AK và M16 thi nhau nã từng loạt (tiếng súng nổ rời
rạc). Dù len từng gốc cây, người này bắn che cho người khác tiến, và
cuối cùng lên được triền đồi. Toán đầu tiên báo cáo sơ khởi dứt được hai
vịt con (tức Việt cộng) tịch thu được 1AK, 1 CKC, và tìm được xác viên
Chuẩn úy Tiểu đoàn 2 Dù cùng một binh sỉ. Mê Linh bảo ráng lên đến đỉnh
xem có gì không. Vừa dứt lời thì tiếng depart đại bác từ phía Tây bắn
tới cắt ngang hông Dù. Xịt oành, Xịt oành. Tiếng đại bác này là sơn pháo
75 ly không giật có sơ
tốc độ cao nên vừa nghe tiếng depart là nổ liền. Dù bị đánh ngang hông,
vừa dứt loạt pháo là bộ binh địch tràn lên cũng từ phía Tây. Mê Linh
cho toán đi đầu lùi lại tránh pháo, kết quả ta chết một, bỏ lại một M16.
Lúc này thì địch đã ngưng pháo chỉ dùng súng nhỏ. Mê Linh cho rút toàn
bộ về nhập lại một vì sợ địch cắt đôi. Ðịch vẫn tiếp tục bắn theo. Mê
Linh bảo tôi bắn chận.
Ðại Tá Nguyễn Ðình Bảo
-418 đây 314. Mục tiêu. Hướng 1000. Gần lại 200. Một nổ. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
Lúc
này Pháo đội C1 đã biết chúng tôi bị đánh ngang hông nên đã sẳn sàng
bắn chận. Oành. Một tiếng nổ lớn như tiếng sét đánh ngay trên đầu, mãnh
đạn bay túa túa, tiếng cành cây bị chém gảy rớt xuống đất nghe rào rào,
xong hoàn toàn im lặng, có thể nói một tiếng thở kế bên cũng nghe rỏ.
Chiến trường hoàn toàn im tiếng súng. Tôi biết đạn đạo chạm cành cây nên
nổ trên không thay vì rớt xuống đất mới nổ, vì gấp rút quá nên tôi
không cho bắn đầu nổ cao, mặc dù tôi đã trừ hao yếu tố nhưng đường tên
đạn đạo chạm nổ trên cành, và đã vô tình ngăn chận địch không dám liều
lĩnh truy nã. Tôi trình với Mê Linh:
-Thiếu
Tá hỏi xem con cái mình có bị gì không, còn tụi vịt con tôi đoán thế
nào cũng lãnh đủ trái này, mình giử nguyên yếu tố này, nếu tụi nó lên,
mình dứt nó liền. Lúc này thì Cobra cũng lên vùng nhưng chưa bắn. Tiểu
đoàn trừ cũng dừng lại dàn hàng ngang đề phòng địch xung phong. Một lúc
sau, tôi nghe nói Trung úy Lạc, Ðại đội 112 là người bạn cùng Khóa 27
Thủ Ðức với tôi bị mãnh đạn chém ngay đầu bị thương nặng. Tôi bò lại
thấy Lạc nằm gần đó mở đôi mắt lờ đờ, đầu quấn băng, máu tuôn xối xã.
Tôi nằm xuống ghé sát tai Lạc nói:
-
Tao xin lổi, tao bắn đó, chỉ có mình mày lãnh trái này, còn tụi nó
không dám tấn công nửa nên chưa biết thế nào, mày mà chết tao ân hận
lắm, phải bắn chận nếu không tụi nó tràn lên.
Lạc chỉ mĩm cười héo hắt, còn tôi thì hết sức buồn bả hỏi tiếp:
-Mày thấy thế nào.
-Ðau,
không còn cãm giác gì hết. Thấy Lạc tỉnh táo như thế tôi càng lo hơn vì
người bị thương nặng trước khi chết thường rất bình tỉnh như thế. Tôi
lại nói với Lạc như nói với một người sắp chết:
-Một
lần nửa, tao xin lổi mày. Nói xong tôi bò lại phía Thiếu Tá Mễ. Nhờ quả
đạn đại bác này mà địch không dám đuổi theo. Trời đã gần chiều nên có
lệnh trở về căn cứ, Lạc cũng được trực thăng di tãn. Trong lúc hai đệ tử
lo ăn uống còn tôi xuống suối tắm. Tại đây tôi gặp Trung Tá Bảo cũng
vừa đi xuống tắm, thân hình ông cao lớn và nụ cười rất dể thương, nhưng
tôi thấy lạ một điều là ông mặc áo giáp khi đi tắm, và chỉ có ông là duy
nhất mặc áo giáp mà thôi. Ðiềm gì đây, hay là ông đã linh cãm được điều
gì.
Sáng
ngày 27/4/1972, trong lúc tôi ăn cơm thì có một người lính chạy vào nói
Thiếu Tá Mễ gọi. Tôi xách máy chạy ra ngoài tuyến giửa Ðại đội 112 và
114 thì thấy Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá Duffy, cố vấn Mỹ đang ngồi sát gốc
cây nhìn về phía trước mặt chỉ chỉ. Lính gác phát giác địch xuất hiện
phía bên kia triền đồi hướng Tây Nam căn cứ Charlie, bọn chúng đang đi
lên đồi như đi chợ. Thiếu Tá Mễ hối tôi :
- Bắn nhanh lên không tụi nó đi hết.
