Tết Phố Bolsa rợp bóng Cờ Vàng:
Hội Chợ Tết Bolsa Grande, Orange County:
Ý nghĩa lá cờ vàng, cờ quốc gia Việt Nam
Gần đây hơn một năm nay, nhiều quận hạt trên
nước Mỹ đã phát động chiến dịch vinh danh lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, của
cộng đồng người Việt định cư ở hải ngoại. Các cháu, và anh chị đã nghe
thấy nhan nhản trên diễn đàn, trên báo, trên radio, về vấn đề vinh danh
này. Lá Cờ Vàng là biểu tượng của Tự do, Độc lập và Dân chủ của truyền
thống dân tộc Việt nam từ bao đời. Lá cờ đã thăng trầm suốt hai ngàn năm
lịch sử, mà ông cha ta nhiều đời đã hy sinh xương máu để bảo vệ nó. Từ
năm 1975, gần ba mươi năm Cờ Vàng vắng bóng, ngày nay Cờ Vàng đã sống
lại như một hiện tượng hồi sinh.
Cờ Vàng, lá cờ Quốc Gia Việt Nam, có nền
vàng và ba sọc đỏ. Màu vàng là màu quốc thổ và cũng là màu da của dân
tộc Việt. Theo vũ trụ quan của người Việt, màu vàng thuộc về hành thổ và
có vị trí trung ương, tượng trưng cho lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia.
Màu đỏ thuộc hành hỏa và là màu của phương Nam. Đây là biểu tượng của
một dân tộc bất khuất, anh hùng, và độc lập trong cõi trời Nam, tách
biệt hẳn với nước Tàu ở phương Bắc. (Trong bài Bình Ngô Đại Cáo của
Nguyễn Trãi.) Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba miền: Bắc, Trung, Nam. Tuy
gọi là ba miền (ba sọc đỏ) nhưng có chung một nhà (nền vàng). Đó là nhà
Việt Nam, mà con dân nước Việt phải biết thương yêu và qúy trọng lẫn
nhau.
Vào năm 40 Dương Lịch, Hai Bà Trưng dùng
“Đầu voi phất ngọn cờ Vàng” đem quân đánh Tô Định để lập quốc xưng
Vương. Cờ Quẻ Ly (cờ vàng có hai sọc đỏ nằm giữa) của chính phủ Trần
Trọng Kim (1945) bắt nguồn từ lá cờ vàng thời Hai Bà Trưng, cờ vàng đời
Gia Long (1802), và cờ Long Tinh đời Khải Định (1916). Tiếp đến, năm
1948, Quốc Trưởng Bảo Đại đã thêm một sọc ở giữa và cho hai sọc đỏ nối
liền từ cờ Quẻ Ly tạo thành lá cờ có Nền Vàng Ba Sọc Đỏ. Ba sọc đỏ này
có hình Quẻ Kiền (Quẻ Càn) tượng trưng cho trời Nam, tức là nước Việt
Nam chúng ta. Tuy bắt nguồn từ đời Hai Bà Trưng, lá cờ Vàng, cờ Quốc
Gia Việt Nam đã được Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, đứng đầu Chính Phủ
Lâm Thời Quốc Gia Việt Nam ký
Sắc Lệnh số 3 ngày 2 tháng 6 năm 1948 với những tiêu chuẩn về lá quốc
kỳ của nước Việt Nam như sau: “Biểu hiệu Quốc Gia là một lá cờ nền vàng,
chiều ngang bằng 2/3 chiều dài, giữa có ba sọc đỏ, rộng bằng 1/15 chiều
dọc và khoảng cách bằng nhau đi suốt lá cờ.”
Cờ Vàng, cờ Quốc Gia Việt Nam được hun đúc
bằng khí thiêng trời đất, và tinh thần quật khởi của dân tộc Việt suốt
gần hai ngàn năm lịch sử. Nó tượng trưng cho hồn thiêng sông núi, cho
vận hội thái hòa, và cho sự thành công vĩnh cửu của giống nòi Việt Nam.
Kể từ thời Hai Bà Trưng, lá cờ Quốc Gia Việt Nam đã được biến cải để có
hình dạng màu sắc như hiện nay. Lá cờ có một ý nghĩa cao cả, và đã thăng
trầm với lịch sử oai hùng của dân tộc Việt. Nó nhuốm khí thiêng sông
núi, tượng trưng cho Dân chủ, Tự do, Nhân quyền, cho ý chí kiêu hùng của
nòi giống Việt, cho thanh bình thịnh trị của muôn dân, và cho đoàn kết
dân tộc trong việc giữ nước và dựng nước của tổ tiên ta.
Lá Cờ Quốc Gia Việt Nam là linh hồn của cả
dân tộc Việt. Lá cờ còn, chính nghĩa còn. Lá cờ còn, tinh thần chiến đấu
còn. Lá cờ còn, sự đoàn kết còn, nó là tín bài để chúng ta nhận diện
giữa người Việt Quốc Gia và bè lũ Cộng Sản. Chỗ nào có cờ Quốc Gia Việt
Nam, thì chỗ đó có tình thương, có dân chủ, có tự do, và nhân quyền.
Trong khi chiến đấu với kẻ thù, lá cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho
Chính Nghĩa Quốc Gia Tự Do. Hiện tình của chúng ta ở hải ngoại là đang
trực diện sống còn với Cộng Sản tại Việt Nam, mà lá cờ Vàng là biểu
tượng cho chính nghĩa ấy. Biểu tượng chính nghĩa Tự Do là lá Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ. Có giương cao lá cờ chính nghĩa, ta mới có đoàn kết, và thu hút
được nhân tâm để áp lực bắt
tập đoàn Cộng Sản Việt Nam phải qui hàng và từ bỏ chế độ Cộng Sản mà
chúng đang theo đuổi.
Người Việt yêu tự do, dân chủ, ở trong nước
cũng như ở hải ngoại, mỗi khi nhìn thấy Lá Cờ Vàng, là còn có niềm tin
và hy vọng cho Việt Nam Tự Do trong tương lai. Trong khi Việt Nam chưa
lật đổ được chế độ Cộng sản bạo tàn, và Cờ Vàng chưa chánh thức tung bay
trên toàn cõi Việt Nam, nhiệm vụ người Việt hải ngoại là vinh danh lá
cờ ấy. Nơi nào có người Việt Nam quốc gia, nơi đó có Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.
Tuy Quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không chánh thức được công nhận trong
nước, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng, đó là lá cờ
tượng trưng cho nền độc lập, và tự do của Tổ Quốc, chống lại chế độ độc
tài, bạo tàn của Cộng sản, phi nhân và nô lệ cho ngoại bang. Bên ngoài
Việt Nam, Cờ Vàng được
người ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống Cộng
Sản. Nơi nào tỏ bày lòng tôn vinh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, nơi ấy người Việt
quốc gia đã đóng góp to lớn vào công cuộc giải phóng đất nước, chống lại
ách thống trị của Cộng Sản Việt Nam.
Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, mới chính là lá cờ của
một quốc gia Việt Nam, để phân biệt với cờ đỏ sao vàng, lá cờ Máu của
cộng sản Việt nam. Cờ đỏ của cộng sản VN gốc là cờ tỉnh Fuzhou của Trung
Quốc vào năm 1933- 1934, theo tài liệu Thế giới về nước Trung hoa (1*).
Trong khi cờ Vàng tượng trưng cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền, thì cờ
Máu tượng trưng cho chết chóc, đói nghèo và tang thương cho dân tộc
Việt...
Với lịch sử huy hoàng suốt gần hai ngàn năm
của lá cờ Quốc Gia Việt Nam, chúng ta cầu mong Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ rợp
bay khắp mọi nhà người Việt Quốc Gia tại hải ngoại, và một ngày gần đây
trên khắp trời quê hương. Quốc kỳ Việt nam là biểu tượng của Hồn Thiêng
Sông Núi, của Dân Chủ Tự Do, và Nhân Quyền, mà biết bao thế hệ cha ông
ta đã đổ máu để gìn giữ. Lá cờ Vàng, lá cờ Quốc Gia Việt Nam đã trải qua
bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nhưng tự nó vẫn tồn tại trong lòng
người Việt ở khắp mọi nơi. Nó đã đổi lấy bằng bao nhiêu xương máu cuả
các chiến sĩ, và vinh nhục cuả tất cả chúng ta. Vì tiền đồ dân tộc, vì
tự chủ quốc gia, nó chính là sự khát vọng cho hòa bình, và tương lai của
một Việt nam sáng
lạng trong cộng đồng các quốc gia trên toàn thế giới. Do đó,
-Để tưởng nhớ công ơn tiền nhân, và gần đây
của Quân, Dân, Cán, Chính, đă hy sinh bỏ mình trong cuộc chiến chống
cộng sản tại Việt nam;
-Để tích cực yểm trợ chiến dịch vinh danh Cờ
Vàng Ba Sọc Đỏ của người Việt hải ngoại đang định cư trên nước Mỹ và
trên toàn thế giới;
-Để duy trì sức mạnh chiến đấu, đòi tự do
dân chủ và nhân quyền cho nhân dân Việt Nam, và nhắc nhở con cháu về Ý
Nghĩa của ngọn cờ Chính Nghĩa- Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, cờ Quốc Gia Việt Nam
Tự do. Ngày xưa chúng ta cầm súng, ngày nay cầm cờ. Để vinh danh cờ Vàng
Ba Sọc Đỏ, đặt niềm tin và hy vọng mới trong tương lai, yêu cầu nhà nhà
treo cờ vàng, người Việt nhớ đến cờ Vàng vì đây là biểu tượng của Tổ
Quốc Việt Nam mến yêu cuả chúng ta.
Chúng ta những người Việt tỵ nạn cộng sản
trên thế giới, tuy sống xa quê hương nhưng được hưởng mọi quyền tự do,
dân chủ và nhân quyền. Trước năm 1975, chúng ta cầm súng để chiến đấu,
đối diện với kẻ thù đầy nguy hiểm. Ngày nay chúng ta chỉ cần tích cực
cầm cờ để chiến đấu, để bày tỏ lòng yêu tự do và nhân bản, tôn trọng
quyền làm người, vì lá cờ Vàng là biểu tượng Tự Do Công bằng, và Dân
Chủ. Chúng ta đại diện cho người Việt yêu tự do, nói lên ý chí, nguyện
vọng, niềm tin và ước mơ của toàn dân tộc Việt nam trong nuớc, đang bị
một chính thể vô thần, độc tài đang khống chế và cai trị tàn ác. Như
chúng ta đã biết, vận mệnh của một số dân tộc chậm tiến trên thế giới,
trong đó có Việt nam,
đã bị cuốn theo sức ép của bàn cờ chính trị quốc tế. Dân tộc Việt nam
là con dê tế thần trong hai cuộc chiến tranh, từ Pháp đến cộng sản. Hai
cái hiệp định Genève (1954) và Paris (1973), đã đưa dân Việt nam lên bàn
mổ quốc tế, mà hầu hết người Việt không hề hay biết đến. Năm 1975, phe
tự do đã thua trận ở Việt nam, và sau đó phe cộng sản đã thua trận ở
Liên xô, cái gốc rể to lớn cuả phe cộng sản. Hiện nay ở quê nhà, 80
triệu đồng bào ruột thịt đang đau khổ vì đói nghèo, tù tội và mất tự do.
Ở đó nhân vị, nhân quyền bị chà đạp chính trên quê hương mình.
Hy vọng vào sự đồng tâm nhất trí đấu tranh
của người Việt hải ngoại, chúng ta hãy giương cao ngọn cờ chính nghĩa,
để bày tỏ một nỗ lực, một ý chí chính đáng cho tự do độc lập của dân tộc
Việt nam. Đây là bước mở đầu cho tiến trình dân chủ, tự do cho quê
hương Việt nam mến yêu của chúng ta. Ước mơ sau cùng của anh và tôi là:
nếu chết ở đây xin được phủ lá cờ Vàng, và hy vọng rằng cờ Vàng sẽ tung
bay trên khắp trời Việt nam một ngày không xa..Việt nam sẽ là một Ba Lan
thứ hai, hay như các nước Đông Âu tự giải thể để tồn sinh. Việt Cộng tự
nó sẽ phải triệt tiêu nhờ vào ý chí đấu tranh của chúng ta từ hải
ngoại. Phải chăng đây cũng là ước vọng chung của tất cả chúng ta: các
con, anh và tôi, những người
Việt tha hương...yêu tự do và yêu tổ quốc Việt nam.?
