HỒ SƠ MẬT
1963
Từ Các Nguồn
Tài Liệu Của Chính Phủ Mỹ
Nhóm Thiện Pháp
thực hiện
Nhà Xuất bản
Thien Tri Thuc Publications, USA 2013
30-Dec-2013
LỜI GIỚI THIỆU
Tập sách Hồ Sơ Mật 1963 - Từ
các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ nầy
ra đời có hai mục đích:
Thứ nhất là để giới thiệu
với quảng đại độc giả một
nguồn tài liệu tham cứu của chính phủ Mỹ,
ký tự là FRUS, vốn khá quen thuộc với giới nghiên
cứu nhưng lại vẫn còn xa lạ với
độc giả Việt Nam bình thường khi muốn
tìm hiểu về những biến động lịch
sử trong thập niên 1960’ của nước ta.
Thứ nhì là thông qua nguồn tài liệu đó
để trình bày một số phát hiện mới, vốn
không được đa số giới nghiên cứu
người Việt hải ngoại khai thác và phổ
biến, thậm chí còn bị một số “nhà bình
luận” xuyên tạc và ngộ nhận, về những
gì đã thực sự xảy ra tại miền Nam Việt
Nam trong năm 1963.
Do đó, từ “Mật” trong tiêu
đề tập sách là chỉ để cho quảng
đại độc giả chưa biết đến,
hoặc có biết đến nhưng không chịu sử
dụng, nguồn tài liệu nầy mà thôi. Từ nay, hy
vọng rằng mọi độc giả đều có
thể tiếp cận trực tiếp nguồn FRUS
để bổ túc cho những nhận định của
mình được trung thực và chính xác hơn.
-- o0o --
Tập sách nầy gồm 26 tài liệu, trong
đó hơn 80%, 21 tài liệu, là của chính phủ Mỹ.
Những văn bản nầy của chính phủ (Công
điện, Bản Ghi nhớ, Điện tín, Phúc trình,
…) gồm 12 tài liệu, hơn 57%, đã là của
Bộ Ngoai Giao Mỹ dưới ký tự viết tắt
FRUS. 9 tài liệu còn lại là của Tòa Bạch Ốc
(Cục An Ninh Quốc Gia NSA), Bộ Quốc Phòng (Pentagon
Papers), CIA (tại Sài Gòn và tại Langley), và từ
Thượng Viện (Select Committee to Study Governmental
Operations).
Còn 5 tài liệu không có nguồn gốc từ
chính phủ Mỹ là Phúc trình A/5630 của Phái
đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc; một
đoạn trong Death of A Generation của Howard
Jones vốn là một tác phẩm cũng sử dụng
rất nhiều nguồn tài liệu của chính phủ
Mỹ. Ngoài ra, còn có một trích đoạn trong
cuốn Việt Nam Nhân Chứng của Trung
Tướng Trần Văn Đôn, kể lại đêm
tổng tấn công chùa 20-8-1963 mà ông vừa là tác nhân vừa
là chứng nhân khiến một tài liệu của CIA đã
phải đặc biệt nhắc đến; và một
bài viết kết luận tổng hợp của tác
giả Tâm Diệu vềPhật giáo và cuộc Chính
biến 1-11-1963 thông qua các tài liệu của chính
phủ Mỹ.
Xin được có vài lời về lý do
tại sao chúng tôi lại sử dụng đến hơn
57% tài liệu FRUS của Bộ Ngoại Giao Mỹ cho
tập sách nầy.
FRUS, ký tự viết tắt của cụm
từ Foreign Relations of the United States, là một
tập hợp các tài liệu lịch sử chính thức
liên hệ đến các quyết định quan trọng
trong chính sách ngoại giao của Mỹ đã
đƣợc giải mật và biên tập để công
bố (The Foreign Relations of the United States series is the official
documentary historical record of major U.S. foreign policy decisions that have
been declassified and edited for publication). Những tài liệu
nầy do Văn phòng Sử gia (Office of the Historian) thuộc
Bộ Ngoại giao soạn thảo và chịu trách nhiệm
xuất bản, và do Sở Ấn loát Chính phủ (Government
Printing Office) in ấn phát hành. Tập hợp tài liệu
đồ sộ nầy bắt đầu từ các
biến cố ngoại giao từ thời chính quyền
của Tổng thống Abraham Lincoln (1861) cho đến ngày
nay.