Ðịch
xuất hiện khá xa cở bảy tám trăm mét đường chim bay, tôi quay sang
Thiếu Tá Duffy hỏi có đem theo ống dòm cho tôi mượn, xa quá mắt thường
bắn không chính xác, Thiếu Tá Duffy chạy vội về hầm rồi trở lại đưa ống
dòm cho tôi. Tôi giở bản đồ và địa bàn ra nhắm mục tiêu, xong chấm điểm
địch xuất hiện rồi mở máy gọi 417 ở Yankee xin bắn, và gọi thêm 415 tăng
cường. Quả đạn nổ đầu tiên cách mục tiêu khoảng 200 mét, điều chỉnh một
lúc vào đúng mục tiêu, xong vạch một tuyến dài cở 300 mét trên bản đồ
xin 417 và 415 chia nhau bắn, vừa gọi bắn tôi vừa nói
-Bảo đảm thế nào tụi nó cũng khiêng đó Thiếu Tá.
Thiếu Tá Mễ lại hối:
- Nếu trúng rồi bắn hiệu quả luôn.
Sau
loạt đạn cuối cùng độ 10 phút, quả nhiên địch cứ hai thằng dìu một
thằng bị thương đi ngược xuống đồi, tôi đưa ống dòm trình lại với Mê
Linh:
-Trúng
rồi, Thiếu Tá nhìn xem tụi nó khiêng xuống đồi kìa. Thiếu Tá Mễ xem
xong đưa máy cho Thiếu Tá Duffy rồi lại hối tôi bắn hiệu quả ( fire for
effect). Tôi đề nghị:
-Ðề
nghị Mê Linh cho tụi nó dìu em xuống đồi, đồi cao như vậy thế nào tụi
nó cũng phải tập trung dưới chân đồi băng bó và nghỉ mệt một lát rồi mới
di chuyển, đợi tụi nó tập trung đông, mình làm một lần đưa em vào hạ,
dứt cội da. Thiếu Tá Mễ phì cười nói OK. Còn Thiếu Tá Duffy không hiểu
tiếng Việt cũng nhe răng cười theo nói OK đô.
Tôi
gọi xin chuẩn bị bắn T.O.T ( time on taget ) tức là các vị trí pháo
binh xa gần bắn trước sau nhưng cùng lúc đạn nổ trên mục tiêu, đợi 20
phút sau khi địch không còn khiêng quân xuống đồi nửa, tôi cho lệnh tác
xạ. Lúc này thì họ nhà pháo cũng đã biết tin nên đích thân Bùi Ðức Lạc
cho bắn tối đa, tiếng đại bác từ các căn cứ thi nhau rót vào mục tiêu,
còn Mông Cổ nhà ta ( anh em đùa vui Nhảy Dù dũng mãnh như quân Mông Cổ)
thì đứng dọc theo chiến hào quan sát như là một chuyện thường tình (
tiếng đạn pháo nổ tới tấp). Dứt loạt đạn tôi hỏi xem mình có lục soát
không, Thiếu Tá Mễ nói để Trinh Sát làm chuyện này. Ðến trưa thì một
loạt đạn pháo binh của
địch từ dẩy đồi hướng tây đối diện và chỉ cách khoảng hơn một cây số
với Ðại đội 112 bắn qua, tiếng depart cũng giống như đã bắn hôm qua, vậy
là tụi nó đưa 75 ly nhắm qua thằng 312 để trả lể rồi, tiếp loạt đạn này
là những trái đạn 105 ly rồi hỏa tiển 122 ly thi nhau rót xuống Charlie
mở đầu cho trận chiến khốc liệt nhất tại Quân khu 2 từ trước đến nay,
và từ đó Charlie không một phút nào bình yên.
Trừ
75 ly không giật bắn thẳng trúng mục tiêu thì những loạt đạn khác rơi
đâu đó ngoài căn cứ Charlie, như vậy là tụi nó không có đề lô, anh em đề
lô chúng tôi thay nhau đo hướng và phản pháo, khi chúng tôi phản pháo
thì địch im tiếng súng, dứt loạt pháo là bọn chúng trả lễ. Các cuộc đấu
pháo diễn ra như cơm bửa, và là lần lần thì những loạt pháo binh tầm xa
của địch rơi trúng căn cứ, đến ngày 29/4/1972 thì chúng đã điều chỉnh
pháo binh được toàn bộ Charlie mà nặng nhất là vào C2. Chúng tôi biết đề
lô của địch đã áp sát được căn cứ và điều chỉnh được mục tiêu. Tôi nói
với Trung úy Cho:
-
Tôi nghỉ mấy ngày đầu tụi nó pháo thăm dò khả năng mình, sau đó mới kéo
130 ly đến gần để bắn chính xác hơn và cũng ngoài tầm phản pháo của ta (
đại bác 130 ly của địch bắn xa 32 cây số, còn 155 của ta thì 15 cây số,
và 105 ly của ta thì chỉ gần 11 cây số mà thôi ), chổ mình dể lên hơn
cả, thế nào tụi nó cũng đánh hướng mình.
Sau đó tôi cũng chia xẻ mối âu lo này cho Trung úy Ðúng:
-
Tụi nó chắc chắn sẻ tapi tôi sau màn pháo kích dữ dội, những yếu tố tác
xạ tôi đã điều chỉnh xin 310 gọi bắn phụ nếu tôi bắn không kịp. Trung
Úy Ðúng nói
- Tôi cũng nghỉ như vậy, chổ của 314 dể lên lắm.
-
Tôi thấy khói xịt từ ngọn đồi ngay trước mặt thằng 312 bắn qua, có lẻ
75 ly hoặc 57 của tụi nó trực xạ rớt qua luôn bên tôi sao không thấy
thằng 312 gáy ( xin bắn).
-314 quan sát được bắn luôn đi, khỏi nhờ 312. Hết.