Phạm đào Nguyên
Giáo Sư NGUYỄN NGỌC HUY
Sau
năm 1975, đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đã nhiều lần nghe những ý kiến
phát biểu bằng lời nói hay bằng những bài báo về quốc kỳ và quốc ca Việt
Nam. Trong những dữ kiện và ý kiến được trình bày, có cái không đúng sự
thật, có cái đúng sự thật nhưng gây ra một số thắc mắc và hoang mang.
Viết bài này, tác giả chỉ có mục đích trình bày một số dữ kiện lịch sử
xác thật về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam và đánh tan những luận điệu có
thể làm cho người quốc gia Việt Nam thắc mắc và hoang mang về lá quốc kỳ
và bài quốc ca của chúng ta.
I. QUỐC KỲ VIỆT NAM
A. SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ý NIỆM QUỐC KỲ TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI
Việc
dùng một mảnh hàng hay vải có
màu sắc và hình thức nhứt định để biểu tượng cho một nhơn vật, một gia
tộc lãnh đạo hay một cộng đồng chánh trị đã có từ ngàn xưa. Trong các
cuộc giao tranh dữ dội trên các bãi chiến trường cổ kim, binh sĩ hai bên
đối đầu nhau đều lấy cờ của bên mình làm điểm hội tập và đều tận lực
tranh đấu, thường khi phải hy sinh cả tánh mạng để bảo vệ nó. Trong lịch
sử quân sự của mọi cộng đồng chánh trị, việc cắm được cờ của mình trên
đất địch hay cướp đoạt được cờ của quân lực địch đều được xem là một
chiến công rạng rỡ.
Tuy nhiên, trước cuộc Cách Mạng Pháp năm
1789, phần lớn các nước trên thế giới đều theo chế độ quân chủ, hoặc là
quân chủ chuyên chế trong đó chỉ có một nhà vua nắm trọn quyền lãnh
đạo và được xem là sở hữu chủ duy nhứt của quốc gia, hoặc là quân chủ
phong kiến trong đó bên dưới nhà vua còn có những nhà quí tộc làm chủ
các lãnh địa, và có khi có những thị xã tự trị trong đó quyền điều khiển
thuộc một nhóm người hào phú địa phương. Một số cộng đồng chánh trị nhỏ
thời đó đã theo chế độ cộng hòa hay dân quốc. Với chế độ này, quyền
lãnh đạo cộng đồng thuộc về một vài thế gia cự tộc. Các cộng đồng chánh
trị kể trên đây đều độc lập hoàn toàn hay phải tùy thuộc một cộng đồng
chánh trị lớn hơn đều có lá cờ làm biểu hiệu cho mình. Nhưng vì cộng
đồng được xem là vật sở hữu của một gia tộc hay một thiểu số gia tộc
lãnh đạo nên lá cờ của cộng đồng cũng được xem như là lá cờ của gia
tộc hay các gia tộc đó.
Ý niệm quốc kỳ biểu tượng cho toàn thể
quốc dân chỉ mới xuất hiện với cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789. Với cuộc
cách mạng này, quốc gia không còn được xem là vật sở hữu của một gia
tộc, mà là vật sở hữu chung của toàn thể mọi ngưoi sống trong cộng đồng.
Hệ luận của quan niệm mới này là lá cờ một nước không còn là biểu tượng
của gia tộc lãnh đạo, mà là biểu tượng của toàn thể quốc dân. Người
Pháp đã dùng từ ngữ drapeau national để chỉ loại cờ này. Quan niệm của
người Pháp lần lần được người các nước khác chấp nhận và người thuộc các
dân tộc nói tiếng Anh đã dùng từ ngữ national flag khi nói đến lá cờ
của mình. Drapeau national của Pháp và national flag theo tiếng Anh đã
được người Việt Nam
chúng ta dịch là quốc kỳ.
Về mặt thực hiện cụ thể thì lá quốc
kỳ đầu tiên trên thế giới là cờ tam sắc của Pháp gồm ba màu xanh, trắng,
đỏ, xếp ngang nhau theo thứ tự kể trên đây. Sự hình thành của lá cờ này
là kết quả của một sự thương lượng giữa hoàng gia Pháp và nhơn dân thị
xã Paris. Lá cờ tiêu biểu cho hoàng gia Pháp từ nhiều đời vốn nền trắng
trên có thêu một hoa huệ màu vàng. Thời quân chủ Pháp, Paris là một thị
xã được hưởng quyền tự trị và có lá cờ riêng gồm hai màu xanh và đỏ xếp
ngang nhau. Khi người dân Paris nổi lên làm cách mạng đòi hỏi chánh
quyền cải tổ chế độ, họ vẫn còn chấp nhận nền quân chủ. Nhà vua Pháp lúc
đó là Louis XVI một mặt vì nhu nhược, một mặt vì thiếu phương tiện nên
không dùng võ
lực đối phó một cách quyết liệt với phong trào cách mạng và chịu chấp
nhận các yêu sách của nhơn dân Paris. Do đó, hai bên đã đồng ý nhau lấy
cờ của hoàng gia và cờ của thị xã Paris trộn lại làm huy hiệu cho nước
Pháp. Nhà vua là quốc trưởng nắm quyền Hành Pháp nên màu trắng của cờ
hoàng gia được đặt ở giữa, hai màu xanh đỏ của cờ thị xã Paris được ghép
hai bên thành một huy hiệu tam sắc. Huy hiệu này lần lần được phổ biến
khắp nơi trong nước, và đến năm 1793, Quốc Ước Hội Nghị đã chánh thức
biểu quyết lấy cờ tam sắc làm quốc kỳ cho nước Pháp.
Phải nói
rằng về mặt thẩm mỹ, cờ tam sắc này rất đẹp. Mặt khác, Cách Mạng Pháp
thời đó lấy làm tiêu ngữ ba khẩu hiệu Liberté - Égalité - Fraternité là
Tự Do - Bình Ðẳng -
Bác Ái. Ba màu của quốc kỳ Pháp được xem là tiêu biểu cho ba tiêu ngữ
trên đây: màu xanh tiêu biểu cho Tự Do, màu trắng tiêu biểu cho Bình
Ðẳng và màu đỏ tiêu biểu cho Bác Ái. Cờ tam sắc của Pháp đã đẹp mà còn
được giải thích một cách đầy đủ ý nghĩa tượng trưng rất phù hợp với lý
tưởng chung của nhơn loại nên quốc dân Pháp đã nhiệt liệt hoan nghinh nó
và chấp nhận nó làm biểu tượng cho mình. Về sau, nhiều nước Tây Phương
khác chịu ảnh hưởng của Cách Mạng Pháp đã chọn ba màu xanh, trắng, đỏ,
làm quốc kỳ với những giải thích hơi khác nhau, nhưng vẫn dùng ba màu
này làm tiêu biểu cho các lý tưởng tự do, bình đẳng và bác ái là nền
tảng chung của các xã hội dân chủ tự do.
B. CÁC LÁ CỜ ÐÃ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH
LÀ QUỐC KỲ
1. Quốc kỳ xuất hiện đầu tiên: cờ long tinh của Hoàng Ðế Bảo Ðại
Ở
Việt Nam trước đây cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác, các lá cờ
được dùng để biểu tượng cho một nhà lãnh đạo. Hiệu kỳ của một vị tướng
cầm đầu một đạo quân thường có màu phù hợp với mạng của vị tướng đó:
người mạng kim thì cờ màu trắng, người mạng mộc thì cở màu xanh, người
mạng thủy thì cờ màu đen, người mạng hỏa thì cờ màu đỏ, người mạng thổ
thì cờ màu vàng. Màu cờ của các triều đại thì được các nhà sáng lập chọn
lựa theo sự tính toán dựa vào thuyết của học phái Âm Dương Gia nghiên
cứu về sự thạnh suy của ngũ hành lưu chuyển trong vũ trụ sao cho triều
đại mình hợp với một hành đang hưng vượng.
Ngoài cờ chung của triều đại, mỗi nhà vua đều có thể có lá cờ riêng của
mình. Nhưng các lá cờ này chỉ để biểu tượng cho hoàng gia. Về ý niệm
quốc kỳ biểu tượng cho cả dân tộc Việt Nam, nó chỉ xuất hiện ở nước ta
khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân Pháp.
Tuy nhiên, trong
gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc kỳ. Lúc ấy,
Nam Việt (được gọi là Nam Kỳ) là thuộc địa Pháp và phải dùng cờ tam sắc
của Pháp, Bắc Việt và Trung Việt (được gọi là Bắc Kỳ và Trung Kỳ) trên
lý thuyết là lãnh thổ của nhà Nguyễn. Các nhà vua Việt Nam thời đó đều
có lá cờ biểu tượng cho mình như thời còn độc lập, nhưng cờ này chỉ được
treo nơi nào có nhà vua ngự đến chớ không phải ở mọi nơi trong nước và
dĩ nhiên
không có tánh cách một quốc kỳ. Mãi đến thời Thế Chiến II, Hoàng Ðế Bảo
Ðại mới ấn định quốc kỳ đầu tiên.
Nguyên lúc đó, người Pháp đã
thua Ðức và rất suy kém. Họ không còn đủ quân lực để bảo vệ các thuộc
địa xa xôi. Riêng ở Ðông Dương thì người Nhựt lợi dụng sự suy kém của
Pháp đòi quyền đem binh vào chiếm đóng đất này để lấy nó làm bàn đạp
phong tỏa phía nam Trung Quốc và tiến đánh Ðông Nam Á Châu với dụng ý
chinh phục cả Á Châu. Chánh phủ Pháp không thể từ chối lời đòi hỏi của
Nhựt và viên Toàn Quyền thời đó là Ðề Ðốc Decoux có nhiệm vụ phải chịu
hợp tác với quân chiếm đóng Nhựt, đồng thời cố gắng đến tối đa để bảo vệ
quyền lợi Pháp ở Ðông Dương. Ý thức rằng chánh sách thực dân Pháp
trước Thế Chiến II làm bất mãn người Việt Nam mọi giới, Toàn Quyền
Decoux đã áp dụng một chánh sách hai mặt: một mặt triệt để đàn áp các
phần tử cách mạng chống Pháp, một mặt xoa dịu người Việt Nam nói chung.
Trong khuôn khổ của mặt thứ nhì trong chánh sách này, ông đã có những
biện pháp nâng cao uy tín của các nhà vua Ðông Dương.
Hoàng Ðế
Bảo Ðại nhơn cơ hội này đã đưa ra một vài cải cách và ban chiếu ấn định
quốc kỳ của nước Ðại Nam. Quốc kỳ này tên là cờ long tinh, nền vàng với
một sọc đỏ nằm vắt ngang ở giữa, bề ngang của sọc đỏ này bằng 1/3 bề
ngang của cả lá cờ. Cờ long tinh được dùng trên lãnh thổ Ðại Nam, nghĩa
là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vì Nam Kỳ lúc đó vẫn là thuộc địa Pháp và vẫn
phải dùng lá cờ
tam sắc của Pháp.
2. Quốc kỳ thứ nhì: cờ quẻ Ly của chánh phủ Trần Trọng Kim
Chánh
quyền thuộc địa Pháp ở Ðông Dương đã bị quân đội Nhựt lật đổ ngày 9
tháng 3 năm 1945. Hai ngày sau, Hoàng Ðế Bảo Ðại tuyên bố độc lập. Chánh
phủ độc lập đầu tiên được thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945 do nhà học
giả Trần Trọng Kim cầm đầu. Quốc hiệu được đổi là Ðế Quốc Việt Nam và
theo chương trình hưng quốc được chánh phủ Trần Trọng Kim ban bố ngày 8
tháng 5 năm 1945 thì quốc kỳ được chọn gọi là cờ quẻ Ly. Cờ này cũng nền
vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Ly là một trong 8 quẻ của bát
quái và gồm một vạch liền, một vạch đứt và một vạch liền, bề rộng của
các vạch này chỉ bằng một phần bề rộng chung của
lá cờ.