Riêng tài liệu liên hệ đến Việt Nam
duới nhiệm kỳ Tổng thống Kennedy thì gồm 4
Tập, phủ dài thời gian 3 năm từ 1961
đến 1963. Hai tập cuối cùng, Tập III và Tập
IV, được phát hành vào năm 1991 và được
phổ biến Online trong không gian Internet vào đầu thiên
niên 2000.
Độc giả người Việt ở
hải ngoại, ngay cả ở Mỹ, cũng ít nghe nói
đến kho tài liệu đồ sộ và quý giá đã
được giải mật khá đầy đủ và
dễ dàng truy cập Online nầy. Chỉ một số nhà
nghiên cứu nghiêm túc là biết từ rất sớm về
FRUS và đã khai thác rất hiệu quả để tái
khẳng định và/hoặc hiệu đính lại
một số biến cố / luận điểm mà trong
quá khứ đã không hoặc chưa đƣợc
biểu đạt rõ ràng.
Xin đan cử trường hợp về hai
bài viết có liên quan đến chế độ Ngô
Đình Diệm chỉ vài năm sau khi FRUS được
lên Online: Cách đây hơn 10 năm, trong bài viết Toàn
Trị và Ngoại Thuộcvào tháng 5 năm 2003, giáo sư
Cao Huy Thuần ở Pháp đã sử dụng 50 nguồn trích
dẫn từ FRUS trong tổng số 53 cước chú
của ông(1). ;Còn trong tiểu luận
công phu Phiến Cọng trong Dinh Gia Long, hoàn thành vào
tháng 8 cũng năm 2003, tiến sĩ Chính Đạo
Vũ Ngự Chiêu ở Mỹ đã sử dụng 49 tham
chiếu từ FRUS trong tổng số 149 cước chú
của ông(2).
Sở dĩ FRUS đạt được
độ tin cậy khá cao, do đó mức sử dụng
khá nhiều, trong các công trình nghiên cứu là vì ba lý do:
(i)
Nói chung, FRUS là những tài liệu mật hoặc tuyệt
mật (TOP SECRET) được trao đổi giới
hạn giữa một số ít giới chức hành pháp
rất cao cấp của Mỹ. Nội dung của những
tài liệu nầy thường được làm cơ
sở hoặc công cụ để thiết lập chính
sách hoặc kế hoạch hành động cấp quốc
gia, nên độ trung thực và tính chính xác của tài
liệu, dù có lợi hay có hại cho chính quyền Mỹ,
đều luôn luôn đƣợc người soạn
thảo tài liệu cố gắng giữ ở mức
tối đa.
(ii)
Cơ chế vận hành Check and Balance (Kiểm soát và Quân
bình) của chính phủ Mỹ [và sau nầy với việc
ban hành Freedom of Information Act năm 1966
(Đạo luật về Quyền tự do tiếp
cận Thông tin)] cho phép hai ngành Lập pháp và Tư pháp
cũng như bất kỳ người dân nào, sớm hay
muộn, cũng truy cứu được thông tin của
chính phủ. Thậm chí nếu cần, có thể xin tòa án
can thiệp (subpoena) để được tiếp
cận tài liệu. Vì biết rõ và vì làm việc trong khung
nguyên tắc đó từ lâu nên trong quá trình hình thành các tài
liệu, giới chức chọn lựa và soạn thảo
FRUS đã phải cố gắng tránh những sai lầm,
sơ hở, tối nghĩa, lạc dẫn, suy đoán, thậm
chí dối trá, … ở mức tối đa.
(iii)
Tinh thần và đạo đức học thuật
của giới nghiên cứu Mỹ là khá cao, lãnh vực
nghiên cứu là khá đa dạng, và tranh chấp học
thuật thì gay gắt trên trường quốc tế. Do
đó, những học giả luôn đòi hỏi các
nguồn cung cấp tài liệu, dù trong hay ngoài chính phủ,
dù lãnh vực an ninh quốc gia hay bất kỳ lãnh vực
nào, cũng phải duy trì một mức độ chuyên
nghiệp trong các tài liệu để họ có thể tin
tưởng sử dụng. Trong lãnh vực bang giao quốc
tế có liên hệ đến Mỹ, FRUS là công cụ làm
việc của giới nghiên cứu nên cũng phải
chuyên nghiệp ở mức tối đa.