Dứt
chử “hết” tôi hiểu ngay Chuẩn Úy Sơn đề lô Ðại đội 112 bị pháo kích đã
tử trận. Tôi vẽ thêm tuyến pháo binh cận phòng trùm lên thêm hướng Tây
Nam để bắn che cho Ðại đội 112. Lợi dụng pháo binh tầm xa pháo kích, 75
ly của địch bắn thẳng từng vị trí của ta mà không sợ phản pháo vì chúng
tôi phải chui vào hầm tránh pháo. Dứt loạt pháo tôi chạy vội ra tuyến
điều chỉnh pháo binh bắn cấm chỉ ( tức là bắn rời rạc thỉnh thoảng từng
quả không cho địch hoạt động) vào vị trí pháo trực xạ của địch, nhưng
không hề hấn gì, chắc tụi nó khoét hầm trong núi, mổi lần pháo tầm xa
pháo kích thì chúng kéo súng ra bắn theo để khỏi lộ vị trí. Tôi gọi
310 xin mổi lần tôi bị xơi pháo thì cứ gọi Phở bò (pháo binh) nào của
ta rảnh thì bắn cấm chỉ không cho tụi nó kéo pháo ra trực xạ.
Từ
ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mổi ngày
cở ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly, và cả hỏa
tiển 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc tụi tôi
bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lãnh
pháo? Lúc này Ðại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn II Dù ở Căn
cứ Võ Ðịnh cũng đã trình lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn
cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lãnh pháo như thế này thì phản chiến thuật
quá, nhưng Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Ðoàn II vẫn lặng thinh, và
Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ gì chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên
trì
áp lực…tử thủ, chắc là định dùng 11 Dù nhử cho địch lên tapi như Ðại
Ðội 2 Trinh Sát Dù tử thủ ở Ðồi C1 dứt gần hết cả Tiểu đoàn cộng quân
nằm phơi xác ở đồi C1, vì trận này mà cộng sản đã lên án tử hình Ðại úy
Trương Văn Út, Ðại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại đội
này. Quân đoàn II còn lệnh cho 11 Dù ra hố pháo tìm chứng tích của đầu
nổ130 ly mới cho B52 dập. Quân đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân
số 11 Dù bị loại ra ngoài vòng chiến vì đạn pháo và chưa đươc di tản.
Cái hào quang chiến thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu
của Dù thật quá đắt, và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút một,
chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng bắn và bới tìm đầu nổ, nhưng làm sao
gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây. Hằng trăm thương binh, mấy
chục binh sỉ tử thương vì pháo còn chưa di tản được nằm đầy các giao
thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2 500
mét thì nói gì đáp xuống tãi thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một pass B52
đánh về hướng Nam gần Charlie thì nhằm nhò gì, pháo của chúng đặt về
hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số thì không
dập. Mổi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ
bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ còn biết ước lượng vị trí
pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản pháo nếu có thể. Tình hình
hết sức khẩn trương, nếu không có lệnh rút, chắn chết hết vì pháo.
Sáng
sớm ngày 01/4/72, đúng như chúng tôi dự đoán, sau màn điểm tâm đại pháo
các loại, địch bắt đầu tấn công từ hướng Nam Charlie trực diện Ðại đội
114. Ðịch đông như kiến bám theo các thân cây cổ thụ dùng đủ các loại
súng bắn thẳng vào vị trí Dù, trong lúc đó, đề lô địch cũng chuyển xạ
vào các vị trí pháo binh của ta để cấm chỉ không cho yễm trợ. Lúc này đã
lộ rỏ ý định của địch, mấy hôm nay, chúng chỉ pháo kích Charlie chứ
không pháo vị trí pháo binh của ta, để ta lầm tưởng chúng chỉ pháo kích
Tiểu đoàn 11 chứ không đánh, rồi ta chỉ lo phản pháo mà quên đi bộ binh
của chúng đang im lặng tiếp cận ta. Như vậy có thể Charlie bị bao vây
rồi.
Cũng may việc giương đông kích tây này mà các pháo đội của ta không bị
pháo binh địch điều chỉnh chính xác, cho nên còn rảnh tay yễm trợ được
cho tôi. Trước mặt chúng tôi tôi là đơn vị tinh nhuệ nhất của cộng sản
Bắc Việt, Sư đoàn 320 có một Trung đoàn có biệt danh là quả đấm thép
đang dàn hàng ngang trước mặt chúng tôi ồ ạt xông lên bất kể phi pháo,
Ðại đội 114 anh dũng bắn trả, Ðại đội 112 cũng tiếp ứng, những người
lính Dù thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đứng thẳng từ
các chiến hào đan một lưới lửa ra ngoài phòng tuyến, và tất cả hệ thống
tác xạ pháo binh đều chuyển qua hết tần số của tôi, sẳn sàng gom bi.
-415,
416, 417 đây 314 xin tác xạ, địch tấn công, trường ca L1, L2, L3 (các
hỏa tập pháo binh làm thành những tuyến cản). Một quả. Bắn khi sẳn sàng.
Hết.
Không
cần tôi xin tác xạ. Các pháo đội đạn đã lên nòng khi biết tôi bị tấn
công, nên khi nghe được tiếng tôi gọi bắn thì đã nghe tiếng depart,
những tiếng hú rợn người lướt qua đầu, đất tung mù mịt trước mắt.
- Các trường ca. 5 tràng. Bắn hiệu quả. Hết.
Ðạn
túa túa hú gọi mục tiêu, những cây cổ thụ bật gốc ngoài phòng tuyến,
bụi tung mù mịt, cứ hể dứt loạt đạn pháo của ta thì địch cũng nhỏm dậy
bắn vào, chúng đã đào các hố núp ngoài vị trí nên liều lỉnh bắn che cho
tốp khác từ hướng tây nam tiến lên, bất kể đạn pháo, những con thiêu
thân dàn hàng xung phong lên đồi. Lúc này thì phi cơ đã lên vùng sẳn
sàng thả bom, Trung úy Cho nói với tôi:
-Nếu tụi nó vượt được hàng rào thì bắn ngay sát tuyến của mình. Tôi trả lời :
-Trung
úy bảo các con đội nón sắt và mang luôn ba lô luôn che phía sau lưng,
lở có trái nào lọt vào tuyến thì phải chịu, nếu chịu tôi mới dám bắn.