Cờ quẻ Ly trên nguyên tắc là cờ của cả nước Việt Nam gồm
có ba kỳ. Nhưng trong thực tế, nhà cầm quyền quân sự Nhựt đã không trao
trả Nam Kỳ ngay cho triều đình Huế. Việc trao trả này chỉ thực hiện
ngày 14 tháng 8 năm 1945, nghĩa là 4 ngày sau khi chánh phủ Nhựt quyết
định đầu hàng Ðồng Minh và 10 ngày trước khi Hoàng Ðế Bảo Ðại thoái vị.
Do đó, đại diện của triều đình Huế chưa bao giờ được thật sự cầm quyền ở
Nam Việt và cờ quẻ Ly đã không được dùng ở đó.
Trong thời gian
từ ngày Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Việt Minh củng cố được chánh
quyền cộng sản ở Nam Việt thì cả lãnh thổ này không có quốc kỳ. Lá cờ là
điểm hội tập các phần tử quốc gia Nam Việt quyết tâm tranh đấu cho nền
độc lập của
Việt Nam thời đó là cờ của Thanh Niên Tiền Phong, một tổ chức được
thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, để giúp
vào việc cứu trợ những nạn nhơn của các cuộc oanh tạc của Ðồng Minh và
sau đó, tiếp tay vào việc giúp đỡ đồng bào miền Bắc bị nạn đói. Cờ của
Thanh Niên Tiền Phong nền vàng, chính giữa có ngôi sao đỏ. Nó không hề
được xem là quốc kỳ, nhưng vì nó là cờ huy động các thanh niên ái quốc
Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn đứng lên tranh đấu với Quân Ðội Viễn
Chinh Pháp đến xâm chiếm Nam Việt trở lại nên tôi thấy có nhiệm vụ phải
nhắc đến nó trong bài khảo cứu này về các lá cờ đã được dùng ở Việt Nam.
3. Cờ đỏ sao vàng của tập đoàn Cộng Sản Việt Nam (CSVN)
Khi
cướp chánh
quyền ở Bắc Việt hồi tháng 8 năm 1945, tập đoàn CSVN dưới tên Việt Minh
đã dùng cờ đỏ sao vàng. Cờ này sau đó được họ dùng ở những nơi họ chiếm
đoạt được và cho đến nay, vẫn được họ tiếp tục xem là quốc kỳ. 4. Cờ của Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc
Khi
chiếm lại được các thành phố lớn ở Nam Việt, chánh quyền Pháp đã khuyến
khích phong trào Nam Kỳ tự trị. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, họ đã cho
thành lập Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc, tên Pháp là République de Cochinchine và
Cộng Hòa Quốc này đã có một quốc kỳ nền vàng, với 5 sọc vắt ngang ở
giữa gần như quốc kỳ của ta hiện tại, nhưng thay vì ba sọc đỏ và hai hai
sọc vàng như quốc kỳ của ta, nó gồm ba sọc xanh và hai sọc trắng chen
nhau. Xét về mặt thẩm mỹ, cờ này rất khó coi. Bởi đó,
trong những bài trào phúng trong báo Ðuốc Việt là cơ quan ngôn luận bán
chánh thức của Xứ Bộ Nam Việt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng lúc ấy, tôi đã đặt
cho nó cái biệt danh là lá cờ sốt rét.
5. Quốc kỳ của chúng ta hiện nay
Quốc
kỳ của chúng ta hiện nay do một họa sĩ nổi tiếng thời Thế Chiến II là
Lê Văn Ðệ vẽ và đã được Cựu Hoàng Bảo Ðại chọn trong nhiều mẫu cờ khác
nhau được trình cho ông trong một phiên họp ở Hongkong năm 1948, gồm có
ông và đại diện các đoàn thể chánh trị và tôn giáo cùng một số thân hào
nhơn sĩ về phía người quốc gia Việt Nam. Như mọi người đều biết, nó có
nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa,
bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của
năm sọc bằng 1/3 bề ngang chung của lá cờ. Cờ vàng ba sọc đỏ đã được
dùng làm quốc kỳ cho quốc gia Việt Nam khi chánh phủ lâm thời Việt Nam
được thành lập ngày 2 tháng 6 năm 1948 dưới sự chủ tọa của Tướng Nguyễn
Văn Xuân. Nó đã tiếp tục được dùng suốt thời Ðệ Nhứt và Ðệ Nhị Cộng Hòa
Việt Nam, cho đến ngày nay.
C. Ý NGHĨA CỦA LÁ CỜ ÐÃ ÐƯỢC DÙNG LÀM QUỐC KỲ
Trong
các lá cờ mô tả trên đây, cờ vàng sao đỏ không hề được xem là quốc kỳ,
cờ sốt rét của Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc chỉ là cờ của một chánh phủ bù nhìn
dùng trên bộ phận của nước Việt Nam. Vậy, đúng danh nghĩa quốc kỳ chỉ có
bốn lá cờ: cờ long tinh, cờ quẻ Ly, cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN và
cờ vàng ba sọc đỏ của người quốc gia Việt Nam.
Lúc cờ vàng ba sọc đỏ ra đời, một số người đã gọi chung bốn lá cờ trên
đây là cờ tứ linh: cờ long tinh dĩ nhiên là cờ long, chữ ly trong cờ quẻ
Ly đồng âm với ly là con lân, cờ của tập đoàn CSVN được xem là qui vì
nó có ngôi sao 5 nhánh y như con rùa ló đầu và bốn chơn ra và quốc kỳ
của chúng ta là phụng vì nó có ba sọc đỏ nằm song song nhau như đuôi
chim phụng.
1. Ý nghĩa và màu sắc của bốn lá cờ được dùng làm quốc kỳ
Ðiều
đáng để ý là cả bốn lá cờ được dùng làm quốc kỳ Việt Nam đều gồm hai
màu vàng và đỏ. Tuy nhiên, màu sắc của lá cờ CS nền đỏ sao vàng có ý
nghĩa hoàn toàn khác ba lá cờ về phía người quốc gia Việt Nam.
a. Ý nghĩa lá cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN
Ðảng
kỳ của Cộng Sản
Ðệ Tam Quốc nền đỏ trên có búa và liềm màu vàng. Quân Ðội Cộng Sản Nga
lúc nổi lên cướp chánh quyền thì lấy ngôi sao đỏ làm biểu hiệu. Quốc kỳ
của Liên Sô gồm huy hiệu của Ðảng và Quân Ðội nên cũng nền đỏ trên có
búa liềm vàng và ngôi sao đỏ. Nhưng muốn cho ngôi sao đỏ hiện được trên
nền đỏ của lá cờ, Cộng Sản Liên Sô đã phải dùng một viền màu vàng bao
quanh nó. CSVN đã phỏng theo cờ Liên Sô để làm quốc kỳ. Nhưng năm 1945,
họ còn phải giấu tánh chất cộng sản của họ nên không dám để búa liềm
trên quốc kỳ này và chỉ dùng ngôi sao tượng trưng cho quân lực cộng sản.
Ðiểm khác với Liên Sô là ngôi sao tượng trưng cho quân lực CSVN màu
vàng chớ không phải màu đỏ viền vàng.
Chúng ta không nên quên
rằng hai điều căn
bản trong điều lệ của Ðảng Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế do Lenin thành lập
là người tuyên thệ vào đảng này phải xem Liên Sô là tổ quốc số một của
mình và phải triệt để tuân lịnh cơ quan lãnh đạo của Ðảng đặt tại Liên
Sô. Lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ, Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN đã biểu
lộ ý muốn xem lực lượng quân sự Việt Nam là một lực lượng phụ dịch cho
Quân Ðội Liên Sô, và như vậy thì dĩ nhiên nước Việt Nam Cộng Sản phải là
một nước chư hầu của Liên Sô.
Ý muốn này đã được thực hiện hoàn
toàn sau năm 1975. Lúc CSVN chiếm được Miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ đã rút
lực lượng quân sự khỏi Ðông Nam Á Châu và sẵn sàng bắt tay với họ.
Trung Cộng tuy không còn là thân hữu và có những hành động chống đối họ,
nhưng không có sự uy hiếp quân sự đáng kể. Nếu CSVN giữ thái độ trung
lập giữa Trung Cộng và Liên Sô, đồng thời tỏ ra hòa hoãn với Hoa Kỳ, họ
đã có thể nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để phát triển kinh tế và dựa vào cả
Hoa Kỳ lẫn Liên Sô để hóa giải áp lực Trung Cộng. Nhưng tập đoàn CSVN đã
công khai đứng về phía Liên Sô để gây hấn với Trung Cộng và cho Liên Sô
dùng Việt Nam làm một căn cứ quân sự chống lại Trung Cộng, đồng thời uy
hiếp lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Hiện nay, mọi người đều thấy
rõ nước Việt Nam Cộng Sản là một chư hầu của Liên Sô và lực lượng quân
sự của CSVN chỉ là lực lượng phụ dịch của Hồng Quân Liên Sô.
Tuy
những điều kể trên đây chỉ mới thể hiện sau này, nhưng ý đồ của tập
đoàn CSVN đã biểu lộ ngay từ lúc họ lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ.
Vậy, cờ đỏ sao vàng là biểu tượng của tinh thần vọng ngoại chấp nhận làm
thuộc hạ của Liên Sô. Nó hàm ý để cho Liên Sô có quyền can thiệp vào
nội bộ Việt Nam. Ðối với những ai cho rằng Ðảng Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế
đã bị giải tán năm 1943 nên Liên Sô không có quyền can thiệp vào việc
nội bộ các nước cộng sản chư hầu, chúng tôi xin nhắc lại rằng Ông
Brezhnev, Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Liên Sô khi biện minh cho việc Liên
Sô can thiệp vào việc nội bộ của các nước cộng sản Ðông Âu trong thập
niên 1960 đã công khai nêu trước cộng đồng thế giới thuyết chủ quyền hạn
chế theo đó một nước xã hội chủ nghĩa đàn anh (tức là Liên Sô) có quyền
can thiệp vào
việc nội bộ của các nước xã hội chủ nghĩa đàn em (trong đó dĩ nhiên là
có Việt Nam) để bảo vệ các nguyên lý của xã hội chủ nghĩa.
b. Ý nghĩa của màu vàng và màu đỏ của những quốc kỳ về phía người quốc gia
Màu
vàng và đỏ của các quốc kỳ về phía người quốc gia thì có một ý nghĩa
hoàn toàn khác. Theo một số người Việt Nam, hai màu của các quốc kỳ về
phía người quốc gia biểu tượng cho dân Việt Nam da vàng máu đỏ. Tư tưởng
này có lẽ đã bị ảnh hưởng ít nhiều lối giải thích về ý nghĩa lá cờ nửa
vàng nửa đỏ mà Việt Nam Quốc Dân Ðảng đã dùng trong cuộc khởi nghĩa Yên
Báy năm 1930. Nhưng lối giải thích trên đây không đúng đối với các quốc
kỳ Việt Nam về phía người quốc gia. Các quốc kỳ này thật sự có một
ý nghĩa sâu sắc hơn, liên hệ đến cả vũ trụ quan của dân tộc Việt Nam.
Trong
vũ trụ quan này, có sự liên hệ mật thiết giữa các màu sắc, phương hướng
và ngũ hành. Màu vàng thuộc hành thổ và ở vị trí trung ương. Vì thế, nó
vừa tượng trưng lãnh thổ, vừa tượng trưng cho uy quyền của nhà lãnh đạo
tối cao được xem là sở hữu chủ của lãnh thổ này. Các nhà vua Trung Hoa
xưa kia cho mình là kẻ làm chủ cả thiên hạ. Bởi đó, họ tự xưng là hoàng
đế đứng trên các vị quốc vương làm vua một nuớc, và nắm giữ độc quyền
dùng màu vàng làm y phục. Các nhà vua Việt Nam xưa kia vì thế yếu hơn
các nhà vua Trung Hoa và không muốn có những cuộc chiến tranh liên miên
với họ chỉ vì vấn đề danh phận nên đã phải chấp nhận làm chư hầu của
hoàng đế
Trung Hoa với tước hiệu quốc vương. Nhưng trái với các nhà vua Triều
Tiên dùng tước hiệu quốc vương trong mọi trường hợp và không bao giờ dám
mặc y phục màu vàng, các nhà vua Việt Nam chỉ dùng tước hiệu quốc vương
trong sự giao thiệp với Trung Quốc, còn đối với thần dân trong nước và
đối với các nước láng giềng khác, họ đã tự xưng là hoàng đế. Mặt khác,
họ đã mặc y phục màu vàng y như nhà vua Trung Hoa. Như thế, trong tâm
thức tự ngàn đời của dân tộc Việt Nam, việc dùng màu vàng là biểu tượng
cho một chủ quyền nguyên vẹn của quốc gia, một nền độc lập hoàn toàn đối
với Trung Quốc.