Đó ít nhất là những lý do vì sao FRUS có
độ khả tín khá cao. Do đó, một cách cụ
thể, công trình nghiên cứu nghiêm túc nào về quan hệ
Việt-Mỹ trong thập niên 1960‘ mà không tham chiếu
FRUS thì cũng là điều thiếu sót. Nhưng dĩ nhiên
chúng ta cũng không ngây thơ đến độ tin
tưởng hoàn toàn bất kỳ thông tin nào của FRUS mà
không đối chiếu với các nguồn thông tin khác
và/hoặc đặt chúng trước quy trình phân tích
chặt chẽ và chọn lọc khắt khe. Dù sao thì FRUS
cũng đáng tin cậy và cần tham cứu để
sử dụng, nhất là khi so sánh với những
“nguồn tài liệu” khác rất đáng nghi
ngờ, nhưng lại thường được đa
số những “bình luận gia” người
Việt cả trong lẫn ngoài nước, nhất là
ở hải ngoại, sử dụng để
“đầu độc chính trị” nhau nhiều
hơn là để trình bày sự thật.
Một cách cụ thể, chúng tôi xin cung cấp
hai đường link sau đây để độc
giả có thể truy cập tất cả tài liệu FRUS
liên quan đến quan hệ Việt-Mỹ trong năm 1963:
1- FRUS 1961-1963, Volume III: Vietnam January - August 1963:
2- FRUS 1961-1963, Volume IV: Vietnam August - December 1963:
-- o0o --
Năm 1963 là năm có đầy đủ
triệu chứng của một chế độ toàn
trị đang ở hồi cuối cùng của quy trình
hủy diệt. Đại sứ Trần Văn
Chương, thân phụ của bà Nhu, là ngƣời
đầu tiên dùng cụm từ “toàn trị”
để xác định đặc tính chính trị của
chế độ Diệm(3).
Để hiểu rõ hơn về biến
cố 1963, ta cần nắm bắt ba giai đoạn phân
chia cuộc đời chính trị của ông Ngô Đình
Diệm:
■ Trước 1954, ông là một chính
khách trôi nổi trong cuộc chiến Pháp-Việt, bị
kẹt giữa chính sách của Hội Truyền giáo Hải
ngoại (MEP) và truyền thống phục vụ nền
đô hộ Pháp của gia đình nên ông đã không xả
thân chống Pháp quyết liệt như các nhà cách mạng
đương thời. Khi thì làm quan Nam Triều nên
Việt Minh ghét ông, khi thì theo Nhật nên Tây muốn bắt
ông, khi thì ẩn mình trong tu viện, khi thì “bao năm
từng lê gót nơi quê người”, không uy tín, không
lực lượng ngoại trừ một nhóm tín
đồ Thiên Chúa giáo bản địa ủng hộ.
Quốc tế không biết đến ông, lại vốn
không có gốc rễ trong quần chúng nên ông không có một
hoạt động nào có tác động đáng kể vào
cuộc vận động giải thực gian khổ
của toàn dân.
Đây là giai đoạn ông Diệm có
thể có Tâm nhưng chắc chắn không có Tài, ai
theo ông cũng được, không theo ông cũng chẳng
sao. Ông chỉ là một “chính khách xa lông”
như ta thường gọi.
■ Giai đoạn thứ nhì là từ 1954
đến 1959: Đó là lúc Mỹ thay Pháp tham dự vào
thế cờ Đông Dương để xây dựng
một tiền đồn chống lại chiến
lược bành trướng của Cọng sản
Quốc tế tại châu Á. Ông may mắn có hai yếu
tố mà các chính khách Việt Nam đương thời
không có: Mỹvà Vatican. Ông cũng may
mắn có ông anh Giám Mục quen biết với lãnh tụ
số một của Công giáo Mỹ trong thời kỳ
đó. Cho nên ông được cường quốc Mỹ
hỗ trợ thay thế Bảo Đại của Pháp. Ba
“bà mụ” chăm sóc để hóa thân ông thành
“phép lạ” của Mỹ là Hồng y Francis
Spellman, Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, và Ngoại
trưởng John Foster Dulles(4).