Trung úy Cho nói OK, và tôi gọi các vị trí bắn gần lại từng chục mét cho
đến khi sát tuyến. Những loạt đạn cận phòng này rất có hiệu quả và
không biết có quả nào lọt vô luôn trong phòng tuyến hay không vì đạn
pháo của cả hai bên lúc này bắn dử quá. Sau mổi loạt pháo tôi lại nhỏm
dậy nhìn ra ngoài, xác địch đầy ngoài tuyến nhưng chúng vẫn bám chắc
không chịu rút lui. Tiếng súng lúc này đã rời rạc, có thể chúng chỉ lui
lại để làm một cái gì đó. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 bảo ngưng tác xạ để
tụi Tây (tức
phi cơ Mỹ) nó làm việc, những chiếc phóng pháo cơ vào vùng nảy giờ gầm
thét ngang trời thả những loạt bom ngoài vòng rào, chỉ cách vị trí cở 50
mét, những núi lữa bốc lên cao sau mổi tiếng nổ. Lần đầu tiên trong đời
lính, tôi thấy Nhảy Dù chịu chơi dám thả bom gần như vậy và bắn pháo
binh cách mình hai ba chục mét ( hiệu quả sát hại của pháo binh 105 ly
là từ 50 đến 100m, bắn cách mình cở hai ba chục mét là rất liều lĩnh và
hết sức nguy hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những người lính
Dù chịu đựng dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày, phòng tuyến bể hết
mà vẫn gan dạ tử thủ như thế.
Bên
tai tôi có tiếng gọi của Thiếu Tá Lạc, ông bảo tôi có cần gì thì tất cả
đều sẳn sàng, và tôi trả lời nếu gà mình còn gáy ( tức pháo binh còn
bắn ), thì không có tên răng đen mã tấu nào nào có thể bước qua 114
được. Sở dỉ tôi dám khẳng định như vậy là nhờ tinh thần chiến đấu dũng
mảnh của anh em 114 Dù cho tôi sự an toàn trong lúc gọi pháo, nếu không
thì bể tuyến lâu rồi. Còn Trung úy Ðúng thì rất tế nhị không xen vào hệ
thống tác xạ, để dành hết thời gian cho tôi gọi các pháo đội bắn, 310
cũng dặn tôi cẩn thận, tụi nó tạm yên là có vấn đề mới, nhớ canh chừng
thêm phía thằng 112. Vừa lúc đó thì hàng loạt tiếng depart từ trong núi
vọng
về, thôi rồi, lần nầy chúng tập trung tất cả các loại pháo chứ không
riêng gì 130 ly rót tới tấp vào vị trí ta, ít nhất cũng 5 vị trí pháo
của chúng bắn đồng thời vào C2, đây là một kiểu bắn T.O.T giống như của
ta, C2 rung lên dưới những cơn địa chấn, tôi chạy vội vào hầm, tất cả
các vị trí tác chiến và pháo binh của ta đều bị pháo, tiếng các pháo đội
gọi báo cáo ồn hẳn lên trên hệ thống rồi im lặng vô tuyến, có vị trí
trúng pháo nhưng không trúng hầm đạn nên không có tiếng nổ phụ. Tụi nó
mà điều chỉnh được các vị trí pháo của mình thì bỏ bú, vừa lo sợ tôi
cũng vừa tìm những ngôn từ dễ thương như thế để trấn áp nổi hồi hộp, sau
loạt pháo này là chúng mày sẻ tràn biển người lên lấy thịt đè người,
Nhảy Dù cố
gắng, Nhảy Dù cố gắng, tôi lẩm bẩm bốn chử đơn giản này, binh chủng
chúng tôi không có những khẩu hiệu đao to búa lớn, rất đơn giản như một
sự cố gắng, anh em chúng tôi hết thế hệ này đến thế hệ khác cố gắng làm
cho máu đồng bào bớt đổ bằng chính máu của chúng tôi. Trong tiếng pháo
nổ vang trời, tôi nhấc máy gọi 310:
-310
có nghi tụi đề lô nó áp sát mình không, nghi tụi nó ở đâu thì con gà
nào của mình “quởn” cho gáy đại vài tiếng dằn mặt tụi nó cho biết thế
nào là lễ độ, chứ chơi như vậy hiếp quá. Nhưng 310 vẫn im lặng. Một sự
im lặng rợn người vì tất cả im lặng chờ đợi.
Dứt
loạt pháo bắn T.O.T này, quả nhiên địch hô xung phong, nhưng tiếng hô
xung phong càng lúc càng yếu, chúng tôi đã quen thuộc kiểu này, chúng
mày chém vè ai mà không biết, chắc chắn chúng mày bị thiệt hại rất nặng
nếu không thì đã là nhào lên tiếp để…lãnh đạn rồi. Những tiếng pháo thưa
dần tại C2 nhưng các vị trí pháo của ta vẫn còn bị cấm chỉ, tôi nhìn ta
phía Yankee, những cột khói bốc lên, rồi căn cứ 5 và căn cứ 6 cũng thế,
tụi nó đang điều chỉnh pháo binh. Thấy mẹ rồi.
Chiều
đang xuống dần, những người lính cũng vội vã sửa lại hầm hố, đào giao
thông hào cho sâu thêm, người chết và thương binh tăng thêm làm nặng
thêm mối âu lo của Tiểu đoàn, tôi chạy vội ra phía hai đệ tử đang ngồi
chong mắt nhìn ra ngoài tuyến, trên tay hai đứa có hai cây M16 và dây
đạn từ lúc nào ( hai đệ tử pháo binh mang máy cho ông thầy thường không
đem theo súng).
-
Khỏi cần nấu cơm, tao ăn cơm sấy được rồi, có gì nhớ kiếm tao. Hai đệ
tử nhìn tôi, lo lắng, tôi hất mặt về hướng đông căn cứ không nói, nhưng
chúng cũng hiểu tôi nói gì.