Cũng trong vũ trụ quan Việt Nam và Trung Hoa
thời trước, màu đỏ thuộc hành hỏa và chỉ phương nam. Do đó, dùng màu đỏ
làm biểu tượng là nhấn
mạnh trên chỗ dân tộc ta là một dân tộc ở phương nam, đối chiếu với dân
tộc Trung Hoa ở phương bắc. Cùng với việc dùng màu vàng, nó nói lên
quan điểm của người Việt Nam tự xem mình là một dân tộc nắm trọn chủ
quyền của nước mình và ngang hàng với dân tộc Trung Hoa.
Quan
điểm trên đây đã được Nguyễn Trãi nêu ra rất rõ trong đoạn đầu của bài
Bình Ngô Ðại Cáo: "Như ngã Ðại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi cương vực ký thù, Nam Bắc chi phong tục diệc dị. Tự Triệu
Ðinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc, dữ Hán Ðường Tống Nguyên nhi các
đế nhứt phương". Ý nghĩa chánh xác của đoạn văn trên này là: "Như nước
Ðại Việt ta quả là một nước văn hiến. Bờ cõi núi sông (của nước ta và
Trung Quốc) đã phân biệt
nhau mà phong tục (của chúng ta là) dân phương nam cũng khác với phong
tục (của người Trung Hoa là) dân phương bắc. Từ nhà Triệu, nhà Ðinh, nhà
Lý, nhà Trần xây dựng nước ta, (các vua ta đã cùng các vua Trung Quốc
của) nhà Hán, nhà Ðường, nhà Tống, nhà Nguyên mỗi bên đều làm hoàng đế
một phương."
Trong bài này, chúng ta có thể nhận thấy rằng
Nguyễn Trãi đã xem nhà Triệu là một triều đại Việt Nam, mặc dầu theo
phần lớn các sử gia hiện tại, đó là một triều đại do người Trung Hoa
thành lập. Như thế là vì Triệu Ðà là người đầu tiên áp dụng nguyên tắc
nhận làm chư hầu của Trung Hoa để tránh việc tranh chiến, nhưng bên
trong nước, vẫn tự xưng là hoàng đế, nghĩa là tự xem mình ngang hàng với
nhà vua Trung Hoa.
Dầu quan điểm của chúng
ta đối với nhà Triệu như thế nào thì lập trường chung của dân tộc Việt
Nam về sự độc lập hoàn toàn và chủ quyền nguyên vẹn của quốc gia cũng đã
được nêu rõ trong bài Bình Ngô Ðại Cáo và được thể hiện rõ rệt với hai
màu vàng và đỏ dùng trong các quốc kỳ được phía người quốc gia chọn lựa.
Vậy, hai màu vàng và đỏ của các quốc kỳ này khác hẳn ý nghĩa của cờ đỏ
sao vàng được tập đoàn CSVN dùng làm quốc kỳ. Hai màu vàng và đỏ của các
quốc kỳ về phía người quốc gia đặt nền tảng trên bài Bình Ngô Ðại Cáo,
một bản văn được một nhà ái quốc Việt Nam viết lên sau khi nước ta được
giải phóng khỏi ách đô hộ của người Trung Hoa và biểu lộ tinh thần độc
lập của dân tộc. Trong khi đó, cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN
biểu lộ tinh thần nô lệ, thần thuộc nước ngoài vì đặt nền tảng trên
nguyên tắc tổ chức của Cộng Sản quốc tế ngày nay được nêu rõ trong
thuyết chủ quyền hạn chế của nhà lãnh tụ Liên Sô Brezhnev, theo đó, Liên
Sô có quyền can thiệp vào việc nội bộ của các nước theo xã hội chủ
nghĩa để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Ý nghĩa đặc biệt của cờ quẻ Ly và cờ vàng ba sọc đỏ
Ngoài ý nghĩa chung về màu sắc nói trên đây, cờ quẻ Ly và cờ vàng ba sọc đỏ còn có những ý nghĩa riêng cũng rất sâu sắc.
a. Ý nghĩa cờ quẻ Ly
Như
chúng tôi đã nói trên đây, Ly là một quẻ của bát quái. Cũng như màu đỏ,
nó tượng trưng cho phương nam. Trong vũ trụ quan của Việt Nam và Trung
Hoa thời trước, màu đỏ thuộc hành hỏa,
tượng trưng cho mặt trời hay lửa; quẻ Ly cũng tượng trưng cho mặt trời,
cho lửa, cho ánh sáng, cho nhiệt lực và về mặt xã hội thì tượng trưng
cho sự văn minh.
Về hình dạng thì quẻ Ly trên cờ của chánh phủ
Trần Trọng Kim gồm một vạch đỏ liền, một vạch đỏ đứt và một vạch đỏ
liền. Do đó, bên trong quẻ Ly, hiện lên một nền vàng gồm hai vạch liền
và một vạch đứng nối liền hai vạch ấy. Trong Hán văn, đó là chữ Công.
Chữ công này được dùng trong các từ ngữ công nhơn, công nghệ để chỉ
người thợ và nghề biến chế các tài nguyên để phục vụ đời sống con người.
Vậy, ngoài ý nghĩa văn minh rạng rỡ, quẻ Ly còn hàm ý ca ngợi sự siêng
năng cần mẫn và sự khéo léo của dân tộc Việt Nam trong các ngành hoạt
động sản xuất kỹ
nghệ.
b. Ý nghĩa cờ vàng ba sọc đỏ 1/ Ý nghĩa chánh trị
Trong
lá quốc kỳ, nền vàng tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam nói
chung và ba sọc đỏ tượng trưng cho ba kỳ. Vậy, ba sọc đỏ name trên nền
vàng hàm ý là nước Việt Nam gồm cả ba kỳ và dân tộc Việt Nam gồm người
của cả ba kỳ.
Ngày nay, sự thống nhứt của quốc gia và dân tộc
Việt Nam là một điều không ai phủ nhận được nên người Việt Nam hiện tại
không ý thức được sự gay go của cuộc tranh đấu đòi thống nhứt trong thập
niên 1940, nhứt là ở Nam Việt. Trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ kỳ có nghĩa
là một phần đất của một quốc gia chớ không hàm ý một lãnh thổ biệt lập.
Các từ ngữ Bắc Kỳ, Nam Kỳ thật sự đã được triều đình Huế dùng lúc nước
Việt Nam chưa bị người Pháp xâm lăng để chỉ hai địa phương của một quốc
gia thống nhứt. Sau khi xâm chiếm Việt Nam, người Pháp mới tách Nam Kỳ
ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, rồi dùng từ ngữ Trung Kỳ để chỉ phần đất ở
hai phía bắc và nam của kinh đô Huế. Nam Kỳ được Pháp trực tiếp cai trị
như một phần đất của Pháp. Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xem là lãnh thổ của
nhà Nguyễn chịu sự bảo hộ của Pháp, nhưng từ năm 1897, Pháp lại ép nhà
vua Việt Nam phải giao quyền đại diện mình cho một Thống Sứ Pháp thành
ra Pháp đã can thiệp vào sự cai trị đất này một cách trực tiếp hơn ở
Trung Kỳ.
Trong hệ thống tổ chức của Pháp trước Thế Chiến II, ba
kỳ của Việt Nam đã được xem như là ba lãnh thổ biệt lập. Sau Thế Chiến
II, kế hoạch
của Pháp là thành lập một Liên Bang Ðông Dương gồm 5 nước là ba kỳ của
Việt Nam, Cam Bu Chia và Lào. Trong 5 nước này, Nam Kỳ là đất mà Pháp
tha thiết muốn nắm giữ dưới quyền thống trị của mình hơn hết vì nó đã
được họ trực tiếp cai trị từ năm 1867, lại là phần đat thạnh vượng trù
phú nhứt. Bởi đó, họ đã nhứt định không chấp nhận một nước Việt Nam
thống nhứt gồm cả ba kỳ. Tháng 3 năm 1946, họ đã cho thành lập Nam Kỳ
Cộng Hòa Quốc. Thiểu số người Việt Nam theo họ lúc đó đã chống lại quan
niệm Việt Nam thống nhứt một cách mạnh mẽ. Các phần tử quá khích trong
nhóm này đã xem đồng bào gốc Bắc Việt cư trú ở Nam Việt trong thời kỳ đó
là người của một nước địch và thường hành hung đối với các đồng bào ấy.
Trong các
cuộc bố ráp hay chận đường xét giấy căn cước, họ thường bắt người dân
nói ba tiếng "Tân Sơn Nhứt", người nào không nói đúng giọng Miền Nam thì
bị họ đánh đập một cách tàn nhẫn. Sau mấy năm tác chiến ở Ðông
Dương, người Pháp ý thức rằng họ không thể áp đặt ở Việt Nam một chế độ
thống trị theo khuôn khổ họ đặt ra. Vì cần dùng sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để
có phương tiện tài chánh đối phó với CSVN, họ phải chấp nhận điều kiện
của Hoa Kỳ là nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam. Bởi đó, họ đã tiếp xúc
và thương thuyết với Cựu Hoàng Bảo Ðại. Tuy nhiên, họ chỉ muốn cho Việt
Nam hưởng một nền độc lập hình thức, và thực quyền vẫn còn nằm trong
tay họ. Mặt khác họ không chấp nhận sự thống nhứt của Việt Nam và
tìm mọi cách giữ riêng Nam Kỳ dưới quyền cai trị trực tiếp của họ.
Nhờ
được Anh Nguyễn Tôn Hoàn từ Trung Hoa về cho biết về tình thế và nhận
chân rằng chỉ có Cựu Hoàng Bảo Ðại mới có thể đại diện cho người quốc
gia Việt Nam trong cuộc thương thuyết với Pháp nên Xứ Bộ Nam Việt của
Ðại Việt Quốc Dân Ðảng đã phát động phong trào đòi thi hành giải pháp
Bảo Ðại với một nước Việt Nam độc lập và thống nhứt. Lúc ấy, người Pháp
đã đàn áp phong trào này ở Nam Việt một cách mạnh mẽ. Một số đồng chí
của tôi trong đó có Anh Dương Quang Tiếp (sau này phục vụ trong Quân Ðội
và trong ngành cảnh sát với cấp bực đại tá và đã từ trần trong trại tù
cộng sản) đã bị Pháp bắt và đánh đập tàn nhẫn khi rải truyền đơn đòi thi
hành giải pháp Bảo Ðại.
Tuy được sự yểm trợ của Hoa Kỳ trong
cuộc thương thuyết, Cựu Hoàng Bảo Ðại không nắm được ưu thế hoàn toàn
đối với Pháp vì lúc đó, Trung Cộng đã thắng thế hơn Trung Hoa Dân Quốc
và CSVN có triển vọng được Trung Cộng giúp đỡ trong tương lai. Người
Pháp đã cho Cựu Hoàng Bảo Ðại biết rằng nếu không thỏa thuận được với
ông, họ sẽ thương thuyết với Hồ Chí Minh. Nhận thấy thời gian không
thuận lợi cho mình, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã phải nhượng bộ cho Pháp về mặt
độc lập, nghĩa là chấp nhận để cho Việt Nam ở trong Liên Hiệp Pháp với
những mối liên hệ chặt chẻ với Pháp, nhưng cương quyết đòi Pháp phải
nhận cho Việt Nam thống nhứt. Người Pháp đã phải nhượng bộ ông về vấn đề
này.