Với hai thế lực quốc tế và bảo chứng
của vị vua triều Nguyễn, ông về nước,
“phất cờ” và được hầu như
toàn dân miền Nam ủng hộ để xây dựng
miền Nam mà chống Cọng. Quân viện và kinh viện,
nhân sự và văn hóa của Mỹ ào ạt đổ vào
miền Nam, giúp ông vượt qua mọi trở ngại
để thành lập nền Cọng hòa. Lãnh đạo
miền Bắc vừa phải chờ gần hai năm
để Tổng Tuyển cử, lại vừa bận lo
chữa vết thương chiến tranh sau 9 năm
đánh Pháp, nên miền Nam được tạm ổn,
thanh bình và trù phú. Ông làm Tổng thống của một
nền Cọng hòa non trẻ, là một lãnh tụ không
giỏi nhưng gặp thời và được hai
thế lực đỡ đầu hết lòng yểm
trợ, nên thực hiện được nhiều thành
tích tại miền Nam.
Trong giai đoạn 5 năm nầy, ông Diệm
là người có thể vừa có Tâm vừa có Tài,
nhưng quan trọng hơn cả là ông được
thời thế, ai là người muốn xây dựng
miền Nam để chống Cọng thì phải ủng
hộ ông. Ông là một ông quan phụ mẫu chi dân tuyệt
vời trong một chế độ dân chủ khập
khiểng.
■ Giai đoạn cuối là từ năm
1960 với những bước ngoặt oan trái, hệ
quả của nền cai trị độc tài của ông
mấy năm trước và của bản chất phong
kiến gia đình trị, tổng hợp chất Thiên Chúa
giáo Trung cổ và quan lại Tống Nho của văn hóa gia
tộc ông. Năm 1960, chánh sách nội trị của ông
phạm nhiều sai lầm nên bị chính quân dân miền Nam
chống đối. Từ đầu năm, nhóm trí
thức Bắc di cư trong báo Tự Do công
khai tố cáo hành động đục khoét miền Nam
của gia đình họ Ngô với bức tranh 5 con
chuột trên bìa báo Xuân Canh Tý. Tiếp theo là thảm bại
của Sư đoàn 13 tại Trảng Sập (Tây Ninh) vào
ngày 26/1 dù lực lượng chính phủ đông và mạnh
hơn. Đến tháng 4, nhóm 17 nhân sĩ trí thức và
một linh mục (trong đó có 11 người đã
từng là chiến hữu hoặc cọng tác viên cũ
của ông Diệm) thuộc nhóm Tự Do Tiến
Bộ ra Tuyên ngôn (tại khách sạn Caravelle) tố
cáo tình trạng độc tài, tham nhũng, kém hữu
hiệu và đòi ông thay đổi nhân sự cũng như
chính sách. Tháng 11, các sĩ quan chỉ huy binh chủng
Nhảy Dù cùng nhiều nhân vật đảng phái quốc
gia tập họp trong Liên Minh Dân Chủ và Mặt
trận Quốc gia Đoàn kết đã phát
động cuộc binh biến, đánh thẳng vào dinh
Độc Lập, đòi ông Diệm cải tổ toàn
diện cơ cấu lãnh đạo quốc gia để
xây dựng lại chính nghĩa và nâng cao hiệu năng
chiến đấu của quân dân miền Nam. Tháng 12, Hà
Nội cho ra đời và công khai hóa Mặt Trận Dân
Tộc Giải Phóng Miền Nam, làm điểm tụ
lực để thu hút quần chúng bất mãn hầu
tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang, thách thức
tính chính thống của Việt Nam Cọng Hòa trên cả
hai mặt quốc tế và quốc nội. Nhưng 5
biến cố đó cũng không tác hại sâu sắc
bằng tình trạng kể từ năm 1960, hai ông bà Ngô
Đình Nhu bắt đầu khuynh loát rồi cuối cùng
khống chế trung tâm quyền lực quốc gia ở
Dinh Gia Long, từ từ đẩy ông Diệm vào vai trò
thứ yếu trong công việc quản trị miền Nam.
Ông làm Tổng thống như một vua Lê bù nhìn bên (ông bà)
chúa Trịnh lộng quyền.