Một
đơn vị tổng trừ bị cơ động vào bậc nhất của quân đội bị chôn chân làm
vật tế thần, đóng quân ở Charlie ngày ngày ăn pháo không khác nào con dê
bị trói vào cột đợi ngày hiến tế, Việt cộng quá nóng lòng đánh gấp để
lấy tiếng trên bàn Hội nghị Paris là đã tiêu diệt được một đơn vị Nhảy
dù, chứ nếu chúng khôn ngoan một chút thì chỉ cần pháo thôi là cũng đủ
tiêu tùng hết. Tiểu đoàn xin rút, Lử đoàn xin rút, Quân đoàn cũng không
cho, có một âm mưu gì muốn chúng tôi thân bại danh liệt tại ngọn đồi vô
danh này, họ muốn biến những người lính 11 Dù thành những chiến sỉ
“L’enfer Des Hommes” tức là những người ra đi không về trên ngọn
đồi quyết tử trong bộ phim vừa chiếu ở Saigon hay sao, nếu là những đơn
vị khác thì đã rút đi lâu rồi. Thật oan nghiệt cho những người lính
mang danh những đứa con của Thần Chiến Thắng Micae ( Tổng Lãnh Thiên
Thần Micae là Thánh bổn mạng của binh chủng Dù Việt Nam Cộng Hòa).
Những
ngày hôm sau địch tiếp tục pháo căn cứ, và sau loạt pháo là mon men
đánh thăm dò tiếp Ðại đội 114. Liên tiếp trên một tuần, 114 bị tấn công
nhưng mức độ chỉ vừa phải, và không lần nào địch vào được sát tuyến, sau
mổi lần tấn công thất bại, đêm về là chúng bò lên lấy xác, và Ðại đội
114 cũng không buồn bò ra ngoài thu chiến lợi phẩm. Sau mổi đợt pháo
kích, căn cứ càng xơ xác không còn nhìn ra hình dáng nửa, từng tấc đất
bị xới lên, mùi thuốc súng nồng nặc khắp nơi, cây cối bị khói ám đen
thui và bị mãnh đạn pháo chém ngang dọc ngả nghiêng, hầm hố tanh banh,
tôi có cãm tưởng một con kiến cũng không sống được, những cuộn băng vết
thương văng tung tóe dính trắng xóa trên các ngọn cây, địch đã điều
chỉnh được toàn bộ căn cứ C2, pháo vô là trúng phóc. Những hàng dây kẽm
gai cao ngang ống chân ngoài tuyến Ðại đội 114 giờ biến đâu mất dưới cả
hai làn pháo của ta và địch, có thể nói là nằm lăn xuống đồi cũng không
còn vướng một cộng kẽm nào. Những ngày đầu chúng chỉ bắn bằng đạn nổ,
những ngày sau thì xen vào đạn delay tức là đạn chui vào lòng đất hơn
một mét rồi mới nổ, không có hầm hố nào chịu nổi cả, thế mà ngoài phòng
tuyến anh em Dù vẫn sống, vẫn thở, những người chết và bị thương thì vẫn
nằm chung với anh em dưới chiến hào, mùi thuốc súng và đạn pháo đánh át
đi mùi tử khí, nội hơn một trăm anh em bị thương không được di tản cũng
là gánh
nặng tâm lý đè lên tinh thần chiến đấu của người lính. Nhưng đây là
Nhảy Dù, một dân chơi thứ thiệt, dám cân hồ tất cả giới giang hồ khét
tiếng sinh Bắc tử Nam thì còn coi cái chết vào đâu…Là dân pháo binh
nhưng tôi cũng ngán kỷ luật chiến đấu của Nhảy Dù, về Saigon chịu chơi
tới đâu thì chịu, chứ ra trận thì có lệnh là phải tiến, không có lệnh
lui thì…mẹ kiếp, trận này nằm đây chịu chết để vinh quang cho những tên
không biết mẹ gì là chiến thuật đã trói tay chúng tôi, tận diệt.
Ngày
6/4/1972, địch tấn công căn cứ Delta của Tiểu đoàn 2 Dù ở phía Nam
nhưng bị đánh bật ra để lại hằng trăm xác, không chừng Tiểu đoàn 11 Dù
cũng được lệnh phải đợi địch đánh để làm giống như vậy chăng, tụi nó
đánh Ðại đội 114 cả tuần rồi mà, chết quá trời mà đâu có lên được. Ðịch
lại pháo kích, nằm dưới hầm nghe đạn pháo, có những trái đạn delay rơi
sát hầm, nổ tung dưới lòng đất kêu ục ục, đất chuồi xuống, cái chết đang
từ từ đến với tôi với tất cả nổi phẩn nộ, đúng là sinh nghề tử nghiệp,
pháo nó thì chết vì nó pháo là công bằng sao, tôi đang bị trói tay mà.
Sau dứt mổi loạt pháo, tôi chạy vội ra tuyến quan sát, những
người lính vừa tu bổ cộng sự chiến đấu vừa đưa mắt nhìn tôi dò hỏi, như
khẩn khoản tôi nói một lời gì, tôi biết họ muốn hỏi gì nên cũng chỉ
biết hất mặt về hướng đông, đường ra quốc lộ 14, nếu bị địch tràn ngập.