Nhưng
ngay đến lúc chánh phủ Pháp chấp nhận cho Nam Kỳ được sáp nhập vào lãnh
thổ Việt Nam, đám thực dân ở Nam Việt vẫn chưa chịu thua và nhiệt liệt
chống lại việc ay. Vì Nam Kỳ được xem là một lãnh thổ của Pháp mà theo
nền pháp lý của Pháp thì mọi quyết định liên hệ đến qui chế của đất này
phải có sự chấp thuận của một hội nghị địa phương tên là Hội Ðồng Lãnh
Thổ Nam Kỳ (Assemblée Territoriale de Cochinchine), thực dân Pháp đã dự
liệu bỏ ra một số tiền lớn để mua chuộc những người Pháp và người Nam Kỳ
có quốc tịch Pháp được bầu vào Hội Ðồng đó biểu quyết chống lại việc
sáp nhập Nam Kỳ vào lãnh thổ Việt Nam. Chúng tôi đã biết được kế hoạch
này và đã nhiệt liệt chỉ trích nó trên hai tờ báo Ðuốc Việt (cơ quan
ngôn
luận bán chánh thức của Xứ Bộ Nam Việt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng) và Thanh
Niên (cơ quan ngôn luận chánh thức của một tổ chức do Xứ Bộ này thành
lập là Thanh Niên Bảo Quốc Ðoàn).
Sự tố cáo của chúng tôi làm
cho người Pháp rất căm tức. Tướng Boyer de la Tour du Moulin, Ủy Viên
Cộng Hòa Pháp ở Nam Kỳ lúc đó đã mời một đồng chí của tôi là Anh Ðỗ Văn
Năng, Thủ Lãnh Thanh Niên Bảo Quốc Ðoàn, đến gặp ông và bảo rằng: "Xin
ông nhớ cho rằng tôi là người Pháp có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của nước
Pháp. Các hoạt động của đoàn thể ông có hại cho quyền lợi này. Các ông
phải chấm dứt nó hay ít nhứt cũng giảm thiểu nó, nếu không, tôi buộc
lòng phải đối phó một cách quyết liệt. Tôi sẽ rất tiếc nếu phải làm như
vậy, vì tôi lúc
nào cũng tôn trọng ông là người mà tôi nhìn nhận là rất đứng đắn". Anh
Ðỗ Văn Năng đã điềm tĩnh trả lời: "Tôi rất cám ơn ông đã tỏ ra thành
thật với tôi, và tôi thấy có nhiệm vụ cũng phải thành thật đối với ông.
Xin ông hiểu giùm cho rằng ông yêu nước Pháp như thế nào thì tôi yêu
nước Việt Nam như thế ấy và ông có quyết tâm bảo vệ quyền lợi Pháp như
thế nào thì tôi cũng có quyết tâm bảo vệ quyền lợi nước Việt Nam như thế
ấy".
Sau đó, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến dịch tố cáo các âm
mưu của thực dân Pháp ở Nam Việt tìm cách phá hoại các giao ước giữa
chánh phủ Pháp với Cựu Hoàng Bảo Ðại về vấn đề thống nhứt Việt Nam. Mặt
khác, Cựu Hoàng Bảo Ðại lúc ấy còn ở Âu Châu đã cho biết rằng ông chỉ
chịu về
nước lãnh đạo chánh phủ nếu việc tái nhập Nam Kỳ vào lãnh thổ Việt Nam
được xác định một cách rõ rệt. Cuối cùng, các hội viên của Hội Ðồng Lãnh
Thổ Nam Kỳ đã không dám chống hẳn lại việc thống nhứt Việt Nam. Họ chỉ
ghi thêm trong quyết nghị biểu quyết ngày 23 tháng 4 năm 1949 chấp nhận
để Nam Kỳ được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam một điều kiện là nếu có sự
thay đổi trong mối liên hệ giữa Việt Nam với Liên Hiệp Pháp thì Nam Kỳ
sẽ lại được quyền tự quyết định về số phận mình.
Ðám thực dân
Pháp ở Nam Kỳ rất thù hận chúng tôi về việc đã chống lại họ một cách
mãnh liệt về vấn đề thống nhứt Việt Nam. Do đó, họ ngầm thông đồng với
bọn công tác thành của CSVN và để cho một cán bộ trong bọn công tác này
là La Văn Liếm hạ sát Anh Ðỗ Văn Năng ở Sài Gòn vào những tháng đầu năm
1950. Ngoài anh ra, chắc hẳn còn có nhiều người Việt Nam khác thuộc các
tổ chức ái quốc đã bị Pháp sát hại vì cuộc tranh đấu cho Việt Nam thống
nhứt. Vậy, đồng bào gốc Bắc Việt vào cư trú Nam Việt trước 1945 và
người Nam Việt chủ trương thống nhứt đã phải tranh đấu rất gay go, có
người phải thiệt mạng vì chủ trương này. Bởi đó, sọc đỏ thứ ba trên quốc
kỳ tượng trưng cho Nam Việt thật sự đã được tô bằng máu của nhiều nhà
ái quốc và điều này làm cho cờ vàng ba sọc đỏ có một ý nghĩa chánh trị
sâu xa mà nhiều người Việt Nam hiện nay không thấy được.
Một
quyết định khác của Quốc Trưởng Bảo Ðại khi ông mới về nước năm 1949
cũng có một
ý nghĩa chánh trị ít ai được biết là việc chọn Sài Gòn làm thủ đô. Vì
là người kế thừa nhà Nguyễn nên Quốc Trưởng Bảo Ðại rất muốn đặt chánh
phủ thống nhứt của Việt Nam ở Huế là kinh đô cổ truyền của triều đại
mình. Nhưng lúc ấy, nhà cách mạng lão thành Trần Văn Ân đã bàn với ông
là nếu ông lay Huế làm thủ đô, việc sáp nhập Nam Kỳ vào lãnh thổ Việt
Nam không được thể hiện rõ rệt đối với người Việt Nam và người ngoại
quốc và nền thống nhứt thâu hoạch được một cách gay go sẽ không vững
chắc. Ðặt thủ đô ở Sài Gòn để cho mọi chánh lịnh ban hành trong toàn
quốc Việt Nam phát xuất từ Nam Việt thì tánh cách thống nhứt của nước
Việt Nam từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan hiển hiện trước mắt và trong tâm
thức mọi
người thành ra không ai còn hoài nghi hay phủ nhận sự thống nhứt đó
được nữa. Quốc Trưởng Bảo Ðại tán thành ý kiến trên đây của Ông Trần Văn
Ân và quyết định lập chánh phủ thống nhứt ở Sài Gòn, mặc dầu ông không
thích ở Sài Gòn vì chánh quyền Pháp lúc đó chịu giao Phủ Cao Ủy ở Hà Nội
cho ông mà lại giữ Phủ Cao Ủy ở Sài Gòn là Dinh Norodom (sau này gọi
lại là Dinh Ðộc Lập) thành ra tại Sài Gòn, Phủ Thủ Tướng của Việt Nam
kém bề thế hơn Phủ Cao Ủy của Pháp.
2/ Ý nghĩa triết lý
Về
mặt triết lý, trong bát quái, ba vạch liền là quẻ Càn, tượng trưng cho
trời, cho vua, cho cha và cho quyền lực. Ngày nay, chúng ta sống trong
chế độ dân chủ và quẻ Càn trên quốc kỳ có thể dùng để tượng trưng cho
quốc gia và dân tộc Việt Nam
và sức mạnh của toàn dân ta.
3. Cờ vàng ba sọc đỏ và cờ đỏ sao vàng
a. So sánh cờ vàng ba sọc đỏ và cờ đỏ sao vàng về mặt thẩm mỹ
Nói
chung thì trên một lá cờ gồm hai màu, một đậm, một lợt thì nếu màu đậm
quá nhiều và làm nền còn màu lợt quá ít và làm dấu hiệu phụ thuộc thì
màu lợt bị màu đậm tràn ngập và lá cờ trở thành tối. Trái lại, nếu màu
lợt nhiều hơn và làm nền còn màu đậm ít hơn và làm dấu hiệu phụ thuộc
thì màu đậm in rõ lên nền màu lợt và cả hai màu đều sáng chói. Quốc kỳ
của tập đoàn CSVN gồm một ngôi sao vàng nhỏ trên nền đỏ, màu vàng của
ngôi sao bị nền đỏ sậm hơn tràn ngập nên chỉ hiện lean như một tia sáng
yếu ớt và cả lá cờ xem rất tối. Quốc kỳ của người quốc gia chúng
ta trái lại, dùng màu vàng làm nền và ba sọc đỏ sậm hơn đã hiện rõ lên
nền vàng này thành ra cả hai màu đều tươi sáng. Vậy, chỉ xét riêng về
mặt thẩm mỹ, quốc kỳ của chúng ta tươi đẹp hơn quốc kỳ của tập đoàn CSVN
rất nhiều. Ðiều đó cũng không có chi lạ. Quốc kỳ của chúng ta do một
họa sĩ nổi tiếng vẽ ra, còn cờ của tập đoàn CSVN chỉ là sự mô phỏng nô
lệ cờ một đế quốc có chủ trương sắt máu và không có ý thức gì về cái
đẹp.
b. So sánh cờ vàng ba sọc đỏ với cờ đỏ sao vàng về mặt triết lý
Nếu
lấy nền triết lý cổ truyền của dân tộc Việt Nam làm căn bản để phán
đoán thì cờ vàng ba sọc đỏ của chúng ta cũng có một ý nghĩa tốt đẹp hơn
cờ đỏ sao vàng nhiều. Theo quan niệm cổ của dân tộc Việt Nam,
màu vàng thuộc hành thổ và màu đỏ thuộc hành hỏa và vì hỏa sanh thổ nên
hai màu này rất hợp với nhau. Nhưng trên cờ đỏ sao vàng, màu đỏ quá
nhiều, màu vàng quá ít, cũng như khối lửa lớn hay một ánh nắng gay gắt
nung đốt một hòn đất nhỏ thành ra hòn đất bị khô cằn đi. Trong khi đó,
trên cờ vàng ba sọc đỏ, ba sọc đỏ nhỏ như những tia nắng rọi xuống một
mặt đất rộng rãi làm cho mặt đất này ấm áp và có điều kiện thuận lợi cho
cây cỏ mọc lên được.
Ý nghĩa về triết lý trên đây thật ra cũng
phù hợp với bản chất của chế độ chánh trị hai bên. Chế độ cộng sản là
một chế độ độc tài toàn diện đè ép nhơn dân, phủ nhận các quyền lợi căn
bản của con người, làm thui chột các sáng kiến nên không thể phát triển
được. Dưới quyền của tập đoàn CSVN, nước Việt Nam đã trở thành một mảnh
đất cằn cỗi không sinh khí và xã hội Việt Nam lọt vào sự đói khổ cùng
cực. Chế độ quốc gia dung nạp sự tự do, tôn trọng các quyền lợi căn bản
của con người và khuyến khích sáng kiến nên mặc dầu các nhà lãnh đạo về
phía quốc gia đã phạm nhiều lỗi lầm trầm trọng, mặc dầu CSVN đã gây
nhiều tàn sát và phá hoại, phần lãnh thổ Việt Nam do người quốc gia điều
khiển đã là một mảnh đất đầy sinh khí và nhơn dân Việt Nam trên lãnh
thổ này đã hưởng một nếp sống tương đối tự do và trù phú hơn.
D. VẤN ÐỀ THAY ÐỔI QUỐC KỲ
1. Các lập luận đưa ra để phủ nhận cờ vàng ba sọc đỏ
Sau
năm 1975, trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại có
một số người chủ trương phủ nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ. Trong số những
người này, có kẻ bảo rằng đó là cờ thua trận, có kẻ bảo rằng đó là một
lá cờ của một chế độ tham nhũng thúi nát, có kẻ cho rằng đó là cờ của
Bảo Ðại, cờ của Ông Ngô Ðình Diệm hay cờ của Ông Nguyễn Văn Thiệu là
những người lãnh đạo mà họ cho là không xứng đáng.
2. Quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc kỳ
Thật
sự thì quốc kỳ một nước thường có ý nghĩa sâu xa liên hệ đến văn hóa và
lịch sử dân tộc. Dầu cho nó do ai chọn lựa và chọn lựa như thế nào thì
một khi đã được dùng làm quốc kỳ, nó cũng không còn có thể được xem là
của cá nhơn nào mà phải được xem là của toàn thể nhơn dân trong nước.