Đây là giai đoạn chót, ông Diệm mất
đi cả cái Tâm lẫn cái Tài, nhưng vẫn cùng gia
đình cao ngạo bám vào ghế lãnh đạo quốc gia
nên hại nước hại dân, vì vậy ai là người
có trí và có lòng thì cũng phải chống ông. Từ
người hùng của thời thế, ông Diệm trở
thành tội nhân của lịch sử. Đó có phải là
nhiệm ý Thiên Chúa chăng?
Vì cái năm bản lề 1960 nhiều biến
động đó mà những năm sau, miền Nam bắt
đầu suy thoái, chịu đựng hết cuộc
khủng hoảng nầy đến cuộc khủng
hoảng khác:
Thật vậy, năm 1961, trong lúc nền kinh
tế quốc gia vẫn còn phụ thuộc nặng nề
vào kinh viện Mỹ(5) thì tình hình an ninh hầu
như bị suy sụp một cách đáng quan ngại, nhất
là ở nông thôn, nơi Việt Cọng kiểm soát 80%(6) đến nỗi ngày 10-10-1961, ông Diệm
phải ban bố “tình trạng khẩn cấp trên toàn
lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.”(7)
Và hai tháng sau, ngày 7-12-1961, ông Diệm đã gửi thư cho
Tổng thống Kennedy xin tăng thêm viện trợ vì
“Việt Nam Cọng Hòa đang phải đối
đầu với một thảm họa lớn nhất
trong lịch sử”(8).
Qua năm 1962, sáng ngày 27 tháng 2, hơn một năm sau
“Đảo chánh Nhảy dù”, hai sĩ quan của
một binh chủng khác của quân đội lại hành
động: Trung úy Phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn
Văn Cử đã bay 2 chiếc Skyrider A-1 ném bom Napalm và
bắn rocket vào dinh Độc Lập với mục
đích tiêu diệt toàn bộ lãnh đạo đầu não
của Đệ Nhất Cọng hòa. Trong khi đó thì ngoài
chiến trường, các đơn vị vũ trang
của Việt Cọng bắt đầu thách thức quân
lực VNCH trên cả 4 Quân khu, đánh chiếm nhiều
đồn bót, pháo kích vào các quận huyện ven thủ
đô Sài Gòn. Đặc công của họ còn dám đặt
chất nổ tại các thành thị và bắt cóc các viên
chức của chế độ(9).
Tình trạng an ninh khẩn trương đến nỗi
ngày 31-3-1962, ông Diệm đã phải gửi thông
điệp cho 92 quốc gia trên thế giới yêu cầu
ủng hộ VNCH chống cuộc xâm lăng của
Cọng sản(10). Như vậy, “Sau
sáu năm trời làm một thứ Quốc trưởng
không ai lay chuyển nổi, Diệm vẫn bất an.
Sự ủng hộ của nhân dân phai lạt, quân
đội không thể chiến đấu theo lối
chiến tranh cách mạng của Việt Cộng, còn kinh
tế quốc gia hầu hết hoàn toàn phụ thuộc vào
viện trợ Mỹ”(11).
Và, cuối cùng, năm 1963 định mệnh cũng
đến!
Trong năm 1963 đó, những biến cố
dồn dập khuấy động một miền Nam
hừng hực lửa. Những biến cố nầy là do
hệ quả tích lũy từ các nguyên nhân các năm
trước hoặc được khởi động
đột biến ngay trong chính năm 1963: Từ thảm
bại Ấp Bắc đến Phúc trình Mansfield
(đặt câu hỏi căn bản rằng “Chúng ta
có thể thắng Cọng sản với Diệm không?”);
từ cuộc đấu tranh rồi bị đàn áp
của Phật giáo đến hành động quyên sinh
của văn hào Nhất Linh; từ rạn nứt quan
hệ với Mỹ đến những tiếp xúc
thỏa hiệp với Hà Nội; từ gần 10 âm mưu
đảo chánh của các sĩ quan trung cấp ngay
đầu năm 1963 đến chính ông Nhu cũng dự định
đảo chánh ông Diệm trong kế hoạch Bravo I
để thay ông Diệm… Tất cả như
những ngọn sóng, trùng trùng điệp điệp
đan bện vào nhau đổ ụp xuống chế
độ ông Diệm vào ngày 1-11-1963. Và vào sinh mạng hai anh
em ông ngày 2-11-1963.