Ngay lúc đó thì có một người lính dơ tay ngoắc tôi, xong chỉ về ngọn đồi
xéo về hướng đông nam, tôi cúi mình chạy đến, cách đó khoảng 500 mét
đường chim bay, bóng một tên lính Bắc Việt in trên nền trời với tất cả
thách thức, như vậy là cả ba hướng Ðông, Tây, và Nam đều bị địch bao
vây, vậy còn hướng Bắc, gần nhất với ngọn đồi Charlie của Ðại đội 111,
chưa biết thế nào, không đánh được thằng 114, tụi nó dám chơi thằng 111
sao, chỉ có phía Tây mới có thể đánh lên 111 mà lại là là dốc đứng
nửa…Tôi gọi Hạnh chạy vào hầm báo cho Trung Úy Cho biết và xách máy PRC
25 gọi 415 bắn, điều chỉnh trúng mục tiêu rồi cũng chả ăn nhằm gì, dứt
loạt đạn lại thấy nó đứng lên chống nạnh, như vậy là tụi nó đã khoét núi
nằm sâu trong đó rồi, đâu có móc ra được. Không chừng thằng này là đề
lô, tôi chỉ còn biết xin 415 bắn cấm chỉ khi có thể.
Những
ngày kế tiếp, lương thực cạn dần, có dấu hiệu địch sẻ đánh Charlie vì
Ðại đội 111 nằm riêng rẻ, còn thằng 113 thì nằm kế bên pháo binh khó
đánh, và chúng tôi cũng không còn xuống dưới chân 111 lấy nước được. Hai
Trung đoàn địch quân số gấp 8 lần, luân xa chiến, tiền pháo hậu xung
gần nửa tháng cũng không chơi được Ðại đội 114, nên thế nào tụi nó cũng
tìm hướng khác và mục tiêu thì chỉ có Charlie của 111. Ngày 9/4/1972,
địch pháo dử dội Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 và mưa pháo xuống Charlie xong
bắt đầu tấn công 111. Ðại đội 111 chống trả quyết liệt, xác địch đầy
sườn đồi. Khu trục rồi trực thăng võ trang vào vùng trút xuống hằng tấn
bom
đạn quanh căn cứ. Sau nhiều đợt xung phong không thành, địch lại rút
lui để lại hằng trăm xác chết.
Lúc
này thì địch đã công khai di chuyển quân xa ban ngày, tiếng xích sắt xe
tăng, tiếng xe Molotova có thể nghe thấy sau những loạt pháo. Bằng mọi
giá chúng phải nhổ cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai Trung đoàn này
thì còn những Trung đoàn khác sẳn sàng vào trận để lấy tiếng trên bàn
hội nghị. Không chơi được Song Kiếm Trấn Ải thì còn gì là danh hiệu hai
Sư đoàn của chúng đây. Vừa đánh chúng vừa điều quân, phía đông tức là
đường rút của11 Dù, tôi đã quan sát được vị trí bọn chúng đã đặt hai cây
phòng không, một cây 12 ly 7 và một cây 37 ly. Hướng đông địch đã công
khai để lộ vị trí để bắn máy bay và uy hiếp tinh thần 110. Máy bay yễm
trợ cho Charlie
thì phải bay từ hướng Bắc hoặc hướng Nam rồi đánh một vòng về hướng Tây
để thả bom, xong phải chúc mủi về hướng Ðông ra thẳng quốc lộ 14, địch
đã đặt hai cây phòng không tại đây chặn đầu khiến cho máy bay không dám
xuống thấp, thỉnh thoảng chúng còn nhắm xuống Charlie trực xạ. Mổi lần
máy bay vào vùng là tiếng phòng không từ các hướng nổ đầy trời, và ít
nhất cũng cả chục cây phòng không giờ đây đã dàn trận. Pháo binh của ta
thì gần như bị tê liệt vì bị pháo cấm chỉ của địch, cả Tiểu đoàn 11 cũng
thấy được nhiều chiếc Chinook từ Phi trường Phượng Hoàng tải đạn pháo
binh vừa đến Yankee thì bị pháo và phòng không từ hướng đông bắn qua
phải trở lui, ngưng tiếng pháo thì lại bay vào rồi lại bị bắn không đáp
xuống
được, cứ như vậy cả ngày. Tôi đã gọi các vị trí pháo bắn hai cây phòng
không này hoài mà cũng chẳng ăn thua gì. Cả nửa tháng nay chúng đã đào
hầm trong núi đợi giờ quyết tử dứt điểm 11 Dù, dầu có bắn trúng cây này
thì chúng cũng sẻ điều cây khác đến. Mấy chiếc khu trục đã trúng đạn
phòng không, còn trực thăng võ trang của ta hay Cobra của Mỹ là miếng
mồi dể lãnh đạn phòng không nhất nên khó có thể vào vùng.
Ðến
giờ phút này thì đả rỏ thế nào bọn chúng cũng dứt điểm Charlie, sáng
ngày hôm sau, Ðại đội 111 bị pháo thật nặng nề, dứt dợt pháo, bộ binh
địch tràn lên, pháo binh của ta cũng bị cấm chỉ không yễm trợ được, định
mệnh đã dành sẳn cho 111, bị tràn ngập nhưng thiệt hại vừa phải, 111
phải rút về nhập chung Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Ðộ nửa tiếng sau, Trung Úy
Thinh Ðại đội trưởng 111 chạy vào hầm chúng tôi, Trung úy Cho hỏi, Thinh
kể lại :
-Việt
cộng tràn lên là lo kiếm mấy cái ba lô của ta, chúng chụp được ba lô
của tôi, tôi buông ba lô chạy, tụi nó không đuổi theo, có lẻ tụi nó đói
lắm nên lên được là lo kiếm ăn, chúng lục ba lô của ta, khui đồ hộp ra
ăn tại cho (thường là khi rút lui, ta mang theo ba lô trên lưng đề phòng
bị bắn phía sau). Ngay lúc đó thì Trung Úy Khánh cũng chạy vào hầm, tôi
hỏi thì Khánh cũng nói bị y như tình trạng của Thinh. Tôi hỏi tiếp vậy
súng của mày đâu. Khánh kéo cái địa bàn M1 đeo nơi cổ ra nói tao chỉ còn
có cái này. Tôi ôm bụng cười ngặt nghẻo làm mọi người cũng cười theo.