Bởi đó, số
phận quốc kỳ không thể cột buộc vào số phận một nhà lãnh đạo, vào những
ưu khuyết điểm của một chế độ hay vào sự thắng bại trong một cuộc tranh
đấu. Trong lịch sử thế giới, không ai chủ trương phủ nhận quốc kỳ của
mình hay thay đổi nó vì các lý do trên. Việc thay đổi quốc kỳ chỉ được
đặt ra khi trong nước có những quan niệm chánh trị mới hoàn toàn khác
quan niệm làm căn bản cho chế độ quốc gia.
Như chúng tôi đã nói
trên đây, lá quốc kỳ đầu tiên được dùng trên thế giới là cờ tam sắc của
Pháp. Nó là kết quả một sự tương nhượng giữa hoàng gia Pháp và nhơn dân
thị xã Paris. Sau đó, nhà vua Louis thứ XVI của Pháp đã chống lại Cách
Mạng và bị xử tử, nhưng chánh phủ cách mạng Pháp vẫn chánh thức lấy lá
cờ tam sắc
làm quốc kỳ.
Lúc dòng vua chánh thống của Pháp được đưa lên
ngôi báu trở lại, họ đã dùng lá cờ trắng có hoa huệ vàng của hoàng gia
làm quốc kỳ, nhưng cờ này chỉ được dùng từ năm 1816 đến năm 1830. Với
cuộc Cách Mạng 1830, dòng Orléans được đưa lên thay dòng vua chánh thống
và cờ tam sắc đã được dùng làm quốc kỳ trở lại.
Năm 1848, dòng
Orléans lại bị lật đổ. Một số nhà cách mạng tả khuynh thời đó đã chủ
trương dùng cờ đỏ thay cờ tam sắc làm quốc kỳ, nhưng sau một bài diễn
văn cảm động của thi hào Lamartine, người Pháp đã quyết định giữ cờ tam
sắc. Lúc ấy, người Pháp lập Ðệ Nhị Cộng Hòa. Nhưng người đầu tiên được
bầu làm Tổng Thống của nền cộng hòa này lại là cháu của Hoàng Ðế
Napoléon thứ I. Năm
1850, ông đảo chánh để lên ngôi hoàng đế với danh hiệu Napoléon thứ
III. Ðến năm 1870, vì gây chiến với Ðức và bị thảm bại nên ông phải
thoái vị.
Quốc Hội Pháp được bầu vào lúc đó gồm nhiều người bảo
hoàng muốn tái lập chế độ quân chủ và tôn làm quốc vương Bá Tước
Chambord, người lãnh đạo dòng vua chánh thống từ năm 1836. Nhưng Bá Tước
Chambord đòi hỏi phải bỏ cờ tam sắc để lấy cờ trắng thêu hoa huệ vàng
làm quốc kỳ. Những người bảo hoàng nhiệt tâm nhứt đều biết rằng quốc dân
Pháp lúc đó không chấp nhận cờ trắng thêu hoa huệ vàng thay cờ tam sắc
nên cố thuyết phục Bá Tước Chambord bỏ ý định của ông. Thống Chế Mac
Mahon là một lãnh tụ bảo hoàng đã bảo rằng: "Nếu dùng lá cờ trắng thay
lá cờ tam sắc thì không
cần ai bấm cò, súng cũng tự nổ". Vì Bá Tước Chambord vẫn khăng khăng
phủ nhận lá cờ tam sắc nên cuối cùng phe bảo hoàng phải từ bỏ chủ trương
tái lập chế độ quân chủ.
Thời Thế Chiến II, Thống Chế Pétain đã
chịu đầu hàng người Ðức trong khi Tướng De Gaulle chạy sang Anh kêu gọi
người Pháp kháng chiến. Lúc ấy, có hai lực lượng Pháp đối đầu nhau và
cả hai đều dùng lá cờ tam sắc. Ðể phân biệt hai bên, Tướng De Gaulle chỉ
dùng một cây thánh giá Lorraine gồm hai nhánh ngang và một nhánh dọc
đặt trên cờ để làm hiệu kỳ cho Lực Lượng Pháp Quốc Tự Do (LLPQTD) của
ông. Ðến khi giải phóng được nước Pháp, ông đã không vì cớ cờ tam sắc đã
bị Thống Chế Pétain dùng trong khi đầu hàng Ðức để xin thay đổi nó. Do
đó, cờ tam sắc vẫn
là quốc kỳ của Pháp và lá cờ có dấu thập tự Lorraine chỉ được xem là
hiệu kỳ của LLPQTD.
Nói chung lại thì từ năm 1789, ở Pháp có ba
quan niệm chánh trị căn bản thể hiện bằng ba lá cờ: quan niệm quân chủ
chánh thống với cờ trắng thêu hoa huệ vàng, quan niệm cách mạng tả phái
với cờ đỏ và quan niệm dân chủ tự do với cờ tam sắc. Cờ tam sắc biểu
tượng được lý tưởng chung của đa số dân Pháp nên đã được chọn làm quốc
kỳ và các mưu toan thay đổi nó đều không thành tựu được.
3. Nhiệm vụ người quốc gia Việt Nam đối với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ Người
quốc gia Việt Nam ta may mắn có một lá quốc kỳ rất đẹp và oai hùng.
Phải thấy cờ này bay phấp phới trên một nền trời trong xanh mới thấy hết
cái đẹp oai
hùng đó. Mặt khác, cờ vàng ba sọc đỏ mang nhiều ý nghĩa triết lý và
chánh trị tuyệt hảo, hơn hẳn lá cờ đỏ sao vàng chống đối lại nó. Từ khi
Quốc Gia Việt Nam được công nhận là một nước độc lập, cờ vàng ba sọc đỏ
đã được nhiều quốc gia trên thế giới biết. Tại Việt Nam, nó đã là biểu
tượng hội tập nhiều triệu chiến sĩ quân nhơn cũng như dân sự tranh đấu
cho sự tự do của dân tộc Việt Nam. Nó đã được dùng để phủ lên áo quan
của nhiều trăm ngàn người đã chết vì Tổ Quốc Việt Nam. Như vậy, nó là
một bảo vật thiêng liêng đối với mọi người chúng ta.
Hiện nay,
quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không còn được chánh thức dùng bên trong nước
Việt Nam, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng nó là lá cờ
tượng trưng cho nền độc lập và tự do của Tổ Quốc, chống lại chế độ cộng
sản tàn ác, phi nhơn và nô lệ ngoại bang. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng
được người ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống
lại Cộng Sản. Không biểu tượng nào khác có thể thay thế cờ vàng ba sọc
đỏ về các mặt này. Vậy, việc tỏ lòng tôn trọng quốc kỳ nền vàng ba sọc
đỏ và dùng nó một cách rộng rãi ở nơi nào có người quốc gia Việt Nam là
một công cuộc đóng góp lớn vào việc giải phóng đất nước khỏi ách Cộng
Sản.
Việc một hội đoàn Việt Nam dùng làm hiệu kỳ một lá cờ nền
vàng ba sọc đỏ trên có biểu tượng riêng cho mình là một điều hữu ích cho
công cuộc tranh đấu chống lại Cộng Sản. Khi Liên Minh Dân Chủ Việt Nam
(LMDCVN)
áp dụng nguyên tắc trên đây và thêm 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh trên cờ
vàng ba sọc đỏ để làm đoàn kỳ của mình, một số người đã chỉ trích vì
cho rằng như vậy là bất kính đối với quốc kỳ. Nhưng sự thật không phải
như vậy. Việc dùng một biểu hiệu thêm vào quốc kỳ để làm hiệu kỳ cho một
tổ chức tranh đấu cho Tổ Quốc là một điều mà người các nước đã từng
làm. Như trên đây đã nói, khi thành lập LLPQTD để chống lại chánh phủ
Pétain, Tướng De Gaulle đã dùng một cây thập tự Lorraine thêm vào quốc
kỳ Pháp. Vậy, việc đoàn kỳ của LMDCVN là một quốc kỳ trên có 5 ngôi sao 5
nhánh màu xanh chỉ hàm ý rằng LMDCVN là một tổ chức của VNCH tranh đấu
dưới lá quốc kỳ Việt Nam, và 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh chỉ để phân
biệt nó với những
tổ chức tranh đấu khác nhưng cùng một mục tiêu chung.
Trong khi
chưa giải phóng được Việt Nam và chưa làm cho nó được chánh thức dùng
trở lại trên toàn cõi Việt Nam, nhiệm vụ người Việt Nam ở hải ngoại là
làm cho cờ này vẫn được sử dụng ở mọi nơi có người quốc gia Việt Nam,
đặc biệt là trong những hoạt động có liên hệ đến người ngoại quốc. Về
mặt này, chúng ta phải ghi công cố Ðại Tá Ðỗ Ðăng Công, nguyên Tổng Thư
Ký của Phân Bộ Việt Nam trong Liên Minh Thế Giới Chống Cộng (LMTGCC).
Sau năm 1975, lúc CSVN vừa chiếm được Miền Nam Việt Nam, ban tổ chức của
liên minh này đã không còn dùng cờ vàng ba sọc đỏ trong các phiên họp
của họ. Nhưng bằng những lời lẽ hợp lý, cương quyết và cảm động, cố Ðại
Tá Ðỗ Ðăng Công đã
làm cho họ thay đổi ý kiến và từ đó, quốc kỳ của chúng ta đã được long
trọng dùng chung với cờ của các nước hội viên khác của LMTGCC ở mọi nơi.
Ngoài ra, còn có những người khác cũng có những công tác tương
tự. Khi đến thuyết trình về vấn đề Việt Nam ở Viện Ðại Học OSU (Oregon
State University) tại Cornvallis ngày 30 tháng 11 năm 1987, tôi được
biết rằng các anh chị em sinh viên Việt Nam ở Viện Ðại Học này đã hai
lần tranh đấu với ban giám đốc để cho cờ vàng ba sọc đỏ vẫn được treo
với tư cách là quốc kỳ Việt Nam ở một hội trường trưng bày cờ các nước.
Phía Canada thì Cộng Ðồng Việt Nam đã tranh đấu để cho thị xã Toronto
chấp nhận để cho quốc kỳ Việt Nam được treo lên một tuần lễ mỗi năm tại
kỳ đài của thị xã
vào dịp 30 tháng 4. Tại Los Angelès (California) thì Cộng Ðồng Việt Nam
đã được chấp nhận cho xây dựng một kỳ đài để quốc kỳ Việt Nam sẽ được
treo liên tục suốt năm. Tại San Jose (California), Cộng Ðồng Việt Nam
cũng sẽ xây dựng một kỳ đài tương tự*. Ngoài ra, trong dịp Tết Mậu Thìn,
quốc kỳ Việt Nam đã được treo trong suốt một tuần lễ ở trụ sở các tỉnh
Santa Clara, thị xã San José và thị xã Milpitas.
Có lẽ trên thế
giới còn có những nơi mà đồng bào Việt Nam đã tranh đấu và thành công
trong việc làm cho quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ được cộng đồng quốc tế
chấp nhận treo lên mà chúng tôi không được biết nên không nêu ra đây
được. Riêng Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do (UBQTYTVNTD) thì dĩ
nhiên là chánh thức công nhận
quốc kỳ này. Ngày 4 tháng 12 năm 1986, khi tổ chức buổi hội thảo công
khai đầu tiên của Ủy Ban, Ông Chủ Tịch Paul Vankerkhoven đã đích thân
kiểm soát việc trang trí phòng hội thảo. Tại phòng này, quốc kỳ nền vàng
ba sọc đỏ đã được treo chung với cờ các quốc gia trong Cộng Ðồng Âu
Châu và đặc biệt là được treo ở chỗ danh dự là ngay bên hữu cờ Bỉ là cờ
của nước chủ nhà. Chắc chắn là trong mọi cuộc hội họp công cộng của
UBQTYTVNTD mà có treo cờ thì quốc kỳ của chúng ta sẽ được treo chung với
cờ các nước khác. Việc quốc kỳ của chúng ta lần lần tái hiện bên
cạnh cờ các quốc gia khác trên thế giới là một dấu hiệu cho thấy rằng
công cuộc tranh đấu để giải phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản có những
tiến triển khả quan. Hiện
nay, quốc kỳ này là biểu hiệu hội tập mọi người quốc gia Việt Nam: dầu
có bất đồng ý kiến, dầu có những hiềm khích đối với nhau, mọi người quốc
gia đều nên tôn trọng quốc kỳ và nếu mọi người đều quyết tâm tranh đấu
chung nhau hay ít nhứt cũng song song nhau thì một ngày không xa lắm,
quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ sẽ phấp phới bay trên mọi nóc nhà Việt Nam từ
mũi Cà Mau cho đến ải Nam Quan.