Phật giáo hay không Phật giáo, Quân đội
hay không Quân đội, Mỹ hay không Mỹ, cuối cùng thì
nhân nào quả nấy. Và lịch sử sang trang. Phải
sang trang…
-- o0o --
Nhiều tài liệu đã đề cập
đến những ngày xao động của năm 1963.
Trong tập sách nầy, thông qua các nguồn tài liệu
Mỹ mà chủ yếu là từ FRUS, chúng tôi chỉ
muốn cung cấp thêm một số dữ
kiện do người Mỹ phát hiện nhưng không
được đông đảo người Việt Nam
biết đến. Sau đây là vài ví dụ:
- Trong vụ nổ súng tại Đài Phát thanh
Huế ngày 8-5-1963, lúc đầu, binh sĩ chính quy
được lệnh đàn áp đám đông Phật
tử nhưng họ từ chối. Do đó, cuối cùng,
chính địa phương quân của Thiếu tá
Đặng Sỹ đã nổ súng và ném lựu đạn.
(FRUS 1961-1963, Vol. III, Doc. 116).
- Ngày 3/6/1963 tại Huế, sinh viên và
đồng bào tại Huế biểu tình và đã bị
quân đội phun hóa chất để giải tán (FRUS
1961-1963, Vol. III, Doc. 146 và 147).
- Tướng Lê Văn Kim là tướng lãnh
đầu tiên đề cập với ngƣời
Mỹ, ông Rufus Phillips của USOM, về ý định
của quân đội sẽ loại bỏ ông Nhu nếu
Mỹ có cùng một thái độ cứng rắn như
thế. Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Đình
Thuần và Chánh Văn phòng Phủ Tổng thống Võ
Văn Hải cũng muốn Mỹ tỏ thái độ
muốn loại bỏ ông Nhu. (Pentagon Papers trích dẫn FRUS 1961-1963,
Vol III, Doc. 274).
- Tướng Trần Văn Đôn cho
người Mỹ biết giữa ông Diệm và bà Nhu không
có quan hệ xác thịt nhưng ông Diệm xem bà Nhu như
một người vợ lý tưởng thuần khiết
(platonic wife) như Hitler đối với Eva Braun, và ông
Diệm đã từng thăng chức cho một
người làm vườn tại Đà Lạt từ Trung
sĩ lên Trung tá chỉ vì người nầy trắng
trẻo đẹp trai (FRUS 1961-1963, Vol I I I, Doc. 275).
- Việc ông Nhu lừa dối các
tướng lãnh khi cho Lực Lượng Đặc
Biệt giả danh quân đội tấn công các chùa tại
Sài Gòn đêm 20/8/1963 khiến cả Mỹ lẫn dân chúng
Việt Nam lên án quân đội, đã là một bước
ngoặt mạnh mẽ khiến Quân đội dứt khoát
muốn loại bỏ ông Nhu hơn. (FRUS 1961-1963, Vol III, Doc.
274).
- Từ năm 1962, sau cuộc đảo
chánh của Nhảy Dù và vụ oanh kích của 2 Phi công, và
trước khi xảy ra vụ Phật giáo, Mỹ đã
đánh giá là miền Nam sẽ bị nhuộm đỏ vì
gia đình họ Ngô đa nghi, kém hiệu quả và mất
lòng dân (FRUS 1961-1963, Vol II, 1962, Doc. 268).
- Sau cuộc tự thiêu của Hòa thượng
Thích Quảng Đức, ngày 25/6, ông Nhu đã nói thẳng
với người Mỹ rằng ông chống đối
ông Diệm, và chính phủ hiện tại phải bị
loại bỏ. Ông Nhu trình bày điều nầy trong
một tình trạng xúc động cao độ (FRUS
1961-1963, Vol III, Doc. 256).
- Một đội cảnh sát đặc
biệt của bà Nhu được thành lập và do
ngƣời em của bà là Trần Văn Khiêm chỉ huy.
Ông Khiêm đã cho một ký giả người Úc xem một
danh sách các viên chức Mỹ tại Sài Gòn mà ông đang lên
kế hoạch ám sát (FRUS 1961-1963, Vol IV, Doc. 68).