Nửa tháng nay, tôi không thể nở nổi một nụ cười, giờ này ôm bụng cười ra
nước
mắt về cái chuyện tiếu lâm có thực này thật thoải mái. Việt cộng ngoài
việc bị bỏ đói phải liều lĩnh hy sinh tính mạng kiếm từng lon đồ hộp của
ta, chúng còn bị ép uống thuốc “Hùng Tâm” tức là một loại thuốc kích
thích uống vào là hăng máu lên xung phong chẳng coi việc sống chết ra
sao cả, chiến thuật biển người của chúng thường kèm với liệu pháp hùng
tâm này. Cứ xem ảnh xác Việt cộng bị xích trên xe tank thì mới biết cấp
chỉ huy của chúng dã man như thế nào.
Sáng
ngày 11/4/1972, Ðại đội 112 được điều xuống chiếm lại Charlie đem theo
cả Ðại bác 90 ly trang bị riêng cho Nhảy Dù để bắn xe tank hoặc phá hầm,
máy bay Mỹ lại vào vùng thả bom, bay thấp thì sợ phòng không, nhưng bay
cao quá khó trúng mục tiêu, nên những phi đội sau, Tiểu đoàn 11 xin thả
bom napalm, còn pháo binh vị trí nào của ta không bị cấm chỉ thì pháo
xuống phụ họa sau khi các phi tuần bay ra, hết đợt này đến đợt khác,
từng phi tuần của không quân Việt Nam vào vùng trải những thảm lửa xuống
Charlie, thả bom napalm phải bay thật thấp nên rất chính xác, từng trái
bom rơi trúng mục tiêu, nhưng Việt cộng quyết cắt đôi 11 Dù nên cố thủ
trong các hầm hố của ta
bỏ lại. Bất kể phòng không, một chiếc phi cơ nóng lòng bay thật thấp
xuống mục tiêu, thả một quả bom napalm, lúc ngóc đầu bay lên thì cánh
bên phải vướng vào ngọn cây trên ngọn đồi phía đông kế bên chổ hai cây
phòng không, bị gảy cánh rồi rớt xuống đồi nổ tung, viên đại úy phi công
Việt Nam đã oanh liệt hy sinh. Chiếc còn lại bay vòng vòng tìm đồng
đội, sau khi xác định được vị trí , bèn quay trở lại Charlie, giận dử
trút xuống những trái bom lửa còn lại . Lửa thiêu cháy Charlie, thiêu
luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát.
Ngày
12/4/72, để trả thù cho đồng bọn bị lửa bom đốt sạch tại Charlie, địch
tăng cường pháo kích thật mạnh lên đồi C2, từng tấc đất bị cầy lên như
địa ngục có thật, tôi ngồi trong hầm lại nghe cái chết đến từ từ, ước
lượng có đến cở gần 10,000 quả đạn đại bác các loại rơi xuống C2 kể từ
ngày tử chiến, ngoài hầm bê tông cốt sắt ra chứ hầm hố như thế này thì
làm sao chịu nổi, bất cứ đơn vị nào mà trấn thủ nơi đây chắc là phải tự
động rút từ lâu rồi, tôi không dám nghỉ đến một điều xấu nhất dành cho
mình, không biết nhà tôi và đứa con đầu lòng đang mang trong người giờ
này ra sao, mổi lần tôi đi trận, nhà tôi đều dặn cầu
nguyện Ðức Mẹ che chở, giờ tôi đang làm điều này…Chợt thấy Trung úy Cho
nhổm dậy cầm lấy máy nghe rồi lo lắng, tôi cũng qua tần số Trung úy
Ðúng hỏi, Trung Tá Bảo, Tiểu Ðoàn Trưởng Song Kiếm Trấn Ải đã gẩy cánh
thiên thần sau loạt pháo kích vừa rồi, một quả 130 ly trúng hầm, Trung
tá Bảo hy sinh còn Thiếu Tá Duffy và Thiếu Tá Mễ ở hầm khác chỉ bị
thương nhẹ. Thiếu Tá Mễ lên thay. Suốt ngày hôm đó, địch tiếp tục pháo
kích C2 và bắn cấm chỉ các vị trí pháo binh của ta. Một bịch gạo xấy cả
tuần nay tôi nuốt không hết, miệng thật đắng còn nước uống thì đo bằng
từng nắp bi đông, riêng việc vệ sinh thì giải quyết ngay ngoài miệng
hầm. Pháo dử quá nên tôi cũng giới hạn bớt chạy ta ngoài tuyến quan sát.
Trên tấm bản đồ, tôi ghi chi
chít những vị trí nghi ngờ pháo của địch báo cho Trung úy Ðúng và Trung
úy Ðúng cũng chẳng làm được gì khác hơn, gần tối địch ngưng pháo kích,
tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi Hạnh chạy vào lay chân tôi
dậy hỏi cần gì không, tôi lắc đầu.
Sáng
ngày 13/4/1972, Ðại đội 113 được lệnh đi lên phía Bắc tìm bải đáp, còn
Ðại đội 111 lên ngọn đồi phía Ðông xem có chổ nào tải thương được không.
Khi Khánh chui vào hầm tôi, tôi thấy mặt có vẽ nghiêm trọng, không còn
cái giọng Nha Trang đơ đớ Quãng Ngãi nửa, không thấy có vẽ đùa cợt hàng
ngày như lúc còn ở hậu cứ, tôi bảo Khánh chạy theo tôi ra ngoài tuyến và
chỉ về ngọn đồi mục tiêu trước mặt, theo hướng tôi chỉ, bóng tên Việt
cộng đứng gác vẫn còn đó, tôi lại chỉ Khánh chổ vị trí hai cây phòng
không cách đó không xa và nói:
-
Tụi nó đầy ở trên đó, tao bắn hoài cũng chả ăn thua gì, mày hết sức cẩn
thận, nếu muốn bắn mở đường tao bắn cho, khi lên coi chừng phòng không
tụi nó trực xạ. Khánh trở lại 111 bàn với Trung Úy Thinh và cũng không
thấy xin bắn mở đường, chắc là muốn giử im lặng.