II. QUỐC CA VIỆT NAM
A. SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ý NIỆM QUỐC CA TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI Ý
niệm quốc ca đã từng xuất hiện một lượt với ý niệm quốc kỳ. Từ ngàn
xưa, loài người đã có dùng những bản nhạc hay bài ca để đánh dấu sự có
mặt của một nhơn vật lãnh đạo. Nhưng thời trước, với chế độ quân chủ,
các bản nhạc hay bài hát
loại này được xem là biểu tượng riêng của cá nhơn nhà vua, nhá quí tộc
hoặc nhà đại diện cho các cự tộc cầm đầu cộng đồng. Về nội dung, nó có
thể là một bài để cho nhơn vật lãnh đạo này cầu nguyện trời hay thần
linh phù hộ ông, một bài chúc tụng ông, đề cao công nghiệp của ông hay
của gia tộc ông, hay một bài mô tả cảnh thái bình thạnh trị, hoặc sự
cường thạnh của cộng đồng mà ông là chủ nhơn.
Chỉ với cuộc Cách
Mạng Pháp năm 1789, khi quốc gia được xem là sở hữu của toàn thể mọi
người sống trong cộng đồng mới có bài hát được dùng làm biểu tượng chung
cho toàn thể quốc dân. Người Pháp đã dùng từ ngữ hymne national để chỉ
loại bài hát này. Quan niệm của người Pháp lần lần được người nước khác
chấp nhận
và người thuộc các dân tộc nói tiếng Anh đã dùng từ ngữ national anthem
khi nói đến bài hát tiêu biểu cho nước mình. Hymne national của Pháp
hay national anthem theo tiếng Anh đã được người Việt Nam chúng ta dịch
là quốc thiều nếu nhấn mạnh trên phần âm nhạc, hay quốc ca khi nhấn mạnh
trên phần lời nói.
Về phần thực hiện cụ thể thì bản quốc ca đầu
tiên trên thế giới là bài Marseillaise của Pháp. Bài này do một đại úy
công binh Pháp tên Rouget de Lisle làm năm 1792 với tên là Chiến Ca Của
Lộ Quân Sông Rhin (Chant De Guerre Pour l'Armée Du Rhin). Nhưng sau đó,
nó được nổi tiếng khi được một tiểu đoàn chí nguyện quân gồm người gốc ở
thị xã Marseille hát trong lúc kéo từ Marseille lên thủ đô Paris nên có
tục danh là bài Marseillaise. Bài hát này đã
được phổ biến rộng rãi ở Pháp từ năm 1792 và đến năm 1795, nó đã được
chánh thức chọn làm quốc ca của Pháp.
Sau khi người Pháp tung ra
ý niệm quốc ca, nhiều nước khác đã chấp nhận ý niệm này và đều có quốc
ca. Có khi quốc ca được chọn là một bài đã được dùng để đánh dấu sự hiện
diện của nhà vua. Ðó là trường hợp bài God Save The King (Trời Phù Hộ
Ðức Vua) hay God Save The Queen (Trời Phù Hộ Nữ Hoàng) nếu quốc trưởng
là một nữ hoàng. Bài này đã được dùng ở Anh từ trước Cách Mạng Pháp,
nhưng đến năm 1825 mới được chánh thức xem là quốc ca của nước Anh.
B. CÁC BẢN NHẠC ÐÃ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC THIỀU VÀ QUỐC CA
1. Quốc ca xuất hiện đầu tiên: bản Ðăng Ðàn Cung của Hoàng Ðế Bảo
Ðại
Ở Việt Nam trước đây, cũng như ở các nước quân chủ cổ thời
khác, có những bản nhạc và bài hát được dùng trong các lễ long trọng để
đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Về ý niệm quốc thều hay quốc ca, nó
chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân Pháp.
Tuy
nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc
thiều và quốc ca. Nam Kỳ lúc ấy là thuộc địa Pháp và khi có các cuộc lễ
lớn thì bản nhạc được dùng là bài Marseillaise của người Pháp. Ở Huế
thì triều đình nhà Nguyễn có một số bản nhạc được dùng khi có sự hiện
diện của nhà vua. Nhưng các bản nhạc trên đây không phải là quốc thiều
hay quốc ca theo đúng nghĩa kim thời của nó.
Ðến thời Thế Chiến
II,
Hoàng Ðế Bảo Ðại mới ấn định quốc thiều và quốc ca một lượt với quốc
kỳ. Bản quốc thiều và quốc ca này là bản Ðăng Ðàn Cung. Ðó là một bản
nhạc cổ điển của Việt Nam và được triều đình Huế dùng khi nhà vua ngự
đến đài Nam Giao để đại diện cho tất cả thần dân làm lễ tế trời. Lễ này
ba năm cử hành một lần và được xem là cuộc lễ quan trọng hơn hết của
triều đình. Do đó, bản Ðăng Ðàn Cung được xem là bản nhạc trang nghiêm
nhứt. Vì vậy, Hoàng Ðế Bảo Ðại đã dùng nó làm quốc thiều và quốc ca
trong khi cờ long tinh được chọn làm quốc kỳ. Cũng như cờ long tinh, bản
Ðăng Ðàn Cung chỉ được dùng trên lãnh thổ Ðại Nam tức là Trung Kỳ và
Bắc Kỳ, còn ở Nam Kỳ bị xem là lãnh thổ Pháp thì bản Marseillaise vẫn
phải được
dùng.
2. Quốc ca thứ nhì: bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông thời chánh phủ Trần Trọng Kim
Sau
khi Nhựt đảo chánh Pháp và Việt Nam tuyên bố độc lập, chánh phủ Trần
Trọng Kim đã ban bố một chương trình hưng quốc ngày 8 tháng 5 năm 1945,
trong đó bản Việt Nam Minh Châu Troi Ðông của nhạc sĩ Hùng Lân được chọn
làm quốc ca. Lời ca của bản nhạc này như sau:
Việt Nam, minh châu trời Ðông! Việt Nam, nước thiêng Tiên Rồng! Non sông như gấm hoa uy linh một phương, Xây vinh quang ngất cao bên Thái Bình Dương. Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi. Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời. Máu ai còn vương cỏ hoa Giục đem tấm thân xẻ với sơn hà. Giơ tay cương quyết, Ta ôn lời thề ước. Hy sinh tâm huyết, Ta báo
đền ơn nước. Dầu thân này nát tan tành gói da ngựa cũng cam, Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.
Bản
quốc ca này được dùng chung với cờ quẻ Ly ở Bắc và Trung Việt, nhưng
không được dùng ở Nam Việt vì Nam Việt đã bị người Nhựt thay người Pháp
điều khiển một cách trực tiếp và chỉ được trả cho triều đình Huế lúc
Hoàng Ðế Bảo Ðại đã sắp thoái vị rồi. Vậy, trong thời kỳ từ khi người
Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Mặt Trận Việt Minh củng cố được chánh
quyền của nó ở Nam Việt, cả lãnh thổ này không có quốc ca. Bài hát được
người quốc gia ở Nam Việt dùng khi đứng lên tranh đấu cho nền độc lập
của Việt Nam thời đó là bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh
Niên của Thanh Niên Tiền Phong, chung với
cờ vàng sao đỏ cũng của tổ chức này. Như chúng tôi sẽ trình bày sau
đây, bản nhạc của bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên này
chính là bản nhạc của bài quốc ca mà chúng ta đang dùng.
3. Quốc ca thứ ba: bản Tiến Quân Ca của tập đoàn CSVN Khi
cướp được chánh quyền, tập đoàn CSVN đã dùng làm quốc ca bản Tiến Quân
Ca của nhạc sĩ Văn Cao. Bản nhạc này đã được họ bắt đầu dùng khi tổ chức
các đơn vị võ trang đầu tiên và cho đến nay, vẫn được họ dùng làm quốc
ca.
4. Quốc ca của Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc
Khi Nam Kỳ Cộng
Hòa Quốc thành lập năm 1946, những người cầm đầu phong trào Nam Kỳ Tự
Trị đã dùng làm quốc ca một bản phổ nhạc của mấy câu thơ đầu trong Chinh
Phụ Ngâm Khúc mà tác giả là Giáo Sư Võ Văn
Lúa, một giáo sư trung học thời Pháp thuộc. Sau đó, Nam Kỳ Cộng Hòa
Quốc lại dùng một bản nhạc khác cũng của vị giáo sư này làm quốc ca,
nhưng về nhạc và lời, bản sau này cũng chẳng hơn gì bản trước. Các bản
quốc ca quái đản trên đây thật xứng với lá cờ sốt rét dùng làm quốc kỳ
cho Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc. Nó đã là một đề tài chế giễu của ngưoi dân Nam
Việt lúc đó và ngày nay nhắc lại nó, chúng tôi không biết nên cười hay
nên khóc vì tuy hết sức lố bịch, nó đã được dùng làm biểu tượng cho một
tổ chức chống lại nền thống nhứt của Việt Nam và đã gây nhiều đau khổ
chết chóc cho những người tranh đấu cho nền thống nhứt này.
5. Quốc ca của chúng ta ngày nay
Bản
quốc ca của chúng ta hiện nay có một lịch sử đặc
biệt. Người sáng tác bản nhạc là Lưu Hữu Phước, một cựu học sinh trường
trung học Pétrus Ký và cựu sinh viên Viện Ðại Học Hà Nội. Nếu tôi không
lầm thì bản nhạc này đã được soạn ra lúc Lưu Hữu Phước còn học ở trường
Pétrus Ký. Năm 1942, anh ta là sinh viên của Viện Ðại Học Hà Nội. Thời
Thế Chiến II, Viện Ðại Học này là Viện Ðại Học duy nhứt của các nước
Ðông Dương. Nó có khoảng 800 sinh viên trong đó phân nửa là người Việt
Nam, còn lại là người Khmer, người Lào, người Pháp và ngay cả người một
số nước láng giềng như Trung Quốc và các nước Ðông Nam Á Châu.
Vì
là Viện Ðại Học duy nhứt của Ðông Dương nên Viện Ðại Học Hà Nội đã họp
tập tất cả sinh viên Việt Nam thời đó. Các sinh viên ái quốc gia nhập
các chánh
đảng cách mạng tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam đã tổ chức những
tổ bí mật tại đó. Ðặc biệt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng có đảng trưởng Trương
Tử Anh và một cán bộ nồng cốt là Anh Nguyễn Tôn Hoàn học tại Viện Ðại
Học Hà Nội thời Thế Chiến II. Anh Nguyễn Tôn Hoàn là người giỏi về nhạc
nên được bầu làm Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Ðông Dương
(Association Générale des Étudiants Indochinois) và anh đã lãnh nhiệm vụ
bí mật hướng dẫn các sinh viên hoạt động về văn hóa theo chiều hướng
tranh đấu chống thực dân.
Chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng
Hội Sinh Viên Ðông Dương (THSVÐD) đã tổ chức tại Ðại Giảng Ðường của
Viện Ðại Học Hà Nội một buổi hát để lấy tiền giúp các bịnh nhơn nghèo
của các bịnh
viện được dùng làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Các sinh
viên Việt Nam đóng vai tuồng chủ động trong Tổng Hội đã quyết định nhơn
cơ hội này tung ra một bản nhạc đặc biệt là Sinh Viên Hành Khúc, tên
Pháp là Marche des Étudiants. Anh Nguyễn Tôn Hoàn được ủy nhiệm chọn bản
nhạc dùng vào công việc đó. Lúc ấy, Lưu Hữu Phước đã đưa cho anh một số
bài nhạc do anh ta soạn. Anh Nguyễn Tôn Hoàn nhận thấy rằng trong tất
cả các dự thảo của Lưu Hữu Phước, bản nhạc mà chúng ta hiện dùng làm
quốc thiều có tánh cách khích động tinh thần tranh đau hơn hết nên đã
chọn nó làm nhạc cho Sinh Viên Hành Khúc. Sau đó, một ủy ban soạn lời ca
cho bản nhạc này đã được thành lập với Ðặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh
Văn Tiểng, Phan Thanh Hòa, Hoàng
Xuân Nhị. Lời ca này gồm ba đoạn với một điệp khúc chung:
I. Này sinh viên ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi!
Ðồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối. Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên, Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn! Hồn thanh xuân như gương trong sáng, Ðừng tiếc máu nóng, tài xin ráng! Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta, Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá. Ðường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương, Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường. (Ðiệp khúc) Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng! Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng! Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống! Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng! II. Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá! Hùng cường trời Nam, ghi
trên bảng vàng bia đá! Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn, Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn. Hồ Tây tranh phong oai son phấn, Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn. Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam, Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám. Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên, Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền. (Trở lại điệp khúc) III. Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng, Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng! Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông, Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng. Là sinh viên vun cây văn hoá, Từ trước sẵn có nhiều hoa lá. Ðời mới kiến thiết đáp lòng những ai Hằng mong ta ra vững cầm tay lái. Bền chí quyết cố
gắng làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời! (Trở lại điệp khúc)
Các
lời ca tiếng Việt như trên đây được dùng cho sinh viên Việt Nam và có
mục đích thúc đẩy người Việt Nam tranh đấu cho đất nước Việt Nam. Nhưng
vì như trên đã nói, Viện Ðại Học Hà Nội lúc ấy còn có nhiều sinh viên
không phải Việt Nam nên ngoài lời ca tiếng Việt, lại còn có lời ca tiếng
Pháp để mọi sinh viên của Viện đều có thể dùng nó được. Lời ca tiếng
Pháp này dĩ nhiên là không thể nói riêng về Việt Nam mà phải nói đến cả
Ðông Dương để cho phù hợp với tên THSVÐD. Lời ca tiếng Pháp cũng do ủy
ban nói trên đây soạn ra:
Étudiants! Du sol l'appel tenace Pressant et fort, retentit dans l'espace. Des côtes d'Annam aux ruines d'Angkor, À
travers les monts, du sud jusqu'au nord, Une voix monte ravie: Servir la chère Patrie! Toujours sans reproche et sans peur Pour rendre l'avenir meilleur. La joie, la ferveur, la jeunesse Sont pleines de femmes promesses. (Ðiệp khúc) Te servir, chère Indochine, Avec coeur et discipline, C'est notre but, c'est notre loi Et rien n'ébranle notre foi!
Buổi
hát chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942 đã đưa đến những kết quả mỹ mãn và
bản Sinh Viên Hành Khúc tên Pháp là Marche des Étudiants đã được chánh
thức công nhận là bản nhạc của THSVÐD. Mùa hè năm đó, Tổng Hội này lại
tổ chức một buổi lễ mãn khoá tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Lần này, có Toàn
Quyền Ðông Dương và nhiều viên chức cao cap Pháp khác đến dự. Bản Sinh
Viên Hành Khúc được dàn nhạc của Hải Quân Pháp trình tấu. Âm điệu
hùng hồn của nó đã làm mọi ngưoi khích động và khi nó được trổi lên,
tất cả mọi ngưoi tham dự lễ mãn khoá năm 1942 của Viện Ðại Học Hà Nội,
kể cả các viên chức cao cấp Pháp, đều đã nghiêm chỉnh đứng dậy để chào
nó. Sau đó, nó được phổ biến khắp nơi. Các sinh viên Pháp, Khmer và Lào
dĩ nhiên là theo lời ca Pháp. Về phía Việt Nam thì các sinh viên chỉ lo
đi học chớ không có nhiệt tâm tranh đấu chánh trị cũng chỉ biết có lời
ca Pháp. Phần các sinh viên Việt Nam có nhiệt tâm tranh đấu cho nền độc
lập của dân tộc thì đem ra phổ biến ở khắp cả ba kỳ trong kỳ nghỉ hè năm
đó với lời ca tiếng Việt, nhứt là đoạn I nói trên đây. Vì thế, từ năm
1943, bài Sinh Viên Hành Khúc đã được người Việt Nam ở cả ba kỳ biết.
Năm
1945, sau
khi Nhựt đảo chánh Pháp, Thanh Niên Tiền Phong được thành lập ở Nam
Việt và lấy bản nhạc trên đây làm đoàn ca. Tên bản nhạc được đặt lại là
Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên. Về lời thì hai chữ sinh
viên được thay bằng hai chữ thanh niên. Lúc người Pháp trở lại chiếm Nam
Việt cuối năm 1945, Thanh Niên Tiền Phong đã huy động người ái quốc
Việt Nam ở Nam Việt đứng lên chống lại họ dưới lá cờ vàng sao đỏ và bản
Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên.
Năm 1948, trong
phiên họp lịch sử ở Hongkong giữa Cựu Hoàng Bảo Ðại và một số thân hào
nhơn sĩ cùng đại diện các đoàn thể chánh trị và tôn giáo ở Việt Nam, Anh
Nguyễn Tôn Hoàn đã đề nghị lấy bản nhạc của Thanh Niên Hành Khúc làm
quốc thiều cho Quốc Gia Việt Nam.
Hội nghị đã đồng ý và tên bản nhạc được đặt lại là Quốc Dân Hành Khúc
hay Tiếng Gọi Công Dân. Về lời ca, đoạn I của bài Thanh Niên Hành Khúc
nói trên đây đã được dùng, với hai chữ công dân thay cho hai chữ thanh
niên.
Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chánh phủ lâm thời Việt Nam được
thành lập với Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng và Quốc Dân Hành Khúc
hay Tiếng Gọi Công Dân được chánh thức dùng làm quốc ca. Lúc Ông Ngô
Ðình Diệm lật đổ Quốc Trưởng Bảo Ðại để thành lập chế độ cộng hoà, Quốc
Hội Lập Hiến được bầu năm 1956 đã có đặt vấn đề chọn một bài quốc ca
khác. Tuy nhiên, lúc đó, phần lớn các bản nhạc được đề nghị dùng làm
quốc ca đều không đủ tiêu chuẩn để được chấp nhận. Bài duy nhứt được xem
là
xứng đáng làm quốc ca chính là bài Việt Nam Minh Châu Trời Ðông của
nhạc sĩ Hùng Lân đã được chánh phủ Trần Trọng Kim chọn làm quốc ca năm
1945. Tuy nhiên, hai Ông Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu cuối cùng đã
không chấp nhận việc dùng bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông làm quốc ca
vì một lý do đặc biệt.
Năm 1945, hai Ðảng Việt Nam Quốc Dân Ðảng
(VNQDÐ) và Ðại Việt Quốc Dân Ðảng (ÐVQDÐ) đã sáp nhập lại làm một với
tên chung là Quốc Dân Ðảng và Ðảng này đã lấy bài Việt Nam Minh Châu
Trời Ðông làm đảng ca. Sau đó, VNQDÐ và ÐVQDÐ lại tách nhau ra, nhưng cả
hai đều giữ đảng ca Việt Nam Minh Châu Trời Ðông. Vì biết được việc này
nên hai anh em Ông Diệm đã không chấp nhận bản nhạc này làm quốc ca.
Rốt cuộc, Quốc Hội Lập Hiến năm 1956
đã quyết định giữ lại bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân làm
quốc ca, nhưng đổi lời lại như sau:
Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng. Ðồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống! Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên, Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền. Dầu cho thây phơi trên gươm giáo, Thù nước lấy máu đào đem báo. Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy, Ngưoi công dân luôn vững bền tâm trí, Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời! (Ðiệp khúc) Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ! Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang đời sống Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng. Bản nhạc và lời ca
này đã được dùng suốt thời Ðệ Nhứt và Ðệ Nhị Cộng Hòa cho đến ngày nay.
C. VẤN ÐỀ THAY ÐỔI QUỐC CA
Nói
tóm lại, trừ các bản nhạc vô duyên đã được Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc dùng
làm quốc ca, nhưng thật sự không thể xem là quốc ca được, dân tộc Việt
Nam có cả thảy bốn bản nhạc xứng đáng với danh nghĩa quốc ca là Ðăng Ðàn
Cung, Việt Nam Minh Châu Trời Ðông, Tiến Quân Ca và Quốc Dân Hành Khúc
hay Tiếng Gọi Công Dân. Bốn bản quốc ca này đã được dùng song song với
bốn lá quốc kỳ: bản Ðăng Ðàn Cung với cờ long tinh, bản Việt Nam Minh
Châu Trời Ðông với cờ quẻ Ly, bản Tiến Quân Ca với cờ đỏ sao vàng và bản
Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân với cờ vàng ba sọc đỏ.
1. So sánh các bản quốc ca với nhau Bản
Ðăng Ðàn Cung là bản nhạc cổ điển Việt Nam thuộc loại nhã nhạc. Loại
nhạc này có tánh cách nghiêm trang và ôn hòa, trái với dâm nhạc là loại
nhạc biểu lộ tình cảm một cách nồng nhiệt và chỉ được dùng trong việc
giải trí hay hội họp vui chơi. Bản Ðăng Ðàn Cung là một bài nhã nhạc
dùng trong lễ tế Nam Giao của nhà vua. Do đó, nó có tánh cách trang
trọng, nhưng không hùng hồn và không khích động được tinh thần người
nghe. Bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông là một bản tân nhạc có tánh cách
khích động hơn bản Ðăng Ðàn Cung, nhưng cái hùng của nó là loại trầm
hùng nên không khích động tinh thần người nghe bằng bản Quốc Dân Hành
Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Vì là một hành khúc, bản quốc ca hiện nay
của chúng ta khích động tinh thần người nghe
một cách mạnh mẽ hơn. Mặt khác nữa, hoàn cảnh lịch sử đã làm cho nó
đóng một vai tuồng tích cực trong cuộc tranh đấu cho nền độc lập và tự
do của dân tộc Việt Nam. Thời Thế Chiến II, với tên là Sinh Viên Hành
Khúc, nó đã được dùng để đánh thức tinh thần tranh đấu của nhơn dân Việt
Nam. Ðến lúc người Pháp đem binh đến để tái chiếm Nam Việt, dưới tên
Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên, nó đã được dùng để thúc
đẩy các chiến sĩ cầm tầm vong vạt nhọn đứng lên tranh đấu với Quân Ðội
Viễn Chinh Pháp. Khi nước Pháp chánh thức nhìn nhận nền độc lập và thống
nhứt của Việt Nam, nó đã thành bản quốc ca với tên là Quốc Dân Hành
Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân.
Bản Tiến Quân Ca của CSVN cũng có
tánh cách khích động tinh
thần người nghe như bản quốc ca của chúng ta. Nhưng về lời ca thì từ
hình thức Sinh Viên Hành Khúc qua Thanh Niên Hành Khúc đến Quốc Dân Hành
Khúc, bản quốc ca của chúng ta nhiều lắm là nói đến "thù nước lay máu
đào đem báo", còn Tiến Quân Ca với lời "thề phanh thây uống máu quân
thù" rõ là sắt máu quá và có thể làm cho thế giới xem dân tộc Việt Nam
là dã man. Về mặt chánh trị, bản Thanh Niên Hành Khúc đã được dùng để
thúc đẩy các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn chống lại
Quân Ðội Viễn Chinh Pháp trong khi bản Tiến Quân Ca đã được trổi lên để
chào đón Quân Ðội này lúc họ đổ bộ ra Bắc Việt theo sự thoả thuận với
Hồ Chí Minh trong Sơ Ước ngày 6 tháng 3 năm 1946. Sau đó, nó đã được
dùng khi bộ đội Việt Minh cùng
với bộ đội Pháp hợp tác nhau trong Ban Liên Kiểm Việt-Pháp để tiến đánh
các chiến khu của Ðại Việt Quốc Dân Ðảng, Việt Nam Quốc Dân Ðảng và
Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội.
2. Lý luận của những người muốn đổi quốc ca Những người muốn đổi quốc ca đã đưa ra nhi
|
No comments:
Post a Comment