- Nhiều quan chức Việt Nam cho biết
quyền lực thực sự nằm trong tay ông Nhu, ông
Diệm chỉ là “búp bê” của ông Nhu. Cả hai
ông Nguyền Đình Thuần và Võ Văn Hải đều
xác nhận ông Nhu hút thuốc phiện từ hai năm
rồi. Trạng thái tâm thần hoảng loạn của ông
Nhu hiện rõ khi ông tuyên bố chỉ có ông mới cứu
được Việt Nam. (FRUS 1961-1963, Vol IV, Doc.110).
- Bà Trần Văn Chương, thân mẫu
của bà Nhu, gọi bà Nhu là “đồ quỷ”
(monster), ông Nhu là “hung nô” (barbare), ông Diệm là
“kẻ bất tài” (incompetent). Còn ông Trần Văn
Chương, Đại sứ VNCH tại Mỹ, thì bàn
thảo với các nhà hoạt động để thành
lập một chính phủ lưu vong để lật
đổ nhà Ngô (FRUS 1961-1963, Vol IV, Doc.118).
- Khoản tiền 42,000 Mỹ Kim đã do CIA trao
trước đó để dùng mua thực phẩm cho
chiến binh VNCH và dùng làm tiền tử tuất cho gia
đình tử sĩ trong cuộc binh biến 1-11-1963.
Tướng Dương Văn Minh hai lần điện
thoại tới ông Diệm, đề nghị hai anh em
Diệm-Nhu đầu hàng sẽ được an toàn
xuất ngoại. Ông Diệm hai lần từ chối. (Phúc
Trình Thượng Viện Hoa Kỳ Số 94-465).
- Vân vân…
Đó chỉ là vài ví dụ. Xin bạn
đọc từ từ đọc hết 26 tài
liệu…
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Chính biến
1-11-1963, chúng tôi hy vọng tập sách nầy sẽ là
một nhắc nhở đến những độc giả
muốn tìm hiểu lịch sử Việt Nam thời
cận đại một điều ai cũng đã
biết, rằng trong tình trạng nhiễu loạn thông tin
và nhiễu nhương thế sự hiện nay, hiểu
được và đánh giá đúng một sự kiện
thì thật là khó khăn.
Trân trọng,
Nhà Xuất bản Thien Tri Thuc Publications
P.O. Box 4805
Garden Grove, CA.92842-4805
U.S.A.
________________
CƯỚC CHÚ:
(3) FRUS 1961-1963, Tập III, Memo của Forrestal
gửi Harriman ngày 8-3-1963.
(4) Joseph Buttinger, Vietnam: A Political History. New
York: Frederick A. Praeger, 1968.
(5) Bernard C. Nalty, Rival Ideologies in Divided Nations
(Vietnam War), tr. 62; và Frances Fitzgerald, Fire in the Lake,
tr. 101-104.
(6) Robert Scigliano, Vietnam, A Country At War.
(7) Sắc lệnh số 209-TTP của Tổng
Thống Phủ - Đoàn Thêm, Những ngày Chưa quênĐại
Nam, 1967 – Nam Chi Tùng Thư tái bản.
(8) Marvin E, Gettlemen, Vietnam History, Documents and
Opinionsm và Đoàn Thêm,Những ngày Chưa quên, Đại
Nam, 1967 – Nam Chi Tùng Thư tái bản.
(9) Stanley Karnow, Vietnam, A History, New York: King
Presss, 1983.
(10) Đoàn Thêm, Những ngày Chưa quên, Đại
Nam, 1967 – Nam Chi Tùng Thư tái bản.
(11) Bernard C. Nalty, Rival Ideologies in Divided Nations
(Vietnam War), tr. 62.