Ðộ
nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ triền đồi bên kia, 111 lên được gần
đến đỉnh đồi thì địch khai hỏa, bằng luôn cả phòng không trực xạ. Không
thấy Khánh xin tác xạ, tôi muốn bắn phụ lắm, nhưng giờ này không biết nó
ở chổ nào. Súng vẫn nổ, một chốc tôi nghe tiếng Khánh trong máy, Trung
Úy Thinh, Ðại đội trưởng 111 đã tử trận, Khánh lên thay. Rồi một chốc
lại nghe tin Trung sĩ Lung gọi máy, tôi biết Khánh cũng đã nằm
xuống…cánh dù lộng gió muôn phương – vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm
ngùi. Ðại đội 111 thêm lần nửa tan hàng. Một số còn lại rút về được căn
cứ. Cả ngày đó địch vẫn tiếp tục giử mức độ pháo kích khủng khiếp, lương
thực và đạn dược lại cạn dần, lại thêm người chết và bị thương. Ðêm dần
xuống, tôi nằm trong hầm buồn lắm, Trung Tá Bảo ra đi hôm qua, Chuẩn Úy
Sơn đề lô ra đi trong loạt pháo đầu tiên, Khánh vừa đi sáng nay, Lạc bị
thương nặng chưa biết ra sao, còn những người khác thì nằm đầy ngoài
chiến hào, bao giờ thì rút đây, không phải tôi bi quan, mà tức vì cái
lệnh tử thủ quái ác từ đâu đâu, chết như vậy thật uổng mạng.
Ngày
14/4/1972, Tiểu đoàn 11 Dù tự quyết định rút lui vào ban đêm, nhưng vào
buổi trưa sau những đợt pháo kích dử dội, địch xung phong lên từ phía
Ðại đội 114 đồng thời pháo luôn các vị trí pháo của ta, tôi gọi mãi mà
không con gà nào chịu gáy, ngoài tuyến, không còn sợ pháo binh ta bắn
cản, địch nhào lên đông như kiến cỏ, Ðại đội 114 chống cự không lại phải
rút về dàn hàng ngang với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, máy bay cũng đã lên
vùng bỏ bom ngay trên tuyến 114, hai bên giành nhau từng hầm hố, từng
giao thông hào. Pháo binh ta coi như bị tê liệt, tôi đứng dưới giao
thông hào sát với Thiếu Tá Mễ, và Thiếu Tá Ðoàn Phương Hải Trưởng ban 3
giờ kiêm Tiểu đoàn phó,
Trung Úy Ðúng đứng kế bên, cạnh đấy là Bác sĩ Tô Phạm Liệu, một Bác sĩ
Nhảy Dù mê đánh trận còn hơn cầm ống chích, lưng đeo khẩu Colt 45, tay
cầm súng M 16 giơ lên, miệng hét binh sĩ ráng giử vững vị trí, tôi nghỉ
thầm trong bụng nói cha nội này đi quân y uổng quá, phải cầm quân đánh
nhau mới đúng. Thỉnh thoảng tôi lại gọi máy, khản cổ họng nhưng pháo
binh của ta im lặng vô tuyến vì vẫn còn bị pháo kích. Lúc này mặc dù
chiếm được gần một nửa C2 nhưng địch vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên
phòng tuyến thứ hai của ta vẫn giử được. Chổ tôi đứng, xác một binh sĩ
Dù nằm trên chiến hào ngay trước mặt, chết đã nhiều ngày, xác trương lên
nhưng không thấy mùi hôi vì đầy thuốc súng, còn trên mình mang thêm
nhiều mãnh đạn pháo sau đó,
có lẽ chết hai ba lần. Bổng Hạ sỉ Hạnh chạy tới chổ tôi nói:
- Em kiếm Trung úy nảy giờ, Thằng Nhỏ bị thương muốn gặp Trung Úy.
Tôi
cúi đầu xuống chạy dọc ra ngoài tuyến, gặp Nhỏ đang nằm dưới giao thông
hào, bụng bị mảnh pháo phá nát, ruột đổ ra ngoài dính đầy bụi đất. Tôi
cúi xuống, Nhỏ thì thào bên tai:
- Em khát nước quá, Trung úy đái cho em uống.
Giửa
tiếng đạn bay, tôi muốn khóc mà không rơi được giọt lệ, đệ tử tôi đến
giờ phút hấp hối còn nghỉ đến ông thầy. Tôi nghẹn ngào nói với Nhỏ:
- Em còn điều gì muốn nói thì nói cho Hạnh biết, anh còn phải coi xem còn bắn được hay không.
Nói
xong tôi đưa bi đông nước còn lại một chút cho Hạnh để cho Nhỏ uống rồi
gạt nước mắt định chạy về chổ Thiếu Tá Mễ. Ngay lúc đó có nhiều tiếng
đạn AK bắn xéo trên đầu tôi, khói súng mù mịt không thấy rỏ phía triền
đồi, tôi rút quả lựu đạn M26 ném xuống dưới chân đồi. Ðây là quả lựu đạn
đầu tiên trong đời lính tôi sử dụng để ngăn địch. Không cần quan sát
hiệu quả lưu đạn vừa rồi, tôi chạy lại phía Thiếu Tá Mễ. Giờ phút này
địch đã lên được hơn nửa đồi C2 và từ hướng Nam cùng với hướng Tây đánh
lên, cả Tiểu đoàn 11 chuẩn bị một màn cận chiến, bổng một viên đạn AK
bắn trúng bình khói cay E8 của ta đặt trước mặt
Thiếu Tá Mễ cở chục mét. Tôi thấy rỏ gió thổi ngược khiến cho khói cay
màu vàng bay ngược về hướng Tiểu đoàn, n
No comments:
Post a Comment