MỤC LỤC
● LỜI GIỚI THIỆU (trang
7)
● PHẦN I - CUỘC VẬN ĐỘNG
BÌNH ĐẲNG TÔN GIÁO NĂM 1963 CỦA PHẬT GIÁO
VIỆT NAM
1- FRUS III (9-5-1963): Các điện văn
trao đổi giữa Huế, Sài Gòn và Washington (trang
21)
2- CIA (11-5-1963): Báo cáo cho Tổng thống
Mỹ về cuộc thảm sát tại Huế năm
1963 (trang 39)
3- FRUS III (1-8-1963): Tấn công Hóa học
ở Huế (trang 43)
4- Pentagon Papers (20-8-1963): Chiến
dịch Tổng tấn công chùa đêm 20-8-1963 và các hệ
quả(trang 49)
5- Trần Văn Đôn / Việt Nam Nhân
Chứng (20-8-1963): Cuộc tấn công các Chùa đêm
20-8-1963(trang 70)
6- FRUS III (24-8-1963): CIA - Cuộc nói
chuyện bí mật của Tướng Trần Văn
Đôn (trang 76)
7- Bộ Ngoại giao (24-8-1963): Điện
văn tối mật số 243 ngày 24-8-1963 (trang 92)
8- FRUS III (24-8-1963): Điện
văn 274, Chiến dịch tấn công chùa (trang 99)
9- Liên Hiệp Quốc (7-12-1963): Bản
Phúc trình của Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp
Quốc (trang 105)
10- Liên Hiệp Quốc (7-12-1963): Phúc trình
Liên Hiệp Quốc A/5630 đã kết luận như
thế nào?(trang 109)
● PHẦN II – TÌNH HÌNH CHÍNH QUYỀN
NGÔ ĐÌNH DIỆM TRONG NĂM 1963
1- FRUS II (1/1962): Nhiều ngàn Sĩ quan VNCH
cải đạo để tiến thân (trang 125)
2- CIA (10-7-1963): Bản đánh giá Tình báo
Quốc gia đặc biệt (trang 132)
3- FRUS II (16-8-1962): Năm 1962, Mỹ đã
thấy mất Việt Nam (trang 153)
4- FRUS III (16-8-1963): Ngô Đình Nhu muốn
thay thế ông Diệm làm Tổng thống (trang 170)
5- Howard Jones / Death of A Generation: Ngô Đình
Nhu thương thuyết với Hà Nội (trang 181)
6- FRUS IV (6-9-1963): Điện văn 68 ngày
6-9-1963, Nhu thiết lập danh sách nhân viên Mỹ sẽ
bị ám sát (trang 204)
7- FRUS IV (15-9-1963): Mỹ thấy lính và dân
Việt Nam phẩn nộ (trang 210)
8- FRUS IV (16-9-1963): Điện văn 118
– Thân phụ và thân mẫu bà Nhu kêu gọi lật
đổ nhà Ngô(trang 219)
9- FRUS IV (26-9-1963): Bộ trưởng
Quốc phòng McNamara viết từ Sài Gòn: Diệm Nhu đàn
áp toàn dân (trang 224)
10- FRUS IV (7-10-1963): Vua Lê Ngô Đình Diệm
và Chúa Trịnh Ngô Đình Nhu (trang 232)
11- Tòa Bạch Ốc / Cục An Ninh Quốc Gia
(11-10-1963): Mỹ đã thấy mất Việt Nam
từ cuối năm 1961 (trang 244)
12- Thượng Viện Hoa Kỳ
(30-10-1963): Áp lực giờ chót của Mỹ đòi
hủy bỏ cuộc lật đổ nhà Ngô(trang 261)
● PHẦN III – VÀI TÀI LIỆU
TỔNG HỢP
1- CIA (4/1966): Thích Trí Quang và Mục tiêu Chính
trị của Phật giáo tại Nam Việt Nam (trang
271)
2- CIA (7/1966): Chính quyền Johnson nhìn
lại biến cố 1963 (trang 310)
3- The Pentagon Papers (1/1969): Biến
động Phật giáo từ 8-5 đến 21-8 năm
1963 (trang 314)
4- Tâm Diệu (10/2013): Phật giáo và
cuộc Chính biến 1-11-1963 (trang 328)
Xin các nhà nghiên cứu liên lạc với Nhà
Xuất bản Thien Tri Thuc Publications, PO Box 4805,Garden Grove,
CA.92842-4805 để nhận ấn bản giấy.
Để đọc phiên bản điện
tử, xin truy cập vào đường link:
Nguồn http://hoangnamgiao.blogspot.com/2013/12/ho-so-mat-1963-tu-cac-nguon-tai-lieu